Đề tài Tìm hiểu bản sắc văn hóa Tây Nguyên qua Rượu Cần

Đất nước Việt Nam với 54 dân tộc anh em cùng sinh sống với tinh thần tương thân tương ái cùng xây dựng và bảo vệ đất nước trong suốt hàng nghìn năm lịch sử. Mỗi dân tộc, mỗi vùng miền đều mang trong mình một sắc thái văn hóa riêng tạo nên những bản sắc văn hóa cùng góp chung vào một nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng, cùng nhau thực hiện Nghị quyết của Đảng và Nhà nước trong việc “xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Một trong những nét văn hóa đặc sắc của các dân tộc Tây Nguyên là Rượu Cần- một giá trị văn hóa truyền thống đã tồn tại song hành cùng mảnh đất và con người Tây Nguyên từ xưa đến nay. Rượu cần là nét văn hóa nội sinh độc đáo của các dân tộc Tây Nguyên, ra đời và tồn tại trong suốt quá trình hình thành và phát triển của vùng đất và con người trong điều kiện tự nhiên đầy thử thách cho đến ngày nay uống Rượu Cần đã trở thành nét văn hóa đẹp, một phong cách sinh hoạt văn hóa mang bản sắc riêng. Thưởng thức Rượu Cần là một nét sinh hoạt văn hóa không thể thiếu của đời sống cũng như phản ánh sinh động văn hóa vật chất và tinh thần xưa và nay. Nghiên cứu Rượu Cần là thực hiện việc tìm hiểu một giá trị văn hóa ẩm thực truyền thống với những nét đặc trưng vốn có đồng thời xem xét Rượu Cần trong mối tương quan với đời sống con người, điều kiện tự nhiên, đời sống văn hóa, xã hội.từ đó chúng ta có thể thấy được các bản sắc riêng giữa các tộc người đang sinh sống giữ vai trò là chủ thể văn hóa sáng tạo nên những giá trị văn hóa vô cùng độc đáo. Muốn có được điều đó, chúng ta phải hiểu rõ thực trạng của văn hóa Rượu Cần trong đời sống hôm nay để từ đó có những kiến nghị, đề xuất giải pháp để giữ gìn một nét văn hóa đẹp không chỉ trong cộng đồng dân tộc Tây Nguyên mà cho cả kho tàng văn hóa dân gian của 54 dân tộc Việt Nam trong tình thân cố kết, giao lưu.

doc46 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 3660 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu bản sắc văn hóa Tây Nguyên qua Rượu Cần, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Đất nước Việt Nam với 54 dân tộc anh em cùng sinh sống với tinh thần tương thân tương ái cùng xây dựng và bảo vệ đất nước trong suốt hàng nghìn năm lịch sử. Mỗi dân tộc, mỗi vùng miền đều mang trong mình một sắc thái văn hóa riêng tạo nên những bản sắc văn hóa cùng góp chung vào một nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng, cùng nhau thực hiện Nghị quyết của Đảng và Nhà nước trong việc “xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Một trong những nét văn hóa đặc sắc của các dân tộc Tây Nguyên là Rượu Cần- một giá trị văn hóa truyền thống đã tồn tại song hành cùng mảnh đất và con người Tây Nguyên từ xưa đến nay. Rượu cần là nét văn hóa nội sinh độc đáo của các dân tộc Tây Nguyên, ra đời và tồn tại trong suốt quá trình hình thành và phát triển của vùng đất và con người trong điều kiện tự nhiên đầy thử thách cho đến ngày nay uống Rượu Cần đã trở thành nét văn hóa đẹp, một phong cách sinh hoạt văn hóa mang bản sắc riêng. Thưởng thức Rượu Cần là một nét sinh hoạt văn hóa không thể thiếu của đời sống cũng như phản ánh sinh động