Đề tài Tổ chức hoạt động marketing sản phẩm xuất khẩu của Tổng công ty Rau quả Việt Nam sang thị trường Liên bang Nga

Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã có sự thay đổi nhanh chóng, các hoạt động kinh tế trên nhiều lĩnh vực phát triển mạnh nhờ vào sự quản lý điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Đặc biệt, trong lĩnh vực quan hệ đối ngoại, chúng ta đã có những bước tiến hết sức lạc quan, hàng hoá của ta xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới. Điều này góp phần tăng thu nhập ngoại tệ cho đất nước và thúc đẩy hoạt động nhập khẩu vật tư máy móc thiết bị xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật để thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá và phục vụ cho tái sản xuất. Rau, hoa, quả là cây có giá trị cao của nền nông nghiệp Việt Nam, đồng thời có giá trị với nền văn hoá, xã hội và môi trường sinh thái của đất nước. Tiềm năng sản xuất rau, hoa, quả là một trong các mảng tài nguyên nông nghiệp Việt Nam – phát triển rau, hoa, quả là khai thác một nguồn lợi có giá trị của đất nước và đáp ứng được nhu cầu thiết yếu ngày càng tăng của đời sống nhân dân. Rau, hoa, quả của nước ta được trồng rất sớm từ mấy ngàn năm nay trong quá trình phát triển nông nghiêp. Điều kiện tự nhiên cho phép nước ta trồng được nhiều loại rau quả nhiệt đới, á nhiệt đới và một số rau quả gốc ôn đới, vụ mùa thu hoạch kế tiếp nhau nhiều tháng trong năm. Việt Nam còn là một trong các vùng phát triển của các cây ăn quả như: cam, quýt, vải, chuối, và có nguồn gen di truyền thực vật phong phú, đa dạng về cây ăn quả, rau, gia vị và hoa

doc62 trang | Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1331 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tổ chức hoạt động marketing sản phẩm xuất khẩu của Tổng công ty Rau quả Việt Nam sang thị trường Liên bang Nga, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã có sự thay đổi nhanh chóng, các hoạt động kinh tế trên nhiều lĩnh vực phát triển mạnh nhờ vào sự quản lý điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Đặc biệt, trong lĩnh vực quan hệ đối ngoại, chúng ta đã có những bước tiến hết sức lạc quan, hàng hoá của ta xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới. Điều này góp phần tăng thu nhập ngoại tệ cho đất nước và thúc đẩy hoạt động nhập khẩu vật tư máy móc thiết bị xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật để thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá và phục vụ cho tái sản xuất. Rau, hoa, quả là cây có giá trị cao của nền nông nghiệp Việt Nam, đồng thời có giá trị với nền văn hoá, xã hội và môi trường sinh thái của đất nước. Tiềm năng sản xuất rau, hoa, quả là một trong các mảng tài nguyên nông nghiệp Việt Nam – phát triển rau, hoa, quả là khai thác một nguồn lợi có giá trị của đất nước và đáp ứng được nhu cầu thiết yếu ngày càng tăng của đời sống nhân dân. Rau, hoa, quả của nước ta được trồng rất sớm từ mấy ngàn năm nay trong quá trình phát triển nông nghiêp. Điều kiện tự nhiên cho phép nước ta trồng được nhiều loại rau quả nhiệt đới, á nhiệt đới và một số rau quả gốc ôn đới, vụ mùa thu hoạch kế tiếp nhau nhiều tháng trong năm. Việt Nam còn là một trong các vùng phát triển của các cây ăn quả như: cam, quýt, vải, chuối,… và có nguồn gen di truyền thực vật phong phú, đa dạng về cây ăn quả, rau, gia vị và hoa… Thấy được lợi thế của ngành rau quả, trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có sự quan tâm đặc biệt đến sự phát triển của ngành. Được sự giúp đỡ và chỉ đạo trực tiếp của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Tổng công ty Rau quả Việt Nam đã phát huy toàn bộ khả năng sản xuất của mình cũng như hoạt động kinh doanh để không ngừng mở rộng thị trường, thúc đẩy hoạt động xuất khẩu các sản phẩm rau quả sang nhiều nước trên thế giới và hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho. Để khắc phục nhược điểm của nhóm sản phẩm rau quả tươi sống là nhanh chóng giảm sút chất lượng sau khi thu hoạch, ngành sản xuất rau quả chế biến đã ra đời. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn nhưng công tác chế biến cũng đã góp phần to lớn cho hoạt động xuất khẩu, tạo được nhiều chủng loại hàng hoá đặc trưng nhiều nơi không có hoặc trái mùa vụ mà không sản xuất được. Phát triển sản xuất rau quả gắn với công nghiệp chế biến, phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu đã trở thành một trong những mục tiêu của chương trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn nước ta. Trong thời gian thực tập tại Tổng công ty Rau quả Việt Nam, tôi đã nhận thấy tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn của công tác tổ chức hoạt động Marketing xuất khẩu của sản phẩm rau quả chế biến, giúp cho Tổng công ty mở rộng thị trường, có thêm nhiều đối tác kinh doanh, tăng nguồn thu ngoại tệ và tăng nguồn đóng góp cho ngân sách Nhà nước. Với thực tiễn như vậy, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Tổ chức hoạt động marketing sản phẩm xuất khẩu của Tổng công ty Rau quả Việt Nam sang thị trường Liên bang Nga”. Có thể nói, Liên Bang Nga là một thị trường truyền thống, sôi động và là thị trường có tiềm năng của Tổng công ty Rau quả Việt Nam nên tổ chức hoạt động Marketing xuất khẩu các sản phẩm rau quả chế biến là công tác cần thiết. Mục đích nghiên cứu. + Củng cố kiến thức về chuyên ngành đã được học thông qua việc tiếp cận, tìm hiểu thực tiễn hoạt động Marketing của Tổng công ty Rau quả Việt Nam. + Với xu thế phát triển của Tổng công ty, bài báo cáo chuyên đề đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức hoạt động Marketing sản phẩm xuất khẩu của Tổng công ty Rau quả Việt Nam sang thị trường Liên Bang Nga và một số đề xuất khác trên tầm vĩ mô - tạo môi trường và điều kiện để triển khai tối ưu hoạt động Marketing sản phẩm xuất khẩu ở Công ty kinh doanh quốc tế Việt Nam nói chung và Tổng công ty Rau quả Việt Nam nói riêng. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu. Do hạn chế về thời gian, điều kiện năng lực nghiên cứu và hơn nữa đề tài chứa đựng nội dung nghiên cứu phức tạp nên tôi tập trung nghiên cứu đề tài này trên giác độ tiếp cận môn Quản trị Marketing và Marketing Quốc tế, với giới hạn về nội dung được xác định trong phần I của bài báo cáo thực tập chuyên đề. Phương pháp nghiên cứu. Để hoàn thành tốt các mục tiêu nghiên cứu trên, tôi đã áp dụng hai phương pháp nghiên cứu cơ bản là phương pháp nghiên cứu tài liệu, nắm bắt rõ những cơ sở lý luận, tiền đề của đề tài và phương pháp nghiên cứu trực tiếp tại hiện trường, thấy được việc áp dụng cơ sở lý luận vào thực tiễn ở Tổng công ty Rau quả Việt Nam. I. NHỮNG TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG MARKETING CỦA CÔNG TY KINH DOANH QUỐC TẾ 1. Tự do hoá thương mại toàn cầu, những thời cơ và thách thức đối với doanh nghiệp kinh doanh quốc tế Việt Nam Trong hai thập kỷ vừa qua, nền kinh tế đã biến đổi rất cơ bản. sự xuất hiện máy fax, các hệ thống nối mạng máy tính, điện thoại toàn cầu và chương trình truyền hình qua vệ tinh đi khắp thế giới…, đang ngày càng khẳng định những ảnh hưởng có tính quyết định, đa dạng của xu hướng toàn cầu hoá. Toàn cầu hoá “là hiện tượng đa phương diện áp dụng cho nhiều hình thức hoạt động xã hội đa dạng như kinh tế, xã hội, chính trị, pháp luật, quân sự và công nghệ cũng như các vấn đề hoạt động xã hội, như môi trường”. Một trong những nội dung của toàn cầu hoá là vấn đề tự do hoá thương mại với nhịp độ lớn hơn nhiều so với sản xuất hàng hoá, tăng