Đề tài Thực trạng sản xuất và tiêu thụ muối Bạc Liêu

Muối là chất rất cần thiết, không thể thiếu trong cuộc sống con người. Ngoài công dụng làm gia vị, dược liệu cần thiết hàng ngày cho nhân dân, làm món hàng xuất nhập khẩu đáng kể, muối ăn còn là nguyên liệu quan trọng cho nhiều ngành công nghiệp chế biến, công nghiệp hóa học. Với rất nhiều công dụng như vậy, nên nhu cầu tiêu thụ muối trong nước lẫn ngoài nước hàng năm là rất cao.

doc25 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1744 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng sản xuất và tiêu thụ muối Bạc Liêu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Muối là chất rất cần thiết, không thể thiếu trong cuộc sống con người. Ngoài công dụng làm gia vị, dược liệu cần thiết hàng ngày cho nhân dân, làm món hàng xuất nhập khẩu đáng kể, muối ăn còn là nguyên liệu quan trọng cho nhiều ngành công nghiệp chế biến, công nghiệp hóa học. Với rất nhiều công dụng như vậy, nên nhu cầu tiêu thụ muối trong nước lẫn ngoài nước hàng năm là rất cao. Chính vì thế việc sản xuất và tiêu thụ muối đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Trên thực tế, sản phẩm muối Việt Nam từ lâu đã được người tiêu dùng thế giới ưa thích, bởi tính chất của vùng đất này đã tạo nên hạt muối có vị ngọt mà không đắng. Và hàng năm, thu nhập từ việc xuất khẩu muối đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đáng kể. Vì vậy, vấn đề đặt ra trong những năm tới là phải nâng cao chất lượng và hình thức của sản phẩm muối Việt Nam, để đưa sản phẩm muối Việt xâm nhập thị trường thế giới. Muốn làm được điều này thì đòi hỏi các nhà kinh tế phải biết khai thác tốt tiềm năng vốn có về tài nguyên thiên nhiên, về lực lượng lao động của từng vùng kinh tế ven biển. Từ đó, góp phần khôi phục và phát triển nghề muối ở những vùng đất vốn có tiềm năng sản xuất nhưng chưa được khai thác tốt này. Nước ta có bờ biển rất dài trên 3.000 km, rất thuận lợi cho việc phát triển nghề làm muối. Có rất nhiều tỉnh ven biển xem nghề làm muối là một thế mạnh để thúc đẩy kinh tế của vùng. Trong số các tỉnh đó, thì Bạc Liêu là nơi có truyền thống sản xuất muối từ lâu đời và muối Bạc Liêu rất nổi tiếng về chất lượng. Muối được sản xuất ở Bạc Liêu có một hương vị đậm đà, dịu ngọt rất độc đáo vì trong muối có hàm lượng Magiê, Canxi, Sunfat... rất thấp do không có các vùng đá vôi ven biển, không gây vị đắng khó chịu. Bên cạnh đó, vùng đất nơi đây có độ bay hơi nước biển rất cao, độ hấp thụ nhiệt của đất rất mạnh, kết cấu đặc chặt của đất, các nguyên tố vi lượng của nước biển…đã góp phần làm cho muối Bạc Liêu có một hương vị rất đặc trưng.Chính vì vậy, chất lượng muối Bạc Liêu được người tiêu dùng đánh giá rất cao. Mặc dù có nhiều lợi thế về tài nguyên và nhiều bài học kinh nghiệm trong sản xuất nhưng nghề làm muối ở Bạc Liêu vẫn chưa phát huy hết tiềm năng để góp phần thúc đẩy kinh tế tỉnh nhà. Ngược lại còn có xu hướng bị mai một do giá cả biến động và phải đối mặt với một số khó khăn trong quá