văn hóa vật chất và tinh thần xưa và nay. Nghiên cứu Rượu Cần là thực hiện việc tìm hiểu một giá trị văn hóa ẩm thực truyền thống với những nét đặc trưng vốn có đồng thời xem xét Rượu Cần trong mối tương quan với đời sống con người, điều kiện tự nhiên, đời sống văn hóa, xã hội..từ đó chúng ta có thể thấy được các bản sắc riêng giữa các tộc người đang sinh sống giữ vai trò là chủ thể văn hóa sáng tạo nên những giá trị văn hóa vô cùng độc đáo. Muốn có được điều đó, chúng ta phải hiểu rõ thực trạng của văn hóa Rượu Cần trong đời sống hôm nay để từ đó có những kiến nghị, đề xuất giải pháp để giữ gìn một nét văn hóa đẹp không chỉ trong cộng đồng dân tộc Tây Nguyên mà cho cả kho tàng văn hóa dân gian của 54 dân tộc Việt Nam trong tình thân cố kết, giao lưu. Đề tài góp phần nhỏ bé tìm hiểu về một nét văn hóa sinh động mà độc đáo của con người và vùng đất Tây Nguyên thông qua cách thưởng thức Rượu Cần- mang vẻ đẹp thuần khiết đậm đà bản sắc dân tộc. 2. Lịch sử nghiên cứu Nghiên cứu về người Mạ nói riêng và về Rượu Cần nói chung có các tác phẩm đáng chú ý như “Miền thượng Tây Nguyên” cuả Cửu Long Giang và Toan Ánh, “Vấn đề dân tộc ở Lâm Đồng” Mạc Đường chủ biên, “Vài nét văn hóa các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên- Lâm Đồng” do Sở văn hóa thông tin tỉnh Lâm Đồng xuất bản năm 2005 và sách “ Văn hóa và xã hội con người Tây Nguyên” do Nguyễn Tấn Đắc đươc viện KHXH & NV và viên KHXH vùng Nam bộ xuất bản năm 2005. Ngoài ra những năm gần đây còn có một số khóa luận, đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên khoa Lịch sử, Việt Nam học ở các trương Đại học trong cả nước nghiên cứu lịch sử văn hóa được chứa đựng trong lớp trầm tích thời gian cuả vùng đất Tây Nguyên, đặc biệt là Rượu Cần- thức uống không thể thiếu của các dân tộc, nét tinh hoa văn hóa được lưu truyền qua hàng nghìn năm. Bên cạnh những bài viết liên quan đến đời sống của người Mạ như “ lịch sử kinh tế xã hội- sinh hoạt cộng đồng” còn có các tác phẩm, bài viết, công trình khoa học: được đăng tải trên các tạp chí Dân tộc học. Những bài viết chỉ tập trung chủ yếu vào việc nghiên cứu văn hóa của các dân tộc Tây Nguyên nhưng chưa có một nghiên cứu nào thật sự đề cập đến Rượu Cần ở góc độ văn hóa 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đề tài “ Tìm hiểu bản sắc văn hóa Tây Nguyên qua Rượu Cần” là đề tài mang tính khái quát cao tập trung trung chủ yếu vào văn hóa uống Rượu Cần cuả Tây Nguyên - vùng đất mang bề dày văn hóa trong quá trình hình thành các tộc người định cư, sinh sống và sáng tạo nên những giá trị văn hóa tồn tai đến ngày nay. Rượu Cần 4. Phương pháp nghiên cứu “Tìm hiểu bản sắc văn hóa Tây Nguyên qua Rượu Cần” là đề tài nghiên cứu có tính thực tế cao và cần phải có sự hệ thống, tổng hợp thông tin một cách chính xác nên trong quá trình nghiên cứu đòi hỏi nhiều phương pháp để có được kết quả đầy đủ, toàn diện nhằm làm rõ những vấn đề văn hóa của vùng đất và con người Tây Nguyên thông qua thức uống tồn tại hàng nghìn năm trong đời sống cộng đồng, một nét tinh hoa văn hóa của dân tộc- Rượu Cần. Yêu cầu đầu tiên đối với bản thân tôi là phải có những nhận thức ban đầu về địa bàn nghiên cứu, thông tin