thêm mức độ phụ thuộc của các nền kinh tế quốc gia đối với thương mại quốc tế trong hoạt động kinh tế nói chung. Quan hệ thương mại diễn ra rộng khắp các quốc gia trên toàn cầu: hàng loạt các liên minh, các tổ chức kinh tế lớn nhỏ được thành lập như: AFTA (khu vực mậu dịch tự do ASEAN), NAFTA (khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ), EU (liên minh châu Âu), APEC (hội nghị hợp tác kinh tế Thái Bình Dương), WTO (tổ chức thương mại thế giới), đặc biệt là sự xuất hiện đồng EURO đầu năm 1999, đồng tiền chung của các nước châu Âu. Như vậy, trong những điều kiện khoa học kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ thông tin, có những bước tiến dài, giao thông vận tải phát triển mạnh mẽ, khu vực kinh tế tư nhân ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế quốc dân, sự phát triển của mọi hoạt động kinh tế như sản xuất thương mại tài chính, tiền tệ, đầu tư… đã mang lại diện mạo mới cho thương mại hoá toàn cầu, đồng thời cũng đặt các nước đang phát triển trước những cơ hội và thách thức to lớn. Cho đến nay, các quốc gia đã và đang nỗ lực hội nhập vào xu thế này với cách thức riêng của mình. Là một quốc gia đang phát triển, Việt Nam cũng đã và đang hết sức nỗ lực để tận dụng một cách có hiệu quả những cơ hội và giải quyết những thách thức đối với doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu của chúng ta hiện có thể được cụ thể hoá như sau: Những thời cơ - Việt Nam chủ động hội nhập với nền kinh tế toàn cầu, đang dần dần từng bước mở rộng quan hệ hợp tác với tất cả các quốc gia trên thế giới. Vì vậy, các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế có nhiều điều kiện để mở rộng phạm vi hoạt động kinh doanh của mình ở bên ngoài. Nói cách khác, sản phẩm của các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế Việt Nam sẽ có một thị trường toàn cầu bao la và rộng lớn. - Những thành tựu kỳ diệu về khoa học công nghệ mở ra những khả năng vô tận cho sản xuất và cuộc sống cho con người. Tham gia vào nền kinh tế toàn cầu là điều kiện của các công ty kinh doanh quốc tế Việt Nam tận dụng những thành tựu này và phát triển chính năng lực của mình, khẳng định vị trí xứng đáng trên thị trường quốc tế. - Ngoài việc ký kết các hiệp định thương mại với các nước tạo thị trường cho hàng xuất khẩu của Việt Nam, chúng ta tiến hành thành lập các cơ quan xúc tiến thương mại nhằm cung cấp cho các nhà sản xuất trong nước những thông tin đầy đủ về thị trường xuất khẩu. Những trung tâm này luôn làm nhiệm vụ nghiên cứu và tư vấn cho các doanh nghiệp trong nước về thị trường xuất khẩu. - Như vậy, Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới nhờ sự tham gia vào sự phân công và hợp tác quốc tế, sẽ mở rộng thị trường nước ngoài, đẩy mạnh sản xuất các mặt hàng của Việt Nam có lợi thế so sánh và nâng cao lợi thế cạnh tranh các sản phẩm của thị trường trên thế giới. Những thách thức Bên cạnh những thời cơ, những thách thức đối với doanh nghiệp kinh doanh quốc tế Việt Nam là một bài toán đang cần được giải đáp. - Việt Nam chỉ mới bắt đầu tham gia vào nền kinh tế toàn cầu, do vậy nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và thế giới rất dễ xảy ra. Hiện nay năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam còn rất thấp trên đấu trường quốc tế, bởi các nhân tố ảnh hưởng: chất lượng sản phẩm còn hạn chế, giá thành sản phẩm cao, trình độ cán bộ không đồng đều, việc áp dụng công nghệ vào sản xuất còn mới mẻ… - Quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế còn đang tiến hành trong yêu cầu hội nhập gay gắt, làm cho nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, cũng như gây ảnh hưởng lớn đối với các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế Việt Nam. - Lợi thế về con người (giá nhân công rẻ, tỷ lệ biết chữ cao) có khả năng nhanh chóng mất đi do việc đầu tư chưa ngang tầm đòi hỏi. Tóm lại, tự do hoá thương mại toàn cầu có những ưu điểm được công nhận rõ ràng, nhưng cũng tồn tại những yếu điểm nhất định. Chính bởi vậy, đòi hỏi những doanh nghiệp kinh doanh quốc tế của các nước đang phát triển như Việt Nam cần đánh giá các mặt hàng của mình một cách phù hợp, tận dụng tốt các thời cơ và nhanh chóng tìm ra hướng giải quyết những khó khăn khi tham gia vào nền kinh tế toàn cầu. Những nhiệm vụ đổi mới của công ty kinh doanh quốc tế nước ta trong thời gian hiện nay Trong cơ chế mới, các công ty phải hoàn toàn độc lập hoạt động theo định hướng chung của Nhà nước, phải tự tìm thị trường, bạn hàng tự hạch toán, lỗ phải chịu, nếu thua lỗ nhiều thì buộc phải giải thể. Các công ty kinh doanh quốc tế đang đứng trước thách thức lớn, muốn tồn tại và phát triển cần đổi mới cách thức làm ăn và nhận thức rõ ràng những nhiệm vụ đổi mới của mình. Có thể tóm lược là: - Tiếp tục triển khai tư duy đổi mới tổ chức vận hành kinh doanh quốc tế nhằm nâng cao xuất khẩu và bảo trợ sản xuất trong nước. - Hoạt động kinh doanh quốc tế theo đúng định hướng của Đảng và Nhà nước: tăng cường xuất khẩu những mặt hàng chế biến, mặt hàng chất lượng cao, hàng thủ công mỹ nghệ, hàng truyền thống… - Tích cực chuẩn bị điều kiện để hội nhập kinh tế thương mại với các nước trong khu vực và trên thế giới. - Đảm bảo chế độ hạch toán kinh doanh và nộp ngân sách Nhà nước theo đúng quy định, bảo toàn và phát triển nguồn vốn mà Nhà nước cấp, thực hiện chế độ thu chi hoá đơnchứng từ theo đúng hạch toán của Nhà nước. - Nghiên cứu thị trường xuất khẩu trong đặc điểm thích hợp với nguồn lực của công ty. Lựa chọn chiến lược Marketing thích ứng đảm bảo khả năng khai thác thị trường xuất khẩu trong đặc điểm nhằm nâng cao vai trò của công ty trên thị trường. - Phát triển nguồn nhân lực và nhân tài kinh doanh:công ty cần có kế hoạch đào tạo thường xuyên để bồi dưỡng và nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ công nhân viên. - Phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật: cần có sự đầu tư hợp lý để nâng cao năng suất, chất lượng và đảm bảo thời hạn và giao hàng, giữ uy tín trong kinh doanh. Nói tóm lại, tự do hoá thương mại toàn cầu là một xu thế tất yếu mà bất kỳ quốc gia nào trên thế giới hiện nay cũng cần quan tâm đến. Việt Nam nói chung và các công ty kinh doanh quốc tế nói riêng nhất thiết phải nắm bắt được những thời cơ cũng như thách thức của mình khi tham gia vào xu thế này nằm có những phương hướng đổi mới phù hợp, bắt kịp với thế giới hiện đại và tránh được sự tụt hậu đằng sau, gây nhiều hậu quả xấu. 2. Phân tích nội dung cơ bản của tổ chức hoạt động Marketing xuất khẩu của công ty kinh doanh quốc tế 2.1. Khái niệm, bản chất và những đặc trưng cơ bản của Marketing xuất khẩu Khái niệm Marketing xuất khẩu Hiện nay, một trong những vấn đề về quan điểm được tranh luận dai dẳng trong Marketing là định nghĩa của nó. Thật vậy, đã có rất nhiều định nghĩa Marketing khác nhau. - Theo Philip Kotler: Marketing là hoạt động của con người hướng tới sự thoả mãn nhu cầu và ước muốn thông qua các tiến trình trao đổi. - Theo hiệp hội Marketing Mỹ: Marketing là quá trình lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch đó, định giá, khuyến mại và phân phối hàng hoá, dịch vụ và ý tưởng để tạo ra sự trao đổi với các nhóm mục tiêu, thoả mãn các mục tiêu của khách hàng và tổ chức. - Các nhà làm công tác Marketing ở Việt Nam đã đúc kết và đưa ra được định nghĩa Marketing phù hợp, đầy đủ và sát thực cho mình như sau: + Marketing là chức năng quản lý công ty về tổ chức và quản lý toàn bộ hoạt động kinh doanh từ việc phát hiện ra nhu cầu và biến sức