trình sản xuất nên nhiều hộ diêm dân đã chuyển sang nuôi trồng thủy sản. Nếu không có lối ra nào cho nghề làm muối ở Bạc Liêu thì nghề làm muối nơi đây sẽ khó mà tồn tại lâu dài. Và đây cũng là băn khoăn của những ai quan tâm đến việc phát triển nền kinh tế ở Bạc Liêu.Nhận thấy được đều đó em quyết định chọn đề tài cho chuyên đề 3 năm của mình là : “Thực trạng sản xuất và tiêu thụ muối Bạc Liêu” nhằm đánh giá tình hình sản xuất và tiêu thụ muối Bạc Liêu trong giai đoạn trên, bên cạnh đó tìm ra một số giải pháp giúp khắc phục khó khăn và tìm ra hướng phát triển cho nghề làm muối ở Bạc Liêu. 2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI: 2.1.Mục tiêu chung Chuyên đề này đi sâu phân tích tình hình sản xuất và tiêu thụ muối Bạc Liêu trong giai đoạn từ năm 2008 đến tháng 9-2011 và đề ra những giải pháp chung để đây mạnh sản xuất và tiêu thụ muối Bạc Liêu trong giai đoạn sắp tới. 2.2.Mục tiêu nghiên cứu cụ thể - Phân tích tình hình sản xuất và tiêu thụ muối Bạc Liêu trong giai đoạn từ năm 2008 đến tháng 9 năm 2011. - Đánh giá những thuận lợi và khó khăn trong quá trình sản xuất và tiêu thụ muối Bạc Liêu. - Đề xuất những giải pháp cụ thể để khắc phục những khó khăn và dựa vào những thuận lợi đã có để tìm ra hướng phát triển cho muối Bạc Liêu trong giai đoạn tới. 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI: - Sử dụng phương pháp thống kê mô tả, cùng với việc phân tích đánh giá nhằm tìm hiểu tình hình sản xuất và tiêu thụ muối Bạc Liêu. - Thu thập, tổng hợp thông tin thứ cấp và số liệu từ tạp chí, sách báo, Internet… 4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI: Do tính chất và yêu cầu của chuyên đề, nên em chỉ đi sâu phân tích và đánh giá tình hình sản xuất muối tại Bạc Liêu. Còn về tiêu thụ thì chỉ phân tích tình hình tiêu thụ muối Bạc Liêu ở đồng bằng sông Cữu Long và tình hình xuất khẩu muối ra nước ngoài trong giai đoạn từ năm 2008 đến tháng 9 năm 2011. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ MUỐI BẠC LIÊU TRONG GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2008 - 2011 1.1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH SẢN XUẤT Bạc Liêu là vùng đất có truyền thống sản xuất muối từ rất lâu đời, tập trung chủ yếu ở các xã Vĩnh Thịnh, Vĩnh Hậu, Vĩnh Hậu A (huyện Hòa Bình); xã Long Ðiền Tây, Long Ðiền, thị trấn Gành Hào (huyện Ðông Hải). Muối Bạc Liêu đã trở thành một thương hiệu nổi tiếng cả nước. Hàng năm, giá trị thu được từ sản xuất muối góp phần tăng nhanh tỷ trọng phát triển sản xuất. Tuy nhiên, khi đánh giá thực trạng thì hiệu quả sản xuất và tiêu thụ muối nơi đây chưa cao, nguyên nhân là do nhiều nhân tố tác động. Trong số những nhân tố đó thì phương pháp sản xuất có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cũng như năng suất của muối Bạc Liêu. 1.1.1. Định nghĩa, thành phần, phân loại muối : Trong hóa học, muối là một khái niệm chung dùng để chỉ một hợp chất được tạo bởi phản ứng trung hòa của axít. Muối là một hợp chất ion bao gồm các ion