Đề tài Thực trạng và giải pháp tăng cường công tác kiểm tra xuất xứ hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam

Cùng với sự phát triển của phân công lao động và giao lưu buôn bán quốc tế, một hàng hoá được sản xuất ra có thể có sự đóng góp của nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ khác nhau. Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, hàng hoá sản xuất ra không chỉ để sử dụng trong một nước mà có sự trao đổi buôn bán giữa các nước trên toàn thế giới. Khi phân công lao động ngày càng mạnh thì nhu cầu thương mại cũng phát triển theo. Và cũng xuất phát từ quan hệ trao đổi hàng hoá này giữa các nước, nảy sinh các tranh chấp thương mại. Do đó, vấn đề cần thiết để đảm bảo quyền lợi và trách nhiệm của các bên liên quan là cần phải làm rõ địa điểm( hay quốc gia) mà hàng hoá được nuôi trồng, sản xuất, chế biến hay gia công. Hay nói cách khác, khái niệm xuất xứ hàng hoá ra đời là yếu tố quan trọng tất yếu của quá trình thuận lợi hoá thương mại quốc tế. Theo Điều 1 Hiệp định GATT 1994( đoạn 1, phụ lục II), “ Xuất xứ hàng hoá là “ quốc tịch” của một hàng hoá” ” hàng hoá hoàn toàn được khai thác, nuôi trồng, chế biến, tại một nước mà không có sự tham gia của hàng hoá nhập khẩu từ nước khác thì được coi là có xuất xứ từ nước đó”. Theo phụ lục chuyên đề K Công ước Kyoto sửa đổi định nghĩa: “ Nước xuất xứ của hàng hoá là nước tại đó hàng hoá được chế biến hoặc sản xuất, phù hợp với tiêu chuẩn được đặt ra nhằm mục đích áp dụng trong biểu thuế hải quan, những hạn chế về số lượng hoặc các biện pháp liên quan đến thương mại”. Trong khoản 14, Điều 3 Luật Thương mại Việt Nam làm rõ: “ Xuất xứ hàng hoá là nước hoặc vùng lãnh thổ sản xuất ra toàn bộ hàng hoá hoặc nơi thực hiện công đoạn chế biến cơ bản cuối cùng đối với hàng hoá trong trường hợp có nhiều nước hoặc vùng lãnh thổ tham gia vào quá trình sản xuất hàng hoá đó”. Trên thực tế, việc xác định xuất xứ hàng hoá khá phức tạp và không phải lúc nào cũng thống nhất, vì mỗi nước phải đưa ra các tiêu chí cụ thể xác định xuất xứ hàng hoá đảm bảo mục tiêu kinh tế thương mại của chính quốc gia mình. Do đó, nhằm tạo thuận lợi cho thương mại quốc tế, các nước đã tiến hành các vòng đàm phán thương mại song phương và đa phương nhằm tạo ra sự thống nhất, đơn giản và hài hoà các quy tắc xuất xứ nhằm ổn định trong quá trình giao lưu buôn bán giữa các quốc gia

doc52 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1343 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp tăng cường công tác kiểm tra xuất xứ hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. Khái quát về xuất xứ hàng hoá và công tác kiểm tra xuất xứ hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam 1. Khái niệm và đặc điểm của xuất xứ hàng hoá: Cùng với sự phát triển của phân công lao động và giao lưu buôn bán quốc tế, một hàng hoá được sản xuất ra có thể có sự đóng góp của nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ khác nhau. Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, hàng hoá sản xuất ra không chỉ để sử dụng trong một nước mà có sự trao đổi buôn bán giữa các nước trên toàn thế giới. Khi phân công lao động ngày càng mạnh thì nhu cầu thương mại cũng phát triển theo. Và cũng xuất phát từ quan hệ trao đổi hàng hoá này giữa các nước, nảy sinh các tranh chấp thương mại. Do đó, vấn đề cần thiết để đảm bảo quyền lợi và trách nhiệm của các bên liên quan là cần phải làm rõ địa điểm( hay quốc gia) mà hàng hoá được nuôi trồng, sản xuất, chế biến hay gia công. Hay nói cách khác, khái niệm xuất xứ hàng hoá ra đời là yếu tố quan trọng tất yếu của quá trình thuận lợi hoá thương mại quốc tế. Theo Điều 1 Hiệp định GATT 1994( đoạn 1, phụ lục II), “ Xuất xứ hàng hoá là “ quốc tịch” của một hàng hoá”…” hàng hoá hoàn toàn được khai thác, nuôi trồng, chế biến, tại một nước mà không có sự tham gia của hàng hoá nhập khẩu từ nước khác thì được coi là có xuất xứ từ nước đó”. Theo phụ lục chuyên đề K Công ước Kyoto sửa đổi định nghĩa: “ Nước xuất xứ của hàng hoá là nước tại đó hàng hoá được chế biến hoặc sản xuất, phù hợp với tiêu chuẩn được đặt ra nhằm mục đích áp dụng trong biểu thuế hải quan, những hạn chế về số lượng hoặc các biện pháp liên quan đến thương mại”. Trong khoản 14, Điều 3 Luật Thương mại Việt Nam làm rõ: “ Xuất xứ hàng hoá là nước hoặc vùng lãnh thổ sản xuất ra toàn bộ hàng hoá hoặc nơi thực hiện công đoạn chế biến cơ bản cuối cùng đối với hàng hoá trong trường hợp có nhiều nước hoặc vùng lãnh thổ tham gia vào quá trình sản xuất hàng hoá đó”. Trên thực tế, việc xác định xuất xứ hàng hoá khá phức tạp và không phải lúc nào cũng thống nhất, vì mỗi nước phải đưa ra các tiêu chí cụ thể xác định xuất xứ hàng hoá đảm bảo mục tiêu kinh tế thương mại của chính quốc gia mình. Do đó, nhằm tạo thuận lợi cho thương mại quốc tế, các nước đã tiến hành các vòng đàm phán thương mại song phương và đa phương nhằm tạo ra sự thống nhất, đơn giản và hài hoà các quy tắc xuất xứ nhằm ổn định trong quá trình giao lưu buôn bán giữa các quốc gia. a.Quy tắc xuất xứ ưu đãi: Quy tắc xuất xứ ưu đãi là các quy định, điều luật và các quyết định hành chính áp dụng chung cho các thành viên WTO khi hàng hoá có đủ tiêu chuẩn để hưởng các đối xử ưu đãi theo các cơ chế thương mại tự quy định hoặc theo các thoả thuận cho phép hưởng các ưu đãi về thuế quan không thuộc phạm vi áp dụng của quy tắc xuất xứ không ưu đãi theo Điều 1 Hiệp định GATT 1994, trong khuôn khổ song phương và đa phương. Các quy tắc xuất xứ ưu đãi phải đảm bảo tính minh bạch về luật pháp, dễ phán đoán, phù hợp với các quy định và thông lệ liên quan đến quy tắc xuất xứ. Vì vậy, các quy tắc này phải có các tiêu chí chuyển đổi căn bản thật rõ rang, không gây ra cản trở, tạo thuận lợi cho thương mại quốc tế cũng như không làm vô hiệu hoặc thay đổi quyền lợi của các thành viên WTO. Để hưởng lợi từ các thoả thuận thương mại ưu đãi, hàng hoá phải có xuất xứ từ các quốc gia hưởng lợi hoặc các thành viên, và phải đảm bảo thoả mãn các tiêu chí của các quy tắc xuất xứ được quy định trong Hiệp định thương mại ưu đãi. Các tiêu chí bao gồm: Hàng hoá có xuất xứ thuần tuý: + Các sản phẩm có nguồn gốc hoàn toàn từ thiên nhiên + Động vật sống được sinh ra và nuôi dưỡng tại các trang trại hoặc hộ gia đình nuôi cá thể. + Các sản phẩm thu được tại nước xuất xứ cũng như các ngư phẩm khai thác được do các con tàu của nước xuất xứ. + Các sản phẩm được chế biến trên các con tàu của nước xuất xứ với nguyên liệu do con tàu đó đánh bắt được trong vùng lãnh hải của nước xuất xứ. + Các khoáng sản được khai thác ngay trong lãnh thổ của nước xuất xứ. + Các loại cây trồng được thu hoạch như cây lương thực, cây làm cảnh và cây cho hoa. + Các hàng hoá được sản xuất từ chỉ những hàng hoá xuất xứ thuần tuý hoặc các mảnh rời hoặc các phế liệu của quá trình sản xuất hoặc có thể có được sau quá trình tiêu dùng. Hàng hoá có xuất xứ không thuần tuý: Hàng hoá xuất xứ không thuần tuý là các hàng hoá mà quá trình tạo ra và hoàn thiện nó có sự tham gia của hai hay nhiều nước. Trong thương mại quốc tế, hàng hoá có xuất xứ không thuần tuý được xác định là có xuất xứ của nước thực hiện gia công hoặc chế biến cuối cùng. Ngoại trừ các công đoạn, thao tác sau đây: + Các công việc bảo quản hàng hoá trong quá trình vận chuyển và lưu kho. + Các công việc đơn giản như lựa chọn, phân loại, lau bụi, sang lọc, chia cắt ra từng phần. + Dán nhãn mác hoặc các dấu hiệu phân biệt, bao gói sản phẩm. + Tháo dỡ lắp ghép các lô hàng và thay đổi bao bì đóng gói. + Đóng gói, bao, hộp, chai, lọ… + Lắp ráp đơn giản các bộ phận của các sản phẩm để tạo nên một sản phẩm hoàn chỉnh. + Trộn đơn giản các sản phẩm, nếu một hay nhiều thành phần của hỗn hợp không đáp ứng điều kiện đã quy định để có thể được coi như có xuất xứ tại nơi thực hiện việc này. + Kết hợp các công việc trên. + Giết mổ động vật. Cần lưu ý là khái niệm gia công chế biến đầy đủ tuỳ thuộc vào quy định của mỗi nước và mỗi khu vực trong quan hệ với các đối tác thương mại. Các tiêu chí chuyển đổi căn bản: + Tiêu chí về thay đổi mã số phân loại ( HS). Theo tiêu chí này, hàng hoá được phân loạivào nhóm hoặc phân nhóm khác với tất cả các vật liệu không xuất xứ được sử dụng. Tiêu chí này dựa trên Hệ thống HS, được coi là ngôn ngữ chung cho Hải quan toàn thế giới nên đơn giản và dễ dự đoán. Tuy nhiên, do được thiết kế đa mục đích nên sử dụng HS không hoàn toàn xác định được xuất xứ hàng hoá mà nó chỉ góp phần xác định xuất xứ hàng hoá. Và đôi khi, việc áp dụng tiêu chí này đòi hỏi một vốn kinh nghiệm và kiến thức rất sâu rộng về HS. + Tiêu chí về giá trị gia tăng: Hàng hoá được xem là trải qua quá trình chuyển đổi căn bản khi hàng hoá gia tăng giá trị đến một mức nhất định, thông qua 2 cách là tối đa các nguyên liệu không xuất xứ và yêu cầu tối thiểu về hàm lượng nội địa. Tiêu chí này đưa ra một ngưỡng đơn giản hơn về quy định các hoạt động sản xuất và chế biến đồng thời phù hợp để xác định xuất xứ đối với hàng hoá đã được tinh chế thêm hoặc gia tăng thêm về giá trị dù không thay đổi mã HS. Tuy nhiên, tiêu chí này chịu sự chi phối về mức độ dao động của giá trị tiền tệ nên không có tính dự báo và thống nhất. + Tiêu chí về các hoạt động sản xuất hoặc chế biến: Hàng hoá được coi là trải qua quá trình chuyển đổi căn bản khi hàng hoá trải qua một hoạt động sản xuất hoặc gia công hoặc chế biến nhất định. Để áp dụng tiêu chí này cần phải xây dựng một hệ thống văn bản quy định cụ thể và chặt chẽ, bắt nhịp với tốc độ phát triển thần tốc của khoa hoc kỹ thuật. Các tiêu chí chuyển đổi căn bản này được áp dụng một cách lần lượt và tuần tự, tức là nếu không quan tâm đến việc thay đổi mã số phân loại hàng hoá, thì sẽ xét đến tiêu chí về phần trăm giá trị gia tăng và kế đến là tiêu chí về các hoạt động sản xuất hoặc chế biến. Ngoài ra khi xác định xuất xứ hàng hoá, còn cần phải lưu ý: Các ngoại lệ ngoài tiêu chí chuyển đổi: + Quy tắc cộng gộp: Hàng hoá có sử dụng các nguyên liệu nhập khẩu có xuất xứ từ một nước được phê chuẩn để sản xuất tại một nước cũng được hưởng ưu đãi và không phải đáp ứng các yêu cầu về chuyển đổi mã số HS hoặc gia công chế biến. Đối với cộng gộp xuất xứ trong Asian, hàng hoá được coi là có xuất xứ Asian khi các yêu cầu về sản xuất hay chế biến đã được đáp ứng tại tất cả các nước ASEAN liên quan trong quá trình sản xuất hàng hoá đó. + Quy tắc vận chuyển thẳng: Hàng hoá được vận chuyển thẳng từ nước được hưởng ưu đãi đến nước cho hưởng ưu đãi mà không đi qua lãnh thổ của quốc gia nào khác hoặc nếu có quá cảnh lãnh thổ một quốc gia khác thì không đưa vào buôn bán hoặc tiêu thụ tại nước đó hoặc không trải qua bất kỳ một công đoạn gia công chế biến nào trừ việc xếp, bốc dỡ hoặc các hoạt động nhằm đảm bảo cho hàng hoá vận chuyển tốt. Hàng hoá xuất khẩu từ nước được hưởng, để lưu kho tạm thời hay trưng bày triển lãm được vận chuyển thẳng từ nơi tổ chức triển lãm tới nước cho hưởng và triển lãm được tổ chức dưới sự giám sát của cơ quan hải quan. Ngoại trừ các quốc gia không có biển, hàng hoá nhập khẩu được gửi trực tiếp từ quốc gia hưởng lợi đến quốc gia cho ưu đãi. Các quy tắc xuất xứ ưu đãi được quy định trong các thoả thuận thương mại ưu đãi bao gồm: Cơ chế thương mại tự định của các nước phát triển dành cho các nước đang phát triển hay là ưu đãi đơn phương do 1 nước hoặc nhóm nước quy định dành cho 1 nước hoặc nhóm nước khác thoả mãn yêu cầu xuất xứ do Hiệp định quy định. Ví dụ, Hệ thống ưu đãi phổ cập GSP. Cơ chế thương mại thoả thuận là ưu đãi giữa các nhóm nước thoả thuận dành cho nhau trên nguyên tắc có qua có lại. Ví dụ, AFTA hay NAFTA. b.Quy tắc xuất xứ không ưu đãi: Khác với quy tắc xuất xứ ưu đãi đã thống nhất trong khuôn khổ các Hiệp định song phương hoặc đa phương, các quy tắc xuất xứ không ưu đãi đòi hỏi phải có định chế xây dựng quản lý và thúc đẩy chương trình hài hoà quy tắc xuất xứ không ưu đãi. Theo đó, cần phải dựa vào các nguyên tắc nhất định nhằm đảm bảo tính khách quan, dễ hiểu, thống nhất và có thể dự đoán trước được. Đồng thời, các quy tắc xuất xứ phải thể hiện rõ nước xuất xứ của một hàng hoá là nước sản xuất ra toàn bộ hàng hoá đó hay là nước thực hiện công đoạn gia công chế biến cơ bản cuối cùng nếu có nhiều nước tham gia sản xuất hàng hoá đó. Mặt khác, các quy tắc xuất xứ không được hạn chế, bóp méo hoặc làm rối loạn thương mại quốc tế và được áp dụng như nhau cho tất cả các mục đích sử dụng trong các công cụ chính sách thương mại không ưu đãi như đối xử tối huệ quốc, thuế chống bán phá giá và thuế đối kháng, các biện phấp tự vệ, các yêu cầu về ký hiệu và tất cả các hạn chế số lượng hay hạn ngạch thuế quan áp dụng phân biệt đối xử được quy định trong Hiệp định GATT 1994. Quy tắc xuất xứ không ưu đãi nhằm áp dụng chung cho tất cả các thành viên và có ảnh hưởng to lớn đến thương mại quốc tế trong phạm vi áp dụng. Vì thế, hài hoà các quy tắc xuất xứ là mục tiêu quan trọng nhằm tạo ra sự ổn định, thống nhất từ đó tạo thuận lợi cho thương mại đầu tư phát triển, thúc đẩy tăng hiệu quả kinh tế. Khi thực hiện chương trình hài hoà quy tắc xuất xứ không ưu đãi, cần tuân thủ quy tắc tổng quát sau đây: Quy tắc 1: Phạm vi áp dụng Quy tắc này xác định quốc gia xuất xứ của một hàng hoá khi xuất xứ của hàng hoá đó không được xác định theo quy tắc xuất xứ hàng hoá thuần tuý. Các quy tắc xuất xứ này bao gồm cả quy tắc xuất xứ được sử dụng trong mua sắm chính phủ và số liệu thống kê thương mại. Theo đó, sẽ không làm tổn hại đến ngành công nghiệp nội địa hoặc sản phẩm tương tự của công nghiệp nội địa. Quy tắc 2: Hệ thống hài hoà Hàng hoá được phân loại dựa vào mã số HS và các phân chia theo HS, chỉ áp dụng cho các nguyên liệu không xuất xứ và không phân biệt giữa các quy tắc với nhau. Các quy tắc chú giải chung, mục, chương và các chú giải nhóm, phân nhóm bổ sung trong Hệ thống HS điều chỉnh việc phân loại hàng hoá cũng sẽ điều chỉnh quá trình phân loại mã HS để xây dựng quy tắc xuất xứ cho sản phẩm cụ thể. Quy tắc 3: Xác định xuất xứ Xuất xứ của một hàng hoá sẽ được xác định theo các điều khoản của Phụ lục 1 và Phụ lục 2 của Hiệp định quy tắc xuất xứ khi áp dụng các quy định sau đây một cách tuần tự: + Các quy tắc chính: Quốc gia xuất xứ hàng hoá là quốc gia mà tại đó hàng hoá có được tính chất cơ bản tự nhiên, không qua chế biến hoặc là quốc gia mà tại đó hàng hoá có được theo điều kiện trên hoặc là quốc gia mà tại đó giai đoạn sản xuất cơ bản đó diễn ra. + Các quy tắc phần dư: Nếu hàng hoá trải qua một hoặc hơn một hoạt động mà không thay đổi về phân loại thì xuất xứ hàng hoá là quốc gia mà hàng hoá ra đời trước khi trải qua các hoạt động đó với điều kiện là bất kể vật liệu nào đã được bổ sung thêm vào phải thoả mãn sự thay đổi quy tắc phân loại áp dụng cho hàng hoá. Quốc gia xuất xứ hàng hoá là quốc gia mà tại đó phần lớn nguyên vật liệu xuất xứ trên cơ sở quy định trong quy tắc phần dư áp dụng tại các Chương. Nếu các nguyên liệu có tỷ lệ đa số bằng nhau của các quốc gia tham gia, thì hàng hoá đó là hàng hoá đa quốc gia. Quy tắc 4: Yếu tố trung lập Xuất xứ hàng hoá không tính đến xuất xứ của năng lượng, chất đốt, nhà xưởng và thiết bị, hoặc máy móc và công cụ được sử dụng sản xuất hàng hoá hoặc các nguyên vật liệu sử dụng để sản xuất hàng hoá mà không còn tồn tại trong hàng hoá hoặc tạo nên 1 phần hàng hoá. Quy tắc 5: Đóng gói, vật liệu đóng gói và bao bì Nếu nguyên liệu đóng gói và bao bì không được phân loại cùng với nội dung bên trong là hàng hoá tách rời, thì xuất xứ của nguyên vật liệu đóng gói và bao bì được xác định theo các quy tắc tương ứng quy định trong Phụ lục 1 và 2. Quy tắc 6: Phụ kiện đi kèm, bộ phận rời và dụng cụ Xuất xứ hàng hoá không tính đến các phụ kiện đi kèm, bộ phận rời, dụng cụ và các tài liệu thông tin hoặc tài liệu hướng dẫn khác kèm theo hàng hoá, theo quy tắc tổng quát 3, với điều kiện chúng được gắn kèm theo, dưới dạng vật chất và con số đối với thiết bị thông thường. . 2. Vai trò của xuất xứ hàng hóa: a. Thuế quan ưu đãi: Chính sách thương mại của các quốc gia và các thỏa thuận thương mại khu vực cụ thể đôi lúc có sự phân biệt. Xác định xuất xứ hàng hóa khiến có thể phân biệt đâu có thể là hàng nhập khẩu được hưởng ưu đãi để áp dụng chế độ ưu đãi theo các thỏa thuận ưu đãi đặc biệt như trong các khu vực thương mại. b. Áp dụng thuế chống phá giá và trợ giá: Trong các trường hợp khi hàng hóa của một nước được phá giá tại thị trường nước khác, việc xác định được xuất xứ khiến các hành động chống phá giá và việc áp dụng thuế chống trợ giá trở nên khả thi. c. Thống kê thương mại và duy trì hệ thống hạn ngạch: Việc xác định xuất xứ khiến việc biên soạn các số liệu thống kê thương mại và các xu hướng hoặc đối với một nước hoặc đối với một khu vực dễ dang hơn. Trên cơ sở các số liệu thương mại xuất bản đáng tin cậy, các cơ quan thương mại mới có thể duy trì hệ thống hạn ngạch, trong trường hợp hệ thống này tồn tại. Các hạn ngạch có thể được áp dụng vì nhiều lý do, từ mục đích bảo vệ thương mại đến lý do bảo vệ môi trường. Có thể nói xuất xứ hàng hóa là một công cụ trong chính sách kiểm soát ngoại thương của nhà nước. d. Xúc tiến thương mại: Quy tắc xuất xứ được sử dụng để đẩy mạnh hàng xuất khẩu từ những nước đã thiết lập một truyền thống tốt đẹp về những lĩnh vực cụ thể. Trong những trường hợp này, các quốc gia trở nên rất tích cực bảo vệ tên hiệu thương mại và chống lại việc làm giả tên hiệu này, sử dụng sai hoặc lợi dụng bởi các nước khác để tăng lượng bán hàng của họ. e. Các nguyên nhân môi trường: Các yêu cầu về ký hiệu, bản thân chúng là kết quả của việc áp dụng quy tắc xuất xứ, được sử dụng vì những lý do môi trường. Một số trong số đó tăng cường các mục tiêu môi trường. Số khác hiện theo đuổi việc sử dụng và lạm dụng quy tắc xuất xứ nhằm mục đích chôn phế thải độc hại hoặc khai thác kiệt quệ và bằng cách đó làm tuyệt chủng các loài thực vật và động vật. f. Lẩn tránh: Mặc dù là không hợp pháp và là một thực tiễn thương mại không công bằng, một số nước, khi cố tránh bị áp dụng hạn ngạch, đã sử dụng và lạm dụng quy tắc xuất xứ để đưa ồ ạt và bán phá giá hàng hóa tại thị trường các nước khác. 3. những quy tắc chung trong xác định xuuất xứ hàng hóa a. Quy tắc xuất xứ phổ biến + Xuất xứ thuần túy ( Whollyobtained – WO) Các hàng hóa sau được coi là có xuất xứ thuần túy, bao gồm; Cây trồng và các sản phẩm từ cây trồng được thu hoạch tại quốc gia hoặc vùng lãnh thổ đó. Động vật sống được sinh ra và nuôi dưỡng tại quốc gia hoặc vùng lãnh thổ đó. Các sảnt phẩm từ động vật sống tại quốc gia hoặc vùng lãnh thổ đó Các sản phẩm thu được từ săn bắn, đặt bẫy, đánh bắt,nuôi trồng thu lượm hoặc săn bắt tại các quốc gia hoặc vùng lãnh thổ đó. Các khoáng sản và các chất sản sinh tự nhiên, được chiết xuất hoặc lấy ra từ đất,nước, đáy biển hoặc dưới đáy biển của quốc gia học vùng lãnh thổ đó. Các sản phẩm lấy từ nước, đáy biển hoặc dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc gia,vùng lãnh thổ,với điều kiện gia,vùng lãnh thổ đó có quyền khai thác đối với vùng nước,đáy biển và dưới đáy biển theo luật pháp quốc tế. Các sản phẩm đánh bắt và các hải sản khác đánh bắt từ vùng biển cả bằng tàu được đăng ký với quốc gia đó và được phép treo cờ của quốc gia đó. Các sản phẩm được chế biến hoặc được sản xuất ngay trên tàu từ các sản phẩm đánh bắt được ở q uốc gia,vùng lãnh thổ đó và tàu được đăng ký với quốc gia đó,được phép treo cờ của quốc gia vùng lãnh thổ đó Các vật phẩm có được ở quốc gia,vùng lãnh thổ đó hiện không còn thực hiện được những chức năng ban đầu và cũng không thể sửa chữa hay khôi phục được và chỉ có thêt vứt bỏ hoặc dùng làm nguyên liệu, vật liệu thô, hoặc sử dụng và mục đích tái chế. Các hàng hóa được sản xuất từ các sản phẩm nêu trên ở quốc gia, vùng lãnh thổ đó. + Xuất xứ không thuần túy Hàng hóa có xuất xứ không thuần túy là hàng hóa được sản xuất có sử dụng nguyên liệu nhập khẩu của hai hoặc nhiều nước Hàng hóa có xuất xứ không thuần tuý được công nhận có xuất xứ từ một quốc gia, vùng lãnh thổ khi quốc gia, vùng lãnh thổ đó thực hiện công đoạn chế biến cơ bản cuối cùng làm thay đổi cơ bản hàng hóa này. Như vậy nước xuất khẩu là nước mà nguyên vật liệu,bộ phận hoặc thành phần nhập khẩu hàng hóa đã được gia công chế biến đủ tại đó. + Xuất xứ cộng gộp Xuất xứ cộng gộp cho phép sử dun gj nguyên vật liệu nhập khẩu có từ nước được hưởng ưu đãi để sản xuất tại một nước cũng được hưởng ưu đãi, không phải đáp ứng yêu cầu chuyển đổi mã HS( CTC) hoặc gia công chế biến. Nước xuất xứ hàng hóa được hưởng ưu đãi theo quy tắc cộng gộp là nước tham gia sản xuất và xuất khẩu hàng hóa đó sang nước có thỏa thuận cho hưởng ưu đãi thuế quan( Cộng gộp ASEAN, ACFTA,..) + Quy tắc vận tải trực tiếp Quy tắc vận tải trục tiếp hàng hóa phải được vận chuyển tù nước được hưởng đến nước cho hưởng, không qua lãnh thổ một quốc gia nào khác; hoặc quá cảnh lãnh thổ một quốc gia khác, có hoặc không chuyển tải hoặc lưu kho tạm thời với điều kiện: + Quá cảnh là cần thiết vì lí do địa lý hoặc yêu cầu vận tải. + Không được mua bán hoặc tiêu thụ tại đó + Không xử lý gì trừ việc bốc dỡ, tái xếp hàng nhằm đảm bảo giữ hàng trong tình trạng tốt b. Quy tắc xuất xứ sản phẩm cụ thể: - Quy tắc chuyển đổi mã số HS Chuyển đổi mã số hàng háo hay chuyển đổi mã số HS( trong Biểu thuế xuất nhập khẩu) của hàng hóa được tạo ra ở một quốc gai hoặc vùng lãnh thổ trong quá trình sản xuất từ nguyên liệu không có xuất xứ của quốc gia hoặc vùng lãnh thổ này Quy tác này được xây dựng phù hợp với hệ thống danh mục hài hòa và mô tả mã hóa hàng hóa HS(Hảmonized System) của tổ chức hải quan thế giới và thường được dùng làm phụ lục của các quốc FTA. Quy tắc này đòi hỏi nguyên vật liệu tham gia trong quá trình sản xuất phải đạt được chuyển đổi cơ bản để hàng hóa được công nhận là có xuất xứ tại nước chuyển đổi cơ bản đó. Ví dụ: Thịt bò đông lạnh(0202) nhập khẩu từ úc; gia vị quế, hồi(0906 – 0909) nhập khẩu từ Trung Quốc; để sử dụng để sản xuất xúc xích bò( 1601) tại Indonesia. Ví dụ:Máy bán đồ ăn uống tự động(8476.21) sản xuất tại Singapore từ các nguyên vật liệu, bộ phận nhập khẩu. Nguyên vật liệu nhập khẩu được phân loại theo các bộ phận phụ tùng tương ứng mã số HS ( trừ phân nhóm 8476.21 – 8476.89). Bộ phận chỉ được thiết kế sử dụng cho các loại máy bán hàng tự động được phân loại vào nhóm 8476.90. Nhà xuất khẩu có thể sử dụng nguyên vật liệu không có xuất xứ và các bộ phận cảu máyb án hàng chuyên dụng(8476.90) để sản xuất máy bán đồ uống tự động(8476.21) để đủ điều kiện hưởng ưu đãi. Quá trình sản xuất máy bán đồ uống tự động bao gồm nguyên vật liệu nhập khẩu của một số nước, được gia công chế biến tại Singapore, đạt được sự chuyển đổi cơ bản cuối cùng đó là cho ra một sản phẩm mới và khác với nguyên liệu tham gia vào quá trình sản xuất( Phụ lục K, Công ước Kyoto). Do vậy, Singapore được công nhận là nước xuất xứ vì nguyên vật liệu đ
Tài liệu liên quan