Đề tài Trí nhớ thị giác, thính giác ngắn hạn của học sinh trung học cơ sở

Trí nhớ có vai trò đặc biệt quan trong trong đời sống và hoạt động của con người, nhờ có trí nhớ mà con người tích luỹ được vốn kinh nghiệm, nhờ có nhận lại và nhớ lại mà con người có thể đem những kinh nghiệm đó vận dụng vào cuộc sống. Như vậy, không có trí nhớ thì không có kinh nghiệm, không có kinh nghiệm thì không có bất cứ một hành động nào cũng như không thể phát triển tâm lý, nhân cách. Trí nhớ là một quá trình tâm lý có liên quan chặt chẽ với đời sống tâm lý con người. L. M Xêtrênôp cho rằng trí nhớ là “điều kiện cơ bản của cuộc sống tâm lý ’’, là “ cơ sở của sự phát triển tâm lý ’’. Ông nói rằng “ nếu không có trí nhớ thì các cảm giác và tri giác của chúng ta sẽ biến mất không để lại dấu vết gì và do đó đẩy người ta vĩnh viễn ở vào trạng thái của trẻ sơ sinh’’. Ngày nay người ta nghiên cứu trí nhớ không chỉ trong phạm vi biểu hiện của khả năng nhận thức mà còn là một thành phần tạo nên cấu trúc nhân cách của mỗi người. Bởi chính nhờ có hoạt động trí nhớ mà con người tích luỹ được vốn kinh nghiệm xã hội, tạo nên kinh nghiệm phong phú, đa dạng ở mỗi cá nhân, làm cơ sở cho việc hình thành và phát triển nhân cách. Nếu không có trí nhớ thì không thể có một sự phát triển nào trong lĩnh vực trí tuệ cũng như trong hoạt động thực tiễn của con người. Trong lĩnh vực dạy học và giáo dục, trí nhớ là một yếu tố rất cần thiết với mỗi học sinh. Trí nhớ giúp học sinh ghi nhớ những kiến thức trong bài giảng, trong sách vở; giúp học sinh giữ gìn và tái hiện những thông tin đó khi cần thiết. Nếu không có trí nhớ thì học sinh không thể tích luỹ được tri thức; từ đó không thể tiến hành quá trình tư duy, học tập. Nhận định được vai trò quan trọng của trí nhớ với hoạt động học tập của học sinh trung học cơ sở, tôi đã nghiên cứu về: “ Trí nhớ thị giác, thính giác ngắn hạn của học sinh trung học cơ sở ’’.

doc52 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1978 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Trí nhớ thị giác, thính giác ngắn hạn của học sinh trung học cơ sở, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 4 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU 5 3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 5 4. ĐỐI TƯỢNG, KHÁCH THỂ, PHẠM VI NGHIÊN CỨU 5 4. 1. Đối tượng nghiên cứu 5 4. 2. Khách thể nghiên cứu 5 4. 3. Phạm vi nghiên cứu 6 5. Phương pháp nghiên cứu 6 5. 1. Phương pháp quan sát 6 5. 2. Phương pháp phân tích tài liệu 6 5. 3. Phương pháp trắc nghiệm 6 5. 4. Phương pháp phỏng vấn 6 5. 5. Phương pháp thống kê toán học 6 6. GIẢ THUYẾT KHOA HOC 7 NỘI DUNG 8 CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN 8 1. 1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ 8 1. 2. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN TRONG ĐỀ TÀI 14 1. 2. 1 Khái niệm trí nhớ 14 1. 2. 2. Cơ sở sinh lý của trí nhớ 15 1. 2. 3. Các loại trí nhớ 16 1. 2. 4. Các quá trình cơ bản của trí nhớ 20 1. 2. 5. Chất lượng trí nhớ 23 1. 3. ĐẶC ĐIỂM HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP Ở NHÀ TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ 24 1. 4. ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ VÀ TRÍ NHỚ CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ ( từ 12, 13 đến 15, 16 tuổi ) 25 1. 5. ĐẶC ĐIỂM PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC QUA PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN HÌNH 27 CHƯƠNG 2 : KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 29 2. 1. Trí nhớ thị giác ngắn hạn 29 2. 