mua của người tiêu dùng thành nhu cầu thực sự về moat loại hàng cụ thể đến việc đưa hàng hoá đó đến tận tay người tiêu dùng cuối cùng nhằm đảm bảo cho công ty thu được lợi nhuận cao nhất. Xuất phát từ khái niệm này các nhà làm Marketing ở Việt Nam đưa ra định nghĩa về Marketing xuất khẩu như sau: Marketing xuất khẩu là việc thực hiện các hoạt động kinh doanh định hướng dòng vận động hàng hoá và dịch vụ của các công ty tới người tiêu dùng hoặc sử dụng ở nhiều quốc gia nhằm thu lợi nhuận cho công ty. - Bản chất của Marketing xuất khẩu: Marketing xuất khẩu thực chất chỉ là sự vận dụng những nguyên lý, nguyên tắc, các phương pháp và kỹ thuật tiến hành của Marketing nói chung trong điều kiện của thị trường nước ngoài. Sự khác biệt của Marketing xuất khẩu và Marketing nói chung chỉ ở chỗ là hàng hoá và dịch vụ được tiêu thụ không phải trên thị trường nội địa mà là ở thị trường nước ngoài. Cũng như Marketing nói chung, Marketing xuất khẩu xuất phát từ quan điểm là trong nền kinh tế hiện đại vai trò của khách hàng và nhu cầu của họ có ý nghĩa quyết định đối với mọi hoạt động và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó chủ trương rằng chìa khoá để đạt được sự thành công của doanh nghiệp và mục tiêu của doanh nghiệp là xác định nhu cầu và mong muốn của các thị trường trọng điểm, đồng thời phân phối những thoả mãn mà các thị trường đó chờ đợi một cách hiệu quả hơn đối thủ cạnh tranh. - Đặc trưng của Marketing xuất khẩu: các hoạt động Marketing xuất khẩu không phải tiến hành ở trong nội bộ của một quốc gia mà nó được tiến hành trên phạm vi rộng từ hai quốc gia trở lên + Các khái nhiệm về Marketing, các quá trình, các nguyên lý Marketing và nhiệm vụ của nhà tiếp thị là giống Marketing nội địa, tuy nhiên khi xâm nhập vào thị trường nước ngoài, Marketing xuất khẩu thường gặp phải những rào cản về luật pháp, sự kiểm soát của Chính phủ ở những nước công ty xâm nhập vào. + Nhu cầu thị trường đa dạng hơn. + Quan điểm về hoạt động kinh doanh ở tong thị trường nước ngoài là khác nhau, do đó tuỳ tong thị trường mà ta vận dụng các quan điểm Marketing xuất khẩu phù hợp. + Các điều kiện thị trường có thể biến dạng. Đây là đặc điểm khó nhận biết khác về căn bản so với Marketing nội địa với cùng một sản phẩm, các điều kiện thị trường có thể khác nhau về cơ bản giữa nước này với nước khác, thu nhập, cơ cấu tiêu dùng sản phẩm của khách hàng, môi trường công nghệ, điều kiện văn hoá xã hội và thói quen tiêu dùng, thói quen tiêu dùng ở cùng một thị trường rất khác nhau. Vì vậy mà sẽ không có một sản phẩm hay người tiêu dùng duy nhất. - Mô hình Marketing xuất khẩu: quá trình Marketing xuất khẩu được khái quát trong mô hình sau: Nghiên cứu Marketing xuất khẩu Lựa chọn thị trường xuất khẩu Xác định hình thức xuất khẩu Vận hành và kiểm tra các nỗ lực Marketing xuất khẩu Xác lập các yếu tố Marketing xuất khẩu Mô hình Marketing xuất khẩu Trong xu thế mới, nếu chỉ làm tốt công việc của mình thì các công ty không thể sống sót được. Nếu muốn thành công trên thị trường toàn cầu cạnh tranh ngày càng gay gắt thì họ phải thực hiện công việc của mình một cách tuyệt hảo. Và Marketing là chức năng của công ty, có nhiệm vụ xác định khách hàng mục tiêu cũng như cách tốt nhất để thỏa mãn những nhu cầu mong muốn của họ hơn đối thủ cạnh tranh, và có lời. Sự quan tâm đến Marketing đang ngày càng tăng lên, khi mà ngày càng nhiều tổ chức trong khu vực kinh doanh. Khu vực phi lợi nhuận và khu vực quốc tế nhận rõ đóng góp của Marketing vào việc nâng cao kết quả hoạt động trên thị trường. Đặc biệt đối với các công ty kinh doanh quốc tế, Marketing xuất khẩu đã trở thành hoạt động không thể thiếu được để công ty ngày càng khẳng định được mình trên trường quốc tế. 2.2. Nghiên cứu Marketing xuất khẩu và phân tích khả năng xuất khẩu của công ty kinh doanh quốc tế Nghiên cứu Marketing xuất khẩu Một khi công ty đã quyết định mục tiêu là một nước cụ thể nào đó thì nó phải xác định cách xâm nhập tốt nhất. Xuất khẩu là phương thức đầu tiên và phổ biến nhất để xâm nhập thị trường quốc tế. Đây là một hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại, là việc bán hàng hóa và dịch vụ ra thị trường nước ngoài, với mục tiêu: - Hưởng lợi nhuận từ việc bán hàng hóa và dịch vụ nước ngoài với giá cao hơn giá trong nước. - Hưởng một khoản lợi nhận từ việc chênh lệch tỷ giá khi chuyển đổi qua lại giữa các đồng tiền. Như vậy, nghiên cứu Marketing xuất khẩu là nội dung cơ bản trước nhất của tổ chức hoạt động Marketing xuất khẩu, góp phần quan trọng vào sự thành công của hoạt động xuất khẩu của công ty, giúp công ty dần từng bước khẳng định được mình. * Vai trò của nghiên cứu Marketing xuất khẩu. Việc nghiên cứu Marketing xuất khẩu chỉ khác việc nghiên cứu Marketing nội địa ở chỗ hàng hóa và dịch vụ được tiêu thụ không phải trên thị trường nội dịa mà ở thị trường nước ngoài.Vai trò của nó bao gồm: - Cung cấp các thông tin để công ty kinh doanh quốc tế tìm kiếm cơ hội và thị trường mới để xuất khẩu. - Cung cấp các thông tin để công ty kinh doanh quốc tế lựa chọn thị trường và mục tiêu. - Là cơ sở kinh doanh xác lập và triển khai chiến lược các chương trình Marketing thích ứng với thị trường nước ngoài. - Giảm bớt và đi đến loại trừ những rủi ro trong kinh doanh quốc tế. - Cung cấp thông tin dể công ty kinh doanh thích ứng với các hoạt động Marketing ở nước ngoài. * Nội dung nghiên cứu Marketing xuất khẩu - Nghiên cứu nhân tố mang tính toàn cầu, cụ thể là hệ thống thương mại quốc tế + Thuế nhập khẩu: Đó là mức thuế sẽ được áp dụng đối với sản phẩm mà công ty dự định xuất khẩu.Thuế nhập khẩu không những là nguồn thu mà quan trọng hơn nó còn là biện pháp bảo hộ của mỗi quốc gia. Bởi vậy, việc nghiên cứu thuế nhập khẩu là hết sức quan trọng. + Hạn nghạch nhập khẩu chung: Nó hạn chế trực tiếp khối lượng vật lý hoặc (ít thông thường hơn) giá trị của hàng nhập khẩu, thường được sử dụng bảo hộ sản xuất trong nước đối với cạnh tranh quốc tế. + Các tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường: đây là hàng rào bảo hộ mậu dịch các nước nhập khẩu. + Các quy định về kiểm soát ngoại tệ, giấy phép nhập khẩu, thủ tục hải quan … - Nghiên cứu các yếu tố thuộc về môi trường kinh tế + Mức độ phát triển thị trường: được đánh giá thông qua trình độ phát triển công nghiệp: Xác định tổng thu nhập quốc nội, thu nhập bình quân, cơ cấu kinh tế, tốc độ tăng trưởng kinh tế, cơ cấu chỉ tiêu và đầu tư, cơ cấu xuất nhập khẩu, dự trữ ngoại tệ, giá trị và sự ổn định của đồng tiên, khả năng thanh toán quốc tế. Ngoài ra, mức độ phát triển thị trường còn việc đánh giá qua việc xác định động thái của nền kinh tế như mức độ ổn định, chu kỳ kinh tế. + Mức độ tham gia các liên kết kinh tế. - Nghiên cứu các yếu tố thuộc môi trường chính trị – pháp luật + Xem xét thái độ của chính phủ, của các nhà kinh doanh nước ngoài đối với các nhà kinh doanh của nước nhà. + Sự ổn định về chính sách của chính phủ, sự điều tiết về tiền tệ và tính hiệu lực của bộ máy chính quyền (hệ thống hải quan, tệ quan liêu, tham nhũng…) - Nghiên cứu các yếu tố thuộc môi trường văn hoá Việc nghiên cứu nhằm thấy được sự tương đồng và khác biệt văn hoá giữa các quốc gia, trên cơ sở đó để lựa chọn thị trường xuất khẩu, hoạch định thực thi các chiến lược Marketing, là cơ sở thiết kế bao bì, nhãn mác. Đó là việc nghiên cứu về ngôn ngữ; tôn giáo; giá trị đạo đức; những điều tôn thờ, cấm kỵ; sự quan tâm của xã hội. - Nghiên cứu các yếu tố thuộc môi trường cạnh tranh. Để lựa chọn được
Tài liệu liên quan