dương và ion âm trung hòa về điện tích. Các ion thành phần có thể là vô cơ như clorua (Cl − ), hoặc hữu cơ như acetat (CH 3 COO − ) và các ion một nguyên tử như fluorua (F − ), hoặc ion đa nguyên tử như sulfat (SO 4 2− ). Có nhiều loại muối khác nhau. Một số loại muối khi hòa tan trong nước tạo ra các ion hydroxit gọi là muối bazơ và một số loại khi hòa tan trong nước tạo ra các ion hydroni gọi là các muối axít. Các muối trung hòa là các muối còn lại. Zwitterion chứa một ion dương và một ion âm trong cùng một phân tử nhưng nó không được xem là muối. Ví dụ như các axit amin, một số metabolit, peptit và protein. Khi các muối hòa tan trong nước, chúng được gọi là chất điện phân, và có khả năng dẫn điện, một đặc điểm giống với các muối nóng chảy. Hỗn hợp của nhiều ion khác nhau ở dạng hòa tan trong tế bào chất của tế bào, trong máu, nước tiểu, nhựa cây và nước khoáng— thường không tạo nên muối sau khi nước bốc hơi hết. Tuy nhiên, hàm lượng muối trong chúng được tính theo lượng ion có mặt trong đó. Muối ăn hay trong dân gian còn gọi đơn giản là muối (tuy rằng theo đúng thuật ngữ khoa học thì không phải muối nào cũng là muối ăn) là một khoáng chất, được con người sử dụng như một thứ gia vị tra vào thức ăn. Có rất nhiều dạng muối ăn: muối thô, muối tinh, muối iốt. Đó là một chất rắn có dạng tinh thể, có màu từ trắng tới có vết của màu hồng hay xám rất nhạt, thu được từ nước biển hay các mỏ muối. Muối thu được từ nước biển có các tinh thể nhỏ hoặc lớn hơn muối mỏ. Trong tự nhiên, muối ăn bao gồm chủ yếu là clorua nátri (NaCl), nhưng cũng có một ít các khoáng chất khác (khoáng chất vi lượng). Hình 1 : Tinh thể muối 1.1.2.Phương pháp sản xuất và chế biến Hình 2: Diêm dân làm muối theo phương pháp trải bạt. Tuy nghề làm muối có truyền thống từ lâu đời nhưng diêm dân sản xuất theo tập quán cổ truyền, sân đất được nện chặc, sử dụng quạt gió và máy bơm đưa nước vào bể lắng, sau đó vào ô phơi. Nhờ nắng và gió làm nước bốc hơi nên kết tinh ra hạt muối. Nhìn chung, các công đoạn sản xuất đều thủ công và thường chịu rủi ro từ thiên nhiên như nắng, gió, thủy triều, nên chất lượng hạt muối chưa cao, còn lẫn nhiều tạp chất. Trên 80% sản lượng muối đều là muối đen chất lượng thấp chủ yếu dùng ướp bảo quản thủy sản, làm khô mắm hoặc tiêu dùng gia đình…Thực tế quy trình sản xuất muối Bạc Liêu còn mang tính thủ công, công nghệ chế biến chưa được đầu tư đúng mức về kỹ thuật. Toàn tỉnh chỉ có hai doanh nghiệp là Công ty cổ phần muối và thương mại Bạc Liêu và Công ty cổ phần muối Đông Hải (DOSASCO) ở huyện Đông Hải chuyên sản xuất, chế biến và kinh doanh muối. Ngoài ra, bà con diêm dân vẫn giữ thói quen sản xuất muối theo phương pháp cổ truyền, tổ chức sản xuất theo quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, chưa nắm bắt được thông tin thị trường. Trong khi đó, nhiếu vùng sản xuất muối trong nước cũng như ngoài nước đã áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất và chế biến như: mô hình sản xuất muối sạch ở sa huỳnh với cách làm như sau: Dùng xi măng chịu mặn để tạo nên ruộng muối. Đáy ruộng được lắp ghép bằng những tấm bê tông đúc sẵn với xi măng chịu mặn, trít mạch, tạo nên đáy bằng phẳng. Bờ ruộng được xây bằng xi măng với chân cũng bằng bê tông. Nước mặn đưa vào ruộng được lọc kỹ ở các cửa dẫn nước. Cũng nhờ năng lượng mặt trời, muối tự kết tinh. Muối thu hoạch được rất sạch, trắng tinh, thu hoạch 2 - 3 lần mới rửa đáy ruộng, nhưng không phải làm lại đáy, nên công việc nhẹ nhàng hơn.. Mô hình muối này rất hiệu quả, bà con diêm dân Bạc Liêu nên tham khảo nhằm nâng cao chất lượng cũng như sản lượng muối Bạc Liêu trong thời gian sắp tới. 1.1.3. Sản lượng sản xuất: Nghề làm muối ở Bạc Liêu là nghề chịu rủi ro từ thiên nhiên, nên sản lượng muối qua các năm không ổn định. Hơn thế nữa, giá muối tăng giảm đột ngột, làm ảnh hưởng đến tâm lý sản xuất của diêm dân. Khi giá muối giảm thì bà con chuyển sang nuôi trồng thủy sản, làm cho diện tích làm muối giảm kéo theo sản lượng muối giảm đáng kể. Khi giá muối đột ngột tăng cao thì bà con quy hoạch lại đồng muối. Chỉ tính từ năm 2008 –tháng 9-2011 thì sản lượng muối Bạc Liêu đã có những thay đổi : Chỉ tiêu Đơn vị 2008 2009 2010 9-2011 Diện tích Ha 2.600 3.200 3.140 3.330 Sản lượng Tấn 90.000 50.000 266.092 77.000 Năng suất Tấn/ha 34.6 15.6 76 76 Bảng 1.1. Tổng diện tích, sản lượng, năng suất muối Bạc Liêu qua các năm. (Nguồn: thu thập số liệu từ bài “Gỡ khó cho người làm muối” và một số bài khác trên trang Năm 2008, Bạc Liêu có hơn 2.600 ha sản xuất muối, với sản lượng khoảng 90.000 tấn, muối trắng chiếm tỷ lệ 30% và mùa vụ thu hoạch trễ hơn 1 tháng. Tại đồng, thương lái mua muối đen với giá 1.400 - 1.500 đồng/kg, muối trắng 1.900-2.000 đồng/kg, tăng trung bình từ 400 - 700 đồng/kg so với cuối năm 2007 và tăng cao kỷ lục trong nhiều năm qua. Với giá tăng cao, diêm dân thu lãi khá cao, hơn 20 triệu đồng/ha. Mặc dù giá muối đang leo thang nhưng diêm dân cũng không còn muối để bán. Đây là năm đầu tiên diêm dân Bạc Liêu sản xuất muối không đủ bán và thu lãi khá. Bên cạnh đó, đầu vụ diêm dân thiếu vốn nên thu bao nhiêu bán hết để lấy tiền đáo sản xuất. Các vựa muối ở Bạc Liêu cũng không còn muối để bán, nên giá muối đã tăng vọt. Trung bình vốn đầu tư sản xuất 1 ha muối là 9,5 triệu đồng, với 1.900 ha đất muối, diêm dân cần trên 18 tỷ đồng nên có rất nhiều diêm dân vẫn phải bán muối non. Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) tỉnh Bạc Liêu, cuối năm 2008, tỉnh còn tồn 31.520 tấn muối do diêm dân địa phương dự trữ chờ giá tăng. Đây cũng là năm có sản lượng muối tăng cao nhất trong vòng 4 năm trở lại đây. Vì vậy năng suất muối đã tăng lên khoảng 5,2 tấn/ha so với năm 2007, cùng với việc giá muối năm nay tăng cao nên đời sống diêm dân đã được cải thiện. Đây chính là kết quả của một quá trình cải tạo, đổi mới sản xuất trong thời gian qua. Tuy nhiên, kết quả trên chỉ mới là bước chuẩn bị ban đầu cho quá trình hội nhập, ngành muối Bạc Liêu cần phải nổ lực nhiều, vì sản lượng muối có tăng nhưng vẩn chưa đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Năm 2009, những cơn mưa liên tiếp vào cuối tháng tư và ảnh hưởng của cơn bão số 1 đã đánh dấu chấm hết cho vụ muối năm 2009. Niềm mong mỏi trúng mùa, được giá của diêm dân nhanh chóng trôi theo từng bong bóng nước. Lần đầu tiên sau 10 năm, giá muối tăng cao kỷ lục, nhưng cũng lập một thành tích buồn về năng suất. Bất chấp cảnh báo của ngành chức năng, năm 2009, nhiều người dân ở Bạc Liêu đổ xô làm muối. Vụ muối năm 2008 chỉ hơn 2.600 ha, vụ này tăng lên hơn 3.200ha. Con số thực tế lớn hơn nhiều so với con số thống kê. Sở dĩ nhiều người bỏ nuôi tôm để làm muối vì giá muối đầu vụ năm 2009 rất cao - lên đến hơn 2.400 đồng/kg, cao nhất trong vòng 10 năm trở lại đây. Nhưng 3 đợt mưa giữa mùa nắng nóng đã làm họ khánh kiệt. Tại huyện Đông Hải, nhiều diêm dân thu hoạch không đủ tiền chi phí. Riêng Vĩnh Thịnh đã có gần 150 ha người dân mới chuyển sang làm muối. Số diện tích này năm nay hầu như chẳng thu hoạch được gì, do đất mới và mưa nắng thất thường. Theo tính toán của Sở NN&PTNT Tỉnh Bạc Liêu, 3 đợt mưa giữa mùa muối, ông trời đã “hớt tay trên” của diêm dân khoảng 58 tỉ đồng. Đợt một 14 tỉ đồng, đợt hai 23 tỉ đồng, đợt ba khoảng 21 tỉ đồng. Kết thúc vụ muối năm 2009, toàn  tỉnh Bạc Liêu thu hoạch chưa đến 50.000 tấn, chỉ bằng 34% kế hoạch năm, dù diện tích muối tăng gần 1.000ha. Muối thất, dự báo của ngành nông nghiệp nhiều khả năng giá muối năm 2009 sẽ tăng cao vào cuối năm. Mùa muối năm 2009 tại ĐBSCL đã kết thúc trong sự nghẹn ngào của diêm dân. Những tưởng thất mùa, trúng giá vẫn có lãi, nhưng “ông trời” đã cướp đi của họ những 3 lần hạt muối sắp sửa thu hoạch. Hiện giá muối đang tăng từng ngày, trong khi những tu muối trống không. Khả năng thiếu muối trong năm nay là điều khó tránh khỏi. Hình 3 : Cảnh thu hoạch muối tại Huyện Đông Hải, Tỉnh Bạc Liêu. Năm 2010, diêm dân Bạc Liêu trúng đậm mùa muối cao nhật từ trước tới nay. Theo Sở NN&PTNT tỉnh Bạc Liêu, năng suất muối lên đến hơn 76 tấn/ha, tăng gấp 5 lần so với năm 2009 và cao nhất từ trước đến nay. Huyện Đông Hải là vùng trọng điểm sản xuất muối của tỉnh Bạc Liêu. Năm 2010, toàn huyện có hơn 2.240 ha diện tích sản xuất muối với sản lượng muối lên đến hơn 183.000 tấn. Tập trung ở 3 xã Long Điền Đông, Long Điền Tây và Điền Hải. Hầu hết các hộ làm muối là hộ nghèo và cận nghèo. Năm nay, nhờ thời tiết thuận lợi, nắng nóng kéo dài nên người làm muối trúng đậm, năng suất muối trắng (có trải bạt) đạt hơn 170 tấn/ha, muối đen 80 tấn/ha, gấp 3 lần so năm 2009 và cao đạt kỷ lục từ trước đến nay. Trúng mùa nhưng người làm muối không vui, do giá muối thấp, muối đen chỉ 250 - 350 đồng/kg, muối trắng 600 - 650 đồng/kg, một số nơi giá thấp mà cũng không tiêu thụ được. Toàn huyện Đông Hải hiện còn tồn đọng hơn 152.000 tấn muối. Riêng xã Điền Hải, có diện tích sản xuất muối 800ha, lượng muối tồn đọng trên 59.000 tấn. Theo thống kê của cơ quan quản lý hiện nay diện tích muối đã được đưa vào sản xuất niên vụ 2011 tại Bạc Liêu lên đến 3.330ha tăng hơn năm 2010 gần 200ha và lượt quy hoạch sản xuất muối của năm 2011 trên 800ha hiện nay lượng muối vẫn còn tồn đọng từ các hộ làm muối năm 2010 trên 80.000 tấn.Lượng muối đợt đầu tiên năm 2011 trên gần 15.000 tấn nữa, dù cơ quan chức năng tìm đủ mọi cách để tiêu thụ muối nhưng do sản lượng quá lớn và hơn 90% muối mới và muối tồn đọng đều là muối đen nên rất khó tiêu thụ.Giá muối trong quý 1 có nhích lên, muối đen hiện có giá 450-500đ/kg tăng gần 150đ/kg so với cùng kì năm 2010, muối trắng hiện có giá 900đ/kg bằng năm 2010.Với giá muối như hiện nay diêm dân hòa vốn , không có tích lũy. Năm 2008, sản lượng muối dự trữ tăng lên 31.520 tấn. Còn đến tháng 10 năm 2010, sản lượng muối lại tồn đọng kỉ lục lên đến 200.000 tấn, vì giá quá thấp, càng bán càng lỗ. Trúng mùa nhưng mất giá, được giá nhưng mất mùa. Đây là một vấn đề nghịch lý, vì với điều kiện sản xuất muối ăn của nước ta là rất lớn tại sao chúng ta không đầu tư cho sản xuất, không quy hoạch, không định hướng để mở rộng diện tích tăng sản lượng muối ăn lên mà phải đi nhập khẩu với số lượng lên đến 200.000 tấn muối mỗi năm, từ năm 2000 đến nay. Riêng năm 2009, cả nước ta phải nhập khẩu hơn 326.000 tấn muối. Nếu làm tốt khâu quy hoạch nước ta sẽ trở thành nước xuất khẩu muối. Như vậy, sản lượng muối thì luôn thay đổi, trong khi đó nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu là tương đối ổn định. Điều này đặt ra một câu hỏi cho những nhà kinh tế là làm sao để sản lượng muối Bạc Liêu tăng ổn định hàng năm để không cần phải nhập khẩu muối. Ngoài ra, sản lượng muối Bạc Liêu còn có thể phục vụ tốt nhu cầu tiêu dùng ở Đồng Bằng Sông Cữu Long và để giải quyết các đơn đặt hàng của nước ngoài. Do sản lượng muối sẽ tiếp tục tăng trong thời gian sắp tới. Đây là vấn đề rất khả quan, nếu biết đầu tư và định hướng tốt thì ngành muối Bạc Liêu sẽ từng bước phát triển. 1.2. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH TIÊU THỤ 1.2.1. Thị trường tiêu thụ: Muối Bạc Liêu được tiêu thụ chủ yếu với các hình thức: muối hạt thô, muối tinh, muối iôt và muối nguyên liệu. Thị trường tiêu thụ hiện nay của muối Bạc Liêu là: Đồng Bằng Sông Cữu Long và được xuất khẩu ra nước ngoài. Hình 4. Các sản phẩm muối của Công ty muối Bạc Liêu. FTiêu thụ ở đồng bằng Sông Cữu Long: Hạt muối Bạc Liêu từng một thời nổi tiếng khắp xứ Nam Kỳ Lục tỉnh, và cho đến ngày nay danh hiệu đó vẫn còn. Ở đồng bằng sông Cữu Long, muối Bạc Liêu được tiêu thụ dưới dạng muối thô để chế biến thủy sản, và muối iôt để nhân dân tiêu dùng. Hiện toàn tỉnh có khoảng 3.500 ha đất sản xuất muối, sản lượng năm nay đạt trên 266.000 tấn muối, bảo đảm cung ứng cho 12 tỉnh ĐBSCL. Dù sản lượng muối làm ra khá lớn, tổng Công ty Cổ phần và thương mại muối Bạc Liêu chỉ thu mua khoảng trên dưới 10% tổng sản lượng muối sản xuất. Hiện nay bình quân mỗi tháng công ty này sẽ tiêu thụ khoảng 400 tấn muối để sản xuất ra 150 tấn muối ăn thành phẩm cung cấp cho các tỉnh trong khu vực số còn lại do diêm dân tự tìm nơi bán và giá cả cao hay thấp là do thương lái quyết định. Trước sức ép giá cả của thương lái, nhiều diêm dân đã phải tự chở muối đi bán, hoặc đổi nông sản chủ yếu đến những vùng sâu, vùng xa. Nhưng phương thức tự sản, tự tiêu của thời kinh tế tự cấp tự túc cũng không mấy hiệu quả. Ngoài ra, hạt muối Bạc Liêu còn chịu sự cạnh tranh gay gắt của các sản phẩm muối khác của các tỉnh khác trên thị trường đồng Bằng sông Cữu Long Mặc dù ngay thời vụ thu hoạch muối nhưng đã xảy ra tình trạng khan hiếm hàng, khả năng năm nay giá muối sẽ tăng mạnh, thiếu nguồn hàng cung cấp. Tuy lượng muối tồn không còn nhưng thị trường tiêu thụ muối cũng chưa được mở rộng. FXuất khẩu ra nước ngoài: Muối Bạc Liêu nổi tiếng về chất lượng và được người tiêu dùng thế giới ưa thích. Từ xưa thì muối Bạc Liêu đã được xuất khẩu sang thị trường Campuchia thông qua con đường tiểu ngạch. Từ năm 2000 đến nay, muối Bạc Liêu chủ yếu được xuất khẩu sang Nhật, do điều kiện xuất khẩu thuận lợi và giá cao. Muối Bạc Liêu mặn nhưng hậu có vị ngọt, không đắng, ít tạp chất mà nhiều muối nơi khác không có. Có lẽ người Nhật rất nhạy cảm nhận ra hương vị độc đáo của muối Bạc Liêu, đã cử các chuyên gia tìm đến khảo sát thực tế để đánh giá chất lượng muối Bạc Liêu phục vụ cho tiêu dùng và đời sống. Từ năm 2001 thì Nhật Bản đã trở thành đối tác xuất khẩu muối Bạc Liêu. Trong năm 2002, hơn 5.000 tấn muối tinh của Bạc Liêu đã được Asia Trading Corp chính thức mua, đưa về Nhật chế biến bán làm muối ăn. Đầu năm 2003, số lượng ký kết tăng lên hơn 10.000 tấn. Trong năm 2004, Công ty chỉ xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản được 40 tấn sản phẩm trị giá 4.520 USD và tiêu thụ khoảng 8.500 tấn ở Đồng Bằng Sông Cữu Long và các tỉnh khác. Năm 2005, Công ty muối Bạc Liêu sản xuất và tiêu thụ 9.800 tấn muối các loại, đạt doanh số 9,55 tỷ đồng, tăng 7% so với năm 2004. Năm 2006, thì công ty muối Bạc Liêu tiếp tục xuất khẩu gần 10.000 tấn muối sang Nhật Bản. Tiêu chuẩn của công ty là chọn muối hạt to, không lẫn tạp chất, độ đạm cao. Năm 2007, 40 tấn muối chất lượng cao của Công ty muối Bạc Liêu vừa được xuất khẩu sang Nhật Bản, tăng 2 lần so với cả năm 2006. Nguồn muối nguyên liệu phục vụ chế biến xuất khẩu chủ yếu lấy từ xã Long Điền Tây, huyện Đông Hải. Tỉnh Bạc Liêu là địa phương có diện tích làm muối lớn nhất và là tỉnh duy nhất tại ĐBSCL ký kết hợp đồng với Nhật Bản cung cấp muối tinh chất lượng cao. Vào đầu tháng 3- 2008, lô hàng 200 tấn muối xay đóng bao chất lượng cao đầu tiên của Công ty muối Bạc Liêu xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, trong tổng số 1.000 tấn sản phẩm giữa Cty và đối tác nước ngoài trong cả năm 2008. Đầu năm 2009, Công ty muối Bạc Liêu dự kiến xuất khẩu sang Nhật Bản là 10.000 tấn, nhưng do mất mùa nên số lượng xuất khẩu không đáng kể, chỉ đủ để tiêu thụ trong tỉnh và một số tỉnh lân cận. Năm 2010, Công ty muối Bạc Liêu xuất khẩu khoảng 10.000 tấn muối sang Nhật. Con số n
Tài liệu liên quan