về con người, cách thức sinh hoạt văn hóa trong lịch sử và hiên tại.., các kiến thức về giao tiếp, ứng xử trong quá trình nghiên cứu. Bởi vậy, phương pháp thu thập thông tin qua các tài liệu, bài viết, công trình nghiên cứu là rất cần thiết, sau đó là quá trình điền dã khảo sát thực tế thu thập thông tin tại địa bàn nghiên cứu. Quá trình này đòi hỏi phương pháp phỏng vấn, quan sát cùng với việc hỗ trợ của các phương tiện máy chụp hình, máy ghi âm, máy quay, bản ghi chép nhanh..để có được thông tin chính xác, hình ảnh chân thực và sinh động. Ngoài phương pháp trên còn cần đến việc liên hệ chính quyền địa phương, được sự cho phép, đồng ý và sự giúp đỡ từ phía chính quyền và người dân. Sau quá trình tìm hiểu, quan sát và ghi chép cần sử dụng phương pháp liệt kê, so sánh, phân tích, tổng hợp các tư liệu có được đồng thời không thể quên 2 phương pháp cơ bản: lịch sử và logic. Cuối cùng, sau khi có đầy đủ thông tin tư liệu cần thiết phục vụ đề tài tiến hành việc phân tích, tổng hợp đánh giá trên cơ sở đó đối chiếu so sánh nhằm thấy rõ sự thay đổi của Văn hóa uống Rượu Cần trong suốt quá trình truyền thống đến hiện đại. Trong tiến trình lịch đó, Rượu Cần đã trở thành một biểu tượng văn hóa hết sức đặc sắc của người dân Tây Nguyên. Rượu Cần là một thức uống chứa đựng tinh hoa của miền đất Tây Nguyên mang những nét đặc trưng riêng biệt. Thông qua phương pháp so sánh, tổng hợp để thấy được bản sắc văn hóa của vùng đất Tây Nguyên mang đậm nét cá tính. 5.Bố cục B. Nội dung Chương I: Tổng quan sơ lược những khái niệm 1. Khái niệm văn hóa và bản sắc văn hóa 1.1.1 Khái niệm văn hóa Theo tài liệu năm 1995 của UNESCO thì năn hóa có thể được hiểu theo hai nghĩa: Thứ nhất, văn hoá của một nước là những sinh hoạt trong “lĩnh vực văn hóa”, hay là “khu vực công nghiệp văn hóa” của nước ấy. Đó là viết văn, làm thơ, vẽ tranh…,nói chung là những hoạt động có tính văn chương nghệ thuật. Thứ hai, nhìn theo quan điểm nhân chủng học và xã hội học, văn hóa là tập hợp những phong thái, tập quán, tín ngưỡng, là nền tảng, là chất keo không thể thiếu cho sự vận hành nhuần nhuyễn của xã hội. Nó là hiện thân những giá trị được cộng đồng chấp nhận, dù có thể biến đổi từ thế hệ này sang thế hệ khác 1.1.2. Khái niệm bản sắc văn hóa Bản sắc văn hóa là cái cốt lõi, đặc trưng riêng có của một cộng đồng văn hóa trong lịch sử tồn tại và phát triển, giúp phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Bản sắc văn hóa thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống - ý thức của một cộng đồng, bao gồm: cội nguồn, cách tư duy, cách sống, dựng nước, giữ nước, sáng tạo văn hóa, khoa học - nghệ thuật... Khái niệm Bản sắc văn hóa có hai quan hệ cơ bản: quan hệ bên ngoài là dấu hiệu để phân biệt các cộng đồng với nhau quan hệ bên trong chỉ tính đồng nhất mà mỗi cá thể trong một cộng đồng phải có. 1.2. Khái niệm ẩm thực và văn hóa ẩm thực 1.2.1. Khái niệm “ẩm thực” “Ăn uống” hay “ẩm thực” trong Tiếng Việt là từ ghép, tương đương với các từ trong các ngôn ngữ khác như: tiếng Anh: “Food and drink”, tiếng Pháp “Le Borie et le Manger”, tiếng Nhật “Nomikui”. Tùy theo quan niệm về ẩm thực của từng dân tộc mà trong từ ngữ này, thứ tự sắp xếp hai yếu tố “ăn” và “uống” có khác nhau. Theo Nguyễn Văn Dương nghiên cứu về ẩm thực trong ngôn ngữ, thì từ “ăn” trong tiếng Việt có số lượng ngữ nghĩa và số lượng từ ghép rất phong phú, có đến 15/20 ngữ nghĩa được nêu trong “Từ điển Tiếng Việt” có liên quan đến từ “ăn”. Sở dĩ từ “ăn” chiếm vị trí lớn trong ngôn ngữ và tư duy người Việt vì từ xưa cho đến đầu thế kỷ XX, nước ta đất hẹp, khoa học kỹ thuật chưa phát triển, mức sống còn thấp, do đó cái ăn luôn là cái yếu tố quan trọng nhất: “ Có thực mới vực được đạo”, “Dĩ thực vi tiên”..Bên cạnh “ăn” thì “uống” không chiếm vị trí quan trọng trong ngôn ngữ Việt Nam. Ngoài nghĩa thông thường là uống nước cho hết khát, từ “uống” trong từ ‘ăn uống còn có nghĩa là uống rượu. Hiện nay, trong ngôn ngữ đời thường dùng từ “nhậu” để chỉ việc uống rượu. Tuy nhiên, trong từ điển của Huỳnh Tịnh Của (1895 - 1896), của Génibrel (1898), thì nhậu chỉ có nghĩa là uống, không chỉ là uống rượu. Tuy nhiên, do chuyện rượu chè mang tính thái quá của rất nhiều người trong xã hội, “nhậu” trở thành một hiện tượng không lành mạnh, và bị xem là thói xấu nếu như có tính lạm dụng và gây ra những hành động thiếu văn hóa, tình cảm. Trong Việt Nam tân từ điển của Thanh Nghị (1952) thì “nhậu” đã được mang nghĩa rõ hơn là “Uống, thường là uống rượu” 1.2.2. Khái niệm văn hóa ẩm thực Từ ngàn xưa ông cha ta không hề xem nhẹ việc ăn uống. Việc dạy ăn như thế nào, học ăn như thế nào phải được bắt đầu từ chính gia đình. Đây là tế bào của xã hội, cái nôi đầu tiên giúp con người tự hoàn thiện bản thân, hình thành nhân cách, trau dồi kiến thức ứng xử, thể hiện được truyền thống văn hóa của dân tộc ta từ bao đời. Phải chăng những quy tắc, cung cách ứng xử đúc kết từ kinh nghiệm dân gian là “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng”, là “Học ăn, học nói, học gói, học mở” đã đi vào truyền thống văn hóa như một niềm tự hào dân tộc, một nét văn hóa không thể tách rời phong cách sống của người Việt ? Khi nói về văn hóa ẩm thực, trước hết ta phải nói đến nét văn hóa trong ăn uống ở gia đình, từ đó rộng ra là những buổi tiệc,những buổi gặp mặt giao lưu..mang tính chất giao tiếp xã hội. Trong giáo trình “ Văn hóa ẩm thực” của Nguyễn Thị Diệu Thảo đã đề cập đến nét văn hóa trong ăn uống đầy sáng tạo “Ta có thể xem văn hóa ẩm thực là một bộ “gen” đặc biệt có khả năng lưu truyền nhiều giá trị văn hóa của nhân loại mà gia đình là những tế bào lưu giữ là lưu truyền từ đời này sang đời khác”. Ăn uống trong gia đình là lối ăn uống phổ biến nhất của toàn nhân loại. Đặc biệt ở một mức độ nào đó thì lối ăn uống này ở Việt Nam mang tính phổ biến hơn nhiều so với các nước khác vì theo tính đặc thù của một nền nông nghiệp trồng lúa nước với phần lớn cư dân hoạt động nông nghiệp nên thời gian tụ họp cùng gia đình được xem là chủ yếu. Bữa ăn gia đình và đặc biệt hơn là trong gia đình có sự chung sống của nhiều thế hệ được xem là một môi trường văn hóa thể hiện quá trình bảo lưu, tiếp nối và bao gồm cả sự giao lưu chuyển tiếp giữa các thế hệ. Đây là một yếu tố vô cùng độc đáo, trong bề dày truyền thống đó mọi yếu tố văn hóa không chỉ được chuyển tải trong việc ăn thức gì, uống như thế nào mà còn luôn luôn được gìn giữ trong khuôn khổ cổ truyền một lối ăn theo truyền thống được thể hiện rất rõ qua cách thức sử dụng dụng cụ ăn ( người Việt Nam dùng đũa tre, mâm tròn, bát tròn..) bên cạnh đó là cách ứng xử với mọi người trong khi ăn sao cho thật đẹp lòng, vừa ý… Vậy tựu chung lại ở góc nhìn văn hóa ta có thể đưa ra khái niệm văn hóa ẩm thực : “ Văn hóa ẩm thực là những phong tục, những thể thức ăn uống từ nghìn xưa để lại, mang đậm sắc thái của một nước, tạo nên những độc đáo riêng biệt của nước đó”. Qua nghiên cứu, các nhà văn hóa học đều đưa ra nhận định : “Ăn uống của mỗi dân tộc là một hiện tượng văn hóa khi nó mang trong mình những giá trị chân - thiện - mỹ. Với người Việt Nam, ăn uống là cả một nghệ thuật, nó không chỉ đáp ứng yêu cầu cơ bản của con người mà còn có mối quan hệ mật thiết đến lối sống, truyền thống của dân tộc. Chương II: Vài nét về lịch sử hình thành, điều kiện tự nhiên và đời sống kinh tế- văn hóa- xã hội của mảnh đất Tây Nguyên 2.1. Sơ lược về Tây Nguyên 2.1.1. Lich sử hình thành Vùng đất Tây Nguyên từ xưa vốn là vùng đất tự trị, địa bàn sinh sống của các bộ tộc thiểu số, chứ phát triển thành một quốc gia hoàn chỉnh. Do đất rộng, người thưa, các bộ tộc thiểu số ở đây thỉnh thoảng trở thành mục tiêu của các cuộc tấn công của vương quốc Champa hoặc Chân Lạp nhằm cướp bóc nô lệ. Thánh hai năm Tân Mão niên hiệu Hồng Đức thứ II (1471), vua Thánh Tông thân chinh đi đánh Chiêm Thành, phá được thành Chà Bàn, bắt sống vua Champa là Trà Toàn, sát nhập 3 phần 5 lãnh thổ Champa thời đó vào Đại Việt. Hai phần Champa còn lại, được vua Lê Thánh Tông chia thành các tiểu quốc nhỏ thuần phục Đai Việt. Phần đất Phan Lung (tức Phan Rang ngày nay) do viên tướng Chăm là Bồ Trì trấn giữ, được vua Lê coi là phần kế thừa của vương quốc Chiêm Thành. Một phần đất này là tỉnh Phú Yên, Lê Thánh Tông phong tặng cho Hoa Anh vương tạo nên nước Nam Hoa. Vùng đất phía tây núi Thạch Bi, tức miền Bắc Tây Nguyên ngày nay được lập thành nước Nam Bàn, vua nước nay được phong làm Nam Bàn vương. Sau khi Nguyễn Hoàng xây dựng vùng căn cứ phía Nam, các cháu Nguyễn ra sức loại trừ các ảnh hưởng còn lại của Champa và cũng phái một số sứ đoàn để thiết lập quyền lực ở khu vực Tây Nguyên. Các dân tộc thiểu số ở đây chuyển sang chịu sự bảo hộ của người Việt. Tuy nhiên, các dân tộc ở đây vẫn còn thưa thớt, nhỏ lẻ và mục tiêu của các chúa Nguyễn nhắm trước đến những vùng đồng bằng, nên chỉ thiết lập quyền lực rất lỏng lẻo ở đây. Trong tài liệu vào các thế kỉ XVI, XVII đã có những ghi nhận về các bộ tộc Mọi Đá Vách (hre’), Mọi Hời (Hroi, Bru, Ktu, Pacoh), Mọi Đá Hàm (Djarai), Mọi Bà Rịa (Mạ)…để chỉ các bộ tộc thiểu số cư trú ở các vùng Nam Tây Nguyên ngày nay. Tuy sự ràng buộc lỏng lẻo, nhưng về danh nghĩa, vùng dất Tây Nguyên vẫn thuộc phạm vi quả lý của các chúa Nguyễn. Thời nhà Tây Sơn, rất nhiều chiến binh thuộc các bộ tộc thuộc thiểu số Tây Nguyên gia nhập quân Tây Sơn, đặc biệt với đội tượng binh nổi tiếng trong cuộc hành quân của Quang Trung tiến công ra Bắc xuân Kỷ Dậu (1789) . Tây Sơn thượng đạo, vùng đất phía Tây đèo An Khê là một căn cứ chuẩn bị lực lượng cho quân Tây Sơn thưở ban đầu. Người lãnh đạo việc hậu cần này của quân Tây Sơn là người vợ dân tộc Bana của Nguyễn Nhạc. Sang đến triều nhà Nguyễn, quy chế bảo hộ trên danh nghĩa dành cho Tây Nguyên vẫn không thay đổi nhiều, mặc dù vua Minh Mạng có đưa phần lãnh thổ Tây Nguyên vào Bản đồ Việt Nam (Việt Nam nhất thống toàn đồ - 1834).  Người Việt vẫn chủ yếu khai thác miền đồng bằng nhiều hơn, đặc biệt ở các vùng đồng bằng Đông Nam Bộ ngày nay, điều đó đã đẩy các bộ tộc thiểu số bán sơn địa lên hẳn vùng Tây Nguyên ( như trường hợp dân tộc Mạ). Trong cuốn Đại Việt địa dư toàn biên, Phương Đình Nguyễn Văn Siêu có viết: “ Thủy Xá, Hỏa Xá ở ngoài cõi Nam Bàn nước Chiêm Thành. Bấy giờ trong Thương đạo tỉnh Phú An có núi Bà Nam rất cao. Thủy Xá ở phía Đông nước ấy,…Hỏa Xá ở phía Tây núi ấy, phía Tây tiếp giáp với xứ Sơn Bốc sở Nam nước Chân Lạp, phía Nam là Lạc man (những tộc người du cư). Phía trên là sông Đại Giang, phía dưới là sông Ba Giang làm giới hạn bờ cõi 2 nước ấy. Sau khi người Pháp nắm được quyền kiểm soát Việt Nam, họ đá thực hiện hàng loạt các cuộc thám hiểm và chinh phục vùng đất Tây Nguyên. Trước đó các nhà truyền giáo đã đi tiên phong lên vùng đất hoang sơ và còn nhiều bí ẩn này Năm 1888, một người Pháp gốc đảo Corse tên là Mayréna sang Đông Dương, chọn Dakto làm vùng đất cát cứ và lần lượt chinh phục được các bộ lạc thiểu số. Ông ta thành lập Vương quốc Sedang có quốc kỳ, có giấy bạc, có cấp chức riêng và tự mình lập làm vua tước hiệu Marie đệ nhất. Nhận thấy được vị trí quan trọng của vùng đất Tây Nguyên, nhân cơ hội Mayréna về châu Âu, chính phủ Pháp đã đưa công sứ Quy Nhơn lên “đăng quang” thay Mayréna. Vùng đất Tây Nguyên được đặt dưới quyền quản lý của Công sứ Quy Nhơn. Sau đó vài năm, thì vương quốc này cũng bị giải tán. Năm 1891, bác sĩ Alexandre Yersin mở cuộc thám hiểm và phát hiện ra cao nguyên Lang Biang. Ông đã đề nghị với chính phủ thuộc địa xây dựng một thành phố nghỉ mát tại đây. Nhân dịp này, người Pháp bắt đầu chú ý khai thác kinh tế đối với vùng đất này. Tuy nhiên, về danh nghĩa, vùng đất Tây Nguyên vẫn thuộc quyền kiểm soát của triều đình Đại Nam. Vì vậy, năm 1896, khâm sứ Trung kỳ Boulloche đề nghị Cơ mật viện triều Nguyễn giao cho Pháp trực tiếp phụ trách an ninh tại các cao nguyên Trung kỳ. Năm 1898, vương quốc Sedang bị giải tán. Một tòa đại lý hành chính được lập ở Kontum, trực thuộc Công sứ Quy Nhơn. Năm 1899, thực dân Pháp buộc vua Đồng Khánh ban dụ trao cho họ Tây Nguyên để họ có quyền tổ chức hành chính và trực tiếp cai trị các dân tộc thiểu số ở đây. Năm 1900, Toàn quyền Paul Doumer đích thân thị sát Đà Lạt và quyết định chọn Đà Lạt làm thành phố nghỉ mát. Vùng đất cao nguyên Trung kỳ (Tây Nguyên) hoàn toàn thuộc quyền cai trị của chính quyền thực dân Pháp. Năm 1907, tòa đại lý ở Kontum đổi thành tòa Công sứ Kontum, cùng với việc thành lập các trung tâm hành chính Kontum và Cheo Reo. Những thực dân người Pháp bắt đầu lên đây xây dựng các đồn điền đồng thời cũng ngăn cấm người Việt lên theo, trừ số phu họ mộ được. Năm 1917, tại đó, thị xã Đà Lạt được thành lập. 2.1.2. Điều kiện tự nhiên 2.1.2.1. Điều kiện địa lý Tây Nguyên là vùng cao nguyên, giáp với Hạ Lào và Đông Bắc Campuchia. trong khi Kon Tum có biên giới phía tây giáp với cả Lào và Campuchia, thì Gia Lai, Đắk Lắk và Đắk Nông chỉ có chung đường biên giới với Campuchia. Còn Lâm Đồng không có đường biên giới quốc tế Thực chất, Tây Nguyên không phải là một cao nguyên duy nhất mà là một loạt cao nguyên liền kề. Đó là các cao nguyên Kon Tum cao khoảng 500 m, cao nguyên Kon Plông, cao nguyên Kon Hà Nừng, Plâyku cao khoảng 800 m, cao nguyên M'Drăk cao khoảng 500 m, cao nguyên Buôn Ma Thuột cao khoảng 500 m, Mơ Nông cao khoảng 800-1000 m, cao nguyên Lâm Viên cao khoảng 1500 m và cao nguyên Di Linh cao khoảng 900-1000 m. Tất cả các cao nguyên này đều được bao bọc về phía Đông bởi những dãy núi và khối núi cao (chính là Trường Sơn Nam). Tây Nguyên lại có thể chia thành ba tiểu vùng địa hình đồng thời là ba tiểu vùng khí hậu, gồm Bắc Tây Nguyên (tương ứng với các tỉnh Kon Tum và Gia Lai, trước là một tỉnh), Trung Tây Nguyên (tương ứng với các tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông), Nam Tây Nguyên (tương ứng với tỉnh Lâm Đồng). Trung Tây Nguyên có độ cao thấp hơn và nền nhiệt độ cao hơn hai tiểu vùng phía Bắc và Nam. 2.1.2.2. Đất đai, thổ nhưỡng Với đặc điểm thổ nhưỡng đất đỏ bazan ở độ cao khoảng 500 m đến 600 m so với mặt biển, Tây Nguyên rất phù hợp với những cây công nghiệp như cà phê, ca cao, hồ tiêu, dâu tằm. Cây điều và cây cao su cũng đang được phát triển tại đây. Cà phê là cây công nghiệp quan trọng số một ở Tây Nguyên. Tây Nguyên cũng là vùng trồng cao su lớn thứ hai sau Đông Nam Bộ. Và đang tiến hành khai thác Bô xít. Tây Nguyên cũng là khu vực ở Việt Nam còn nhiều diện tích rừng với thảm sinh vật đa dạng, trữ lượng khoáng sản phong phú hầu như chưa khai thác và tiềm năng du lịch lớn, Tây nguyên có thể coi là mái nhà của miền trung, có chức năng phòng hộ rất lớn. Tuy nhiên, nạn phá rừng, hủy diệt tài nguyên thiên nhiên và khai thác lâm sản bừa bãi chưa ngăn chận được tại đây có thể dẫn đến nguy cơ làm nghèo kiệt rừng và thay đổi môi trường sinh thái. 2.1.2.3. Khí hậu Khí hậu ở Tây Nguyên được chia làm hai mùa: mùa mưa từ tháng 5 đến hết tháng 10 và mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4, trong đó tháng 3 và tháng 4 là hai tháng nóng và khô nhất. Do ảnh hưởng của độ cao nên trong khi ở các cao nguyên cao 400-500 m khí hậu tương đối mát và mưa nhiều, riêng cao nguyên cao trên 1000 m (như Đà Lạt) thì khí hậu lại mát mẻ quanh năm như vùng ôn đới. 2.1.3. Đặc điểm xã hội và dân cư 2.1.3.1. Tình hình kinh tế - xã hội So với các vùng khác trong cả nước, điều kiện kinh tế - xã hội của Tây Nguyên có nhiều khó khăn, như là thiếu lao động lành nghề, cơ sở hạ tầng kém phát triển, sự chung đụng của nhiều sắc dân trong một vùng đất nhỏ và với mức sống còn thấp. Tuy nhiên, Tây Nguyên có lợi điểm về tài nguyên thiên nhiên. Tây Nguyên có đến 2 triệu hecta đất bazan màu mỡ, tức chiếm đến 60% đất bazan cả nước, rất phù hợp với những cây công nghiệp như cà phê, ca cao, hồ tiêu, dâu tằm, trà. Cà phê là cây công nghiệp quan trọng số một ở Tây Nguyên. Diện tích cà phê ở Tây Nguyên hiện nay là hơn 290 nghìn ha, chiếm 4/5 diện tích cà phê cả nước. Đắk Lắk là tỉnh có diện tích cà phê lớn nhất (170 nghìn ha) và cà phê Buôn Ma Thuột nổi tiếng có chất lượng c