1. 1. Trí nhớ thị giác ngắn hạn của học sinh lớp 6 29 2. 1. 2. Trí nhớ thị giác ngắn hạn của học sinh lớp 7 31 2. 1. 3. Trí nhớ thị giác ngắn hạn của học sinh lớp 8 33 2. 1. 4. Trí nhớ thị giác ngắn hạn của học sinh lớp 9 35 2. 2. Trí nhớ thính giác ngắn hạn của học sinh trung học cơ sở 38 2. 2. 1. Trí nhớ thính giác ngắn hạn của học sinh lớp 6 39 2. 2. 2. Trí nhớ thính giác ngắn hạn của học sinh lớp 7 39 2. 2. 3. Trí nhớ thính giác ngắn hạn của học sinh lớp 8 40 2. 2. 4. Trí nhớ thính giác ngắn hạn của học sinh lớp 9 41 2. 3. So sánh trí nhớ thị giác, thính giác ngắn hạn của học sinh trung học cơ sở 43 2. 4. Kết quả quan sát và phỏng vấn học sinh trung học cơ sở 44 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 45 1. Kết luận 45 2. Kiến nghị 46 TÀI LIỆU THAM KHẢO 47 PHỤ LỤC 48 Phụ lục 1: Trắc nghiêm trí nhớ bảng số 48 Phụ lục 2: Trắc nghiệm trí nhớ hình tượng 49 Phụ lục 3 : Trắc nghiệm trí nhớ từ ngữ 50 MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trí nhớ có vai trò đặc biệt quan trong trong đời sống và hoạt động của con người, nhờ có trí nhớ mà con người tích luỹ được vốn kinh nghiệm, nhờ có nhận lại và nhớ lại mà con người có thể đem những kinh nghiệm đó vận dụng vào cuộc sống. Như vậy, không có trí nhớ thì không có kinh nghiệm, không có kinh nghiệm thì không có bất cứ một hành động nào cũng như không thể phát triển tâm lý, nhân cách. Trí nhớ là một quá trình tâm lý có liên quan chặt chẽ với đời sống tâm lý con người. L. M Xêtrênôp cho rằng trí nhớ là “điều kiện cơ bản của cuộc sống tâm lý ’’, là “ cơ sở của sự phát triển tâm lý ’’. Ông nói rằng “ nếu không có trí nhớ thì các cảm giác và tri giác của chúng ta sẽ biến mất không để lại dấu vết gì và do đó đẩy người ta vĩnh viễn ở vào trạng thái của trẻ sơ sinh’’. Ngày nay người ta nghiên cứu trí nhớ không chỉ trong phạm vi biểu hiện của khả năng nhận thức mà còn là một thành phần tạo nên cấu trúc nhân cách của mỗi người. Bởi chính nhờ có hoạt động trí nhớ mà con người tích luỹ được vốn kinh nghiệm xã hội, tạo nên kinh nghiệm phong phú, đa dạng ở mỗi cá nhân, làm cơ sở cho việc hình thành và phát triển nhân cách. Nếu không có trí nhớ thì không thể có một sự phát triển nào trong lĩnh vực trí tuệ cũng như trong hoạt động thực tiễn của con người. Trong lĩnh vực dạy học và giáo dục, trí nhớ là một yếu tố rất cần thiết với mỗi học sinh. Trí nhớ giúp học sinh ghi nhớ những kiến thức trong bài giảng, trong sách vở; giúp học sinh giữ gìn và tái hiện những thông tin đó khi cần thiết. Nếu không có trí nhớ thì học sinh không thể tích luỹ được tri thức; từ đó không thể tiến hành quá trình tư duy, học tập. Nhận định được vai trò quan trọng của trí nhớ với hoạt động học tập của học sinh trung học cơ sở, tôi đã nghiên cứu về: “ Trí nhớ thị giác, thính giác ngắn hạn của học sinh trung học cơ sở ’’. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Tìm hiểu trí nhớ thị giác, thính giác của học sinh trung học cơ sở, từ đó đề xuất một số kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả dạy học qua phương tiện truyền hình. 3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU - Xây dựng cơ sở lý luận của đề tài về “ Trí nhớ thị giác, thính giác ngắn hạn của học sinh trung học cơ sở ” - Thực hiện trắc nghiệm trí nhớ thị giác, thính giác ngắn hạn của học sinh trung học cơ sở. - Đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần nâng cao hiệu quả dạy học qua phương tiện truyền hình. 4. ĐỐI TƯỢNG, KHÁCH THỂ, PHẠM VI NGHIÊN CỨU 4. 1. Đối tượng nghiên cứu Trí nhớ thị giