Đề tài Thực trạng và một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày

Trong xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá hiện nay, hoạt động kinh tế đối ngoại, đặc biệt là xuất khẩu của mỗi quốc gia, có vị trí ngày càng quan trọng và ngày càng được mở rộng. Xu thế này ngoài những tác động tích cực cũng đặt ra nhiều thách thức cho các nước đang phát triển, đòi hỏi mỗi nước phải có những định hướng phát triển kinh tế cho phù hợp với điều kiện, lợi thế riêng của mình. Với truyền thống là một nước có thế mạnh về hàng nông sản xuất khẩu, ngay từ những ngày đầu của công cuộc đổi mới, xuất khẩu nông sản đã được quan tâm chú trọng phát triển.

doc87 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1252 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Tính cấp thiết của đề tài Trong xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá hiện nay, hoạt động kinh tế đối ngoại, đặc biệt là xuất khẩu của mỗi quốc gia, có vị trí ngày càng quan trọng và ngày càng được mở rộng. Xu thế này ngoài những tác động tích cực cũng đặt ra nhiều thách thức cho các nước đang phát triển, đòi hỏi mỗi nước phải có những định hướng phát triển kinh tế cho phù hợp với điều kiện, lợi thế riêng của mình. Với truyền thống là một nước có thế mạnh về hàng nông sản xuất khẩu, ngay từ những ngày đầu của công cuộc đổi mới, xuất khẩu nông sản đã được quan tâm chú trọng phát triển. Là một nhóm hàng rất quan trọng trong hàng nông sản xuất khẩu với tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng năm chiếm tới gần một nửa tỷ trọng xuất khẩu của hàng nông sản và khoảng 10% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày tỏ rõ ưu thế của mình trên thị trường thế giới, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam. Với những thành tựu đạt được trong hơn 10 năm qua, nhóm hàng này đã góp phần không nhỏ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đáng khích lệ đó, vẫn còn nhiều điều tồn tại đối với nhóm hàng về mặt quản lý của Nhà nước cũng như việc thực hiện ở các cơ sở, cùng với những khó khăn đang đặt ra cho thời kỳ tới. Khoá luận mang tên: “Thực trạng và một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày” sẽ nghiên cứu, phân tích thực trạng sản xuất và xuất khẩu của nhóm hàng trong suốt thời kỳ 1990-2000 với mong muốn có một cái nhìn toàn diện về nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày nói chung và chi tiết về 3 mặt hàng xuất khẩu chủ yếu đang có mặt trong những mặt hàng chủ lực của nước ta. Trên cơ sở đó, đưa ra những kiến nghị chung nhằm mục đích đẩy mạnh xuất khẩu nhóm hàng, đạt hiệu quả sản xuất và xuất khẩu cao hơn. Mục đích và nhiệm vụ Mục đích: đưa ra những định hướng lớn đối với nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày cũng như một số nhóm hàng chủ yếu, đồng thời tìm ra những giải pháp chính nhằm nâng cao hiệu quả, ổn định và tăng trưởng xuất khẩu nhóm hàng này vào giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2010. Nhiệm vụ: Thống nhất chung về lý luận cơ bản về xuất khẩu, liên quan đến xuất khẩu nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày. Khái quát và phân tích thực trạng sản xuất và xuất khẩu 3 mặt hàng chủ yếu là cà phê, cao su và hạt điều. Phân tích các yếu tố sản xuất và thị trường trên cơ sở đó đưa ra những định hướng lớn về sản xuất và xuất khẩu giai đoạn 2000-2010, cùng với giải pháp nâng cao hiệu quả xuất khẩu của nhóm hàng. Đối tượng và giới hạn phạm vi nghiên cứu Đối tượng: đối tượng nghiên cứu là hiện trạng xuất khẩu nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày. Phạm vi nghiên cứu: Bài viết đề cập đến những vấn đề lý luận có liên quan đến vai trò, vị trí của nhóm hàng, đồng thời đưa ra bức tranh toàn cảnh về 3 mặt hàng chính là cà phê, cao su và hạt điều từ năm 1990 đến nay. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp phân tích-so sánh, quy nạp, tổng hợp dựa trên những số liệu thống kê thực tế kết hợp lý luận với thực tiễn, phương pháp phân tích kinh tế vĩ mô và vi mô từ tư duy trừu tượng đến thực tế khách quan được sử dụng kết hợp trong bài viết này. Kết cấu của luận văn Kết cấu luận văn gồm 3 chương: Chương I: Vai trò nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày trong xuất khẩu của Việt Nam. Chương II: Thực trạng sản xuất và xuất khẩu của nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày. Chương III: Một số giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu của nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày Do khuôn khổ của khoá luận và kiến thức của người viết, bài viết không tránh khỏi những khiếm khuyết, thiếu sót. Kính mong các thầy cô giáo, các bạn sinh viên cũng như những người quan tâm đóng góp ý kiến xây dựng cho khoá luận được tốt hơn. Em xin được bảy tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc tới thầy giáo GS.TS.NGƯT. Bùi Xuân Lưu, chủ nhiệm khoa kinh tế Ngoại Thương, là người thầy đã trực tiếp hướng dẫn em rất tận tình với tất cả sự tận tâm và tinh thần trách nhiệm. Nhân đây em cũng xin cám ơn các anh Nguyễn Trung Khoa, Phạm Lưu Hưng, cô Nguyễn Thị Kim Phượng, các chuyên viên Vụ Xuất nhập khẩu-Bộ Thương Mại và các thầy cô giáo Trường Đại học Ngoại Thương đã giúp đỡ em rất nhiều trong quá trình thực hiện và hoàn thành tốt khoá luận này. Chương I: Vị trí, vai trò của nhóm hàng cây công nghiệp dài ngày trong xuất khẩu của Việt Nam I. Vị trí, vai trò của xuất khẩu 1. Ngoại thương và lợi ích của Ngoại thương Thương mại quốc tế ra đời từ hàng ngàn năm nay, là một bộ phận quan trọng của hoạt động kinh tế, trở thành một phần trong đời sống hàng ngày, và hiện nay vẫn giữ vị trí trung tâm trong các quan hệ kinh tế quốc tế. Thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá và dịch vụ (hàng hoá hữu hình và vô hình) giữa các quốc gia thông qua mua bán. Cơ sở của thương mại quốc tế chính là trao đổi và chuyên môn hoá. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia. Thương mại quốc tế bao gồm nhiều hoạt động khác nhau, nhưng xét trên giác độ một quốc gia thì đó chính là hoạt động ngoại thương. “Quốc gia cũng như cá nhân không thể sống riêng rẽ mà vẫn đầy đủ được. Thương mại quốc tế nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng có tình chất sống còn vì một lý do cơ bản là mở rộng khả năng sản xuất và tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với danh giới của khả năng sản xuất, tiêu dùng trong nước khi thực hiện chế độ tự cung tự cấp, không buôn bán.” (trích Giáo trình Thương mại quốc tế- Đại học kinh tế quốc dân). Ngoại thương có vai trò to lớn trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi nước. Lịch sử phát triển kinh tế toàn cầu cho thấy một quốc gia không thể tồn tại riêng rẽ mà vẫn phát triển thuận lợi được. Ngoại thương mở rộng khả năng tiêu dùng của mỗi nước, nó cho phép một quốc gia tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với giới hạn của khả năng sản xuất trong nước nếu nó thực hiện chế độ tự cung tự cấp, không buôn bán với bên ngoài. Trước hết, chúng ta hãy tìm hiểu khái niệm về ngoại thương. Ngoại thương là gì? “Ngoại thương là sự trao đổi hàng hoá giữa các nước thông qua mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia” (Trích Giáo trình Kinh tế Ngoại thương-1995). Trong đó, nhập khẩu là hoạt động mua hàng hoá và dịch vụ từ nước ngoài, xuất khẩu là bán hàng hoá và dịch vụ cho nước ngoài trên cơ sở sử dụng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một quốc gia hay cả hai quốc gia. Lợi ích của ngoại thương đã được các học giả kinh tế đưa ra từ lâu, với khởi điểm để trở thành một học thuyết khoa học là của trường phái Trọng thương. Nội dung chủ yếu của học thuyết này là lý thuyết cán cân thương mại thặng dư, có nghĩa là một quốc gia chỉ có lợi do ngoại thương đem lại nếu cán cân thương mại thặng dư, hay xuất khẩu vượt quá nhập khẩu. Các quan niệm của các học giả này còn đơn giản, chưa cho phép giải thích bản chất bên trong của các hiện tượng kinh tế. Tuy nhiên, học thuyết Trọng thương là học học thuyết đầu tiên nghiên cứu hiện tượng và lợi ích của ngoại thương, khởi đầu cho những học thuyết kinh tế ngoại thương sau này. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối được Adam Smith đưa ra dựa trên sự tìm hiểu những hạn chế của lý thuyết trọng thương và minh chứng rằng cả hai bên sẽ có lợi trong mậu dịch quốc tế nếu thực thi nguyên tắc phân công. Nguyên tắc này có nghĩa là mỗi quốc gia nên chuyên môn hoá vào những ngành sản xuất mà họ có lợi thế tuyệt đối cho phép họ sản xuất sản phẩm với chi phí thấp hơn các nước khác. Lý thuyết này lại tỏ ra thiếu sót khi xét đến việc liệu một nước không có lợi thế tuyệt đối về mặt hàng nào thì có lợi trong thương mại quốc tế hay không. Và lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo ra đời giải quyết hạn chế đó. Theo David Ricardo- nhà kinh tế học người Anh thì cơ chế xuất hiện lợi ích của ngoại thương là: Mọi nước đều có lợi khi tham gia vào phân công lao động quốc tế bởi vì ngoại thương cho phép mở rộng khả năng tiêu dùng của mỗi nước do chỉ chuyên môn hoá vào sản xuất một số sản phẩm nhất định và xuất khẩu hàng hoá của mình để đổi lấy hàng nhập khẩu từ nước khác. Những nước có lợi thế tuyệt đối hoàn toàn hơn nước khác, hoặc bị kém lợi thế tuyệt đối hơn so với nước khác trong việc sản xuất mọi sản phẩm thì vẫn có thể và vẫn có lợi khi tham gia vào phân công lao động quốc tế bởi vì mỗi nước có một lợi thế so sánh nhất định về một số mặt hàng và kém lợi thế so sánh về một số mặt hàng khác. Ông cho rằng lợi ích của thương mại quốc tế chính là bắt nguồn từ sự khác nhau về chi phí cơ hội ở các quốc gia. Khi các cơ hội ở tất cả các quốc gia đều giống nhau thì không có lợi thế so sánh và cũng không có khả năng nảy sinh các lợi ích do chuyên môn hoá sản xuất và thương mại quốc tế. Đó chính là nội dung cơ bản của quy luật lợi thế so sánh: các nước sẽ có lợi khi chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm mà họ làm ra với chi phí cơ hội nhỏ hơn các nước khác. Phát triển lý thuyết của D. Ricardo, Eli Hecksher và Bertil Ohlin - hai nhà kinh tế học người Thuỵ Điển- đã đưa ra thuyết ưu đãi về các nguồn lực sản xuất vốn có, gọi là lý thuyết H-O và đề ra quy luật H-O về tỷ lệ cân đối các yếu tố sản xuất: “một nước sẽ xuất khẩu loại hàng hoá mà việc sản xuất nó cần nhiều nhân tố rẻ và tương đối sẵn có của nước đó và nhập khẩu loại hàng hoá mà việc sản xuất cần nhiếu yếu tố đắt và tương đối khan hiếm hơn ở nước đó”. Quy luật này chi phối động thái phát triển của thương mại quốc tế và có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn quan trọng đối với các nước đang phát triển và chưa phát triển. Nó chỉ ra rằng, với các nước đông dân và nhiều lao động nhưng lại thiếu vốn trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá cần tập trung sản xuất và xuất khẩu nhiều những hàng hoá sử dụng nhiều lao động và nhập khẩu những hàng hoá sử dụng nhiều vốn. Tóm lại, tầm quan trọng cũng như tính tất yếu của hoạt động xuất nhập khẩu đã được phát triển từ lý thuyết trọng thương và được chứng minh rất rõ thông qua lý thuyết về lợi thế so sánh của D. Ricardo. Nếu một nước có hiệu quả thấp hơn so với các nước khác trong viêc sản xuất hầu hết các loại sản phẩm vẫn có thể có lợi khi tham gia hoạt động xuất nhập khẩu. Nói cách khác, trong những điểm bất lợi nhất của một quốc gia vẫn có thể tìm ra những điểm có lợi nhất để khai thác trong quan hệ thương mại quốc tế. Khi tiến hành xuất khẩu, quốc gia có hiệu quả thấp trong việc sản xuất ra tất cả các loại hàng hoá sẽ có thể chuyên môn hoá vào sản xuất loại hàng hoá ít bất lợi nhất để trao đổi với các quốc gia khác và nhập về những hàng hoá mà việc sản xuất ra nó là bất lợi nhất để tiết kiệm được những nguồn lực của mình và thúc đẩy sự phát triển của sản xuất trong nước. Việc lựa chọn các sản phẩm xuất khẩu, đặc biệt là việc xây dựng chiến lược về các mặt hàng xuất khẩu chủ lực phù hợp với các lợi thế so sánh về các nguồn lực sản xuất vốn có sẽ là điều kiện cần thiết để các nước này có thể nhanh chóng hội nhập vào phân công lao động và hợp tác quốc tế, trên cơ sở lợi ích thu được từ ngoại thương đó sẽ đẩy mạnh sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Ngày nay, ngoại thương không chỉ mang ý nghĩa đơn thuần là buôn bán với nước ngoài, mà thực chất là cùng với các quan hệ kinh tế khác tham gia vào phân công lao động quốc tế. Do vậy, không chỉ coi ngoại thương là một nhân bố quan trọng bổ xung cho nền kinh tế trong nước mà còn phải cọi sự phát triển kinh tế trong nước thích nghi với lựa chọn phân công lao động tối ưu. Bí quyết thành công của nhiều nước trong chiến lược phát triển kinh tế là nhận thức được mối quan hệ hữu cơ giữa kinh tế trong nước và mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài. 2. Khái niệm về xuất khẩu Trong nền kinh tế hiện đại, không một quốc gia nào bằng chính sách đóng cửa lại phát triển có hiệu quả nền kinh tế trong nước. Đối với những nước mà trình độ phát triển kinh tế còn thấp như nước ta, thì hoạt động xuất khẩu là một biện pháp hữu hiệu trong chiến lược “mở cửa nền kinh tế” để tạo ra sự tăng trưởng mạnh cho đất nước, góp phần rút ngắn khoảng cách chênh lệch với các nước giàu. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động chủ yếu của ngoại thương, nó mang tính chất tất yếu của mỗi quốc gia trong quá trình phát triển kinh tế. Do những điều kiện khác nhau, mỗi quốc gia có lợi thế về những lĩnh vực này và bất lợi về những lĩnh vực khác trong việc sản xuất những hàng hoá khác nhau. Để có thể dung hoà được nguy cơ và lợi thế, tạo ra sự cân bằng trong quá trình sản xuất và tiêu dùng, các quốc gia phải tiến hành trao đổi với nhau, bán những gì mình có thể sản xuất nhiều hơn nhu cầu trong nước và phải mua những gì mình chưa có hoặc không có khả năng sản xuất từ những nước khác. Tuy nhiên, hoạt động xuất nhập khẩu không nhất thiết chỉ diễn ra những quốc gia có lợi thế về lĩnh vực này hay lĩnh vực khác, các quốc gia không có lợi thế về các điều kiện như nhân lực, tài chính, tài nguyên thiên nhiên, công nghệ, thông qua hoạt động trao đổi thương mại quốc tế cũng sẽ thu được những lợi ích, tạo điều kiện phát triển kinh tế trong nước. “Xuất khẩu là một bộ phận cấu thành chủ yếu của nền thương mại quốc tế cũng như ngoại thương của một đất nước, đó là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho nước ngoài” (Trích: giáo trình Thương mại Quốc tế, trường Đại học Kinh tế quốc dân). Hoạt động xuất khẩu đã và đang đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế mở cửa của các quốc gia. Cơ sở của hoạt động xuất khẩu hàng hoá là hoạt động mua bán trao đổi hàng hoá trong nước. Khi việc trao đổi này giữa các quốc gia đem lại lợi ích cho cả hai bên, các nước đều quan tâm mở rộng hoạt động này. Trong Ngoại thương, xuất khẩu và nhập khẩu là hai hướng lưu thông của hàng hoá đi ra nước ngoài và từ nước ngoài đi vào thị trường trong nước. Trong quan hệ kinh tế giữa hai quốc gia, nếu một nước xuất khẩu sang nước kia thì cũng có nghĩa là nước kia nhập khẩu từ nước này. Xuất khẩu là hình thức cơ bản của ngoại thương, là phương tiện thúc đẩy cho phát triển kinh tế, đã xuất hiện từ rất lâu đời và ngày càng phát triển. Xuất khẩu được thực hiện trên mọi lĩnh vực, mọi điều kiện kinh tế, từ xuất khẩu hàng hoá tiêu dùng đến xuất khẩu hàng hoá sản xuất, từ máy móc thiết bị đến các công nghệ kỹ thuật cao. Tất cả các hoạt động trao đổi đó đều nhằm mục tiêu là đem lại lợi ích cho các quốc gia. Xuất khẩu diễn ra trên phạm vi rất rộng cả về không gian lẫn thời gian. Xuất khẩu có thể chỉ diễn ra trong phạm vi lãnh thổ của các nước khác nhau, có thể được tiến hành trong một hai ngày hoặc kéo dài hàng năm. Việc mở rộng xuất khẩu để tăng thu ngoại tệ cho tài chính và cho nhu cầu nhập khẩu cũng như tạo cơ sở cho phát triển các hạ tầng là một mục tiêu quan trọng nhất của chính sách thương mại của một nước. Nhà nước ta đã và đang thực hiện các biện pháp thúc đẩy các ngành kinh tế hướng theo xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm và tăng thu ngoại tệ cho đất nước. 3. Vai trò của xuất khẩu Xuất khẩu đã được thừa nhận là hoạt động rất cơ bản của kinh tế đối ngoại, là nhân tố rất quan trọng thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Xét trên toàn bộ sự phát triển của nền kinh tế, hoạt động xuất khẩu có những vai trò chủ yếu sau: Thứ nhất, xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo và chậm phát triển của mỗi quốc gia. Để rút ngắn thời gian thực hiện của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải có số vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc thiết bị, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến. Nguồn vốn đó có thể được hình thành từ nhiều nguồn như đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ, hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ, xuất khẩu lao động,.... Tuy nhiên, các nguồn vốn này thường kèm theo những điều kiện hoặc hạn chế khác nhau và chúng ta vẫn phải trả bằng cách này hay cách khác. Bởi vậy, nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu phục vụ cho công nghiệp hoá đất nước vẫn là xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu. ở những nước đang phát triển và chậm phát triển, một trong những nguyên nhân thiếu vốn trong quá trình phát triển là do ít có cơ hội xuất khẩu. Không xuất khẩu được một mặt không thu được ngoại tệ từ hoạt động này, mặt khác các nhà đầu tư cũng không ưa thích đầu tư vào quốc gia mà họ không thấy có khả năng phát triển xuất khẩu do đó lại càng thiếu vốn hơn nữa. Trong tương lai, nguồn vốn bên ngoài sẽ tăng lên nhưng mọi cơ hội đầu tư và vay nợi nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ thuận lợi khi các chủ đầu tư và những người cho vay thấy được khả năng của xuất khẩu, nguồn vốn duy nhất để trả nợ. Thứ 2, hoạt động xuất khẩu góp phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Một trong những thành quả của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại đó là cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới thay đổi vô cùng mạnh mẽ. Do đó, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là một tất yếu đối với Việt Nam. Xem xét về vai trò của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hai cách nhìn nhận. Cách nhìn nhận thứ nhất, sản xuất trong nước có thể vượt quá nhu cầu tiêu dùng trong nước, xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa đó. Cách nhìn nhận này mới chỉ thấy được một phần nào của hoạt động xuất khẩu và còn mắc phải sai lầm. Nếu nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển, sản xuất về cơ bản còn chưa đủ đáp ứng tiêu dùng nội địa, chỉ thụ động chờ sản xuất “thừa ra”, thì xuất khẩu sẽ rất nhỏ bé, tăng trưởng với tốc độ thấp, đồng thời sự thay đổi cơ cấu kinh tế sẽ diễn ra một cách rất chậm chạp và bị động. Theo quan điểm thứ hai, thị trường thế giới được coi là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Điều này cũng có ý nghĩa là xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới để tổ chức sản xuất. Xuất khẩu có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Điều đó được thể hiện như sau: Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi. Ví dụ như ngành dệt may xuất khẩu phát triển sẽ mở cơ hội lớn cho các ngành sản xuất nguyên liệu như bông, thuốc nhuộm,.... Xuất khẩu mở rộng thị trường tiêu thụ, đảm bảo đầu ra cho sản phẩm, tạo tiền đề kinh tế-kỹ thuật nhằm mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước, góp phần cho sản xuất phát triển và ổn định. Xuất khẩu là một phương tiện quan trọng tạo ra vốn và kỹ thuật, công nghệ từ thế giới bên ngoài, nhằm hiện đại hoá đất nước, tạo ra các tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất. Thông qua xuất khẩu, hàng hoá trong nước sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi phải tổ chức sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất thích nghi được với thị trường. Bên cạnh đó cũng đòi hỏi các doanh nghiệp trong nước phải luôn đổi mới và hoàn thiện công việc quản trị sản xuất kinh doanh. Xuất khẩu là phương tiện quan trọng để tạo ra vốn, thu hút kỹ thuật công nghệ mới từ các nước phát triển nhằm hiện đại hoá nền kinh tế đất nước, tạo ra năng lực sản xuất mới. Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công việc quản trị sản xuất kinh doanh. Nhìn chung, cách nhìn nhận này tương đối chính xác và phù hợp với thực tế khách quan và đã nhận thức được một cách đúng đắn vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Thứ ba, xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Sản xuất hàng hoá xuất khẩu thu hút hàng triệu lao đông làm việc, giảm bớt tỷ lệ thất nghiệp trong xã hội, đồng thời các lao động này có mức thu nhập ổn định và tương đối cao. Hiện nay, ở Việt Nam, hàng triệu lao động đang làm việc tại các công ty, dự án có liên quan đến hoạt động xuất khẩu với mức lương khá cao. Đây là m
Tài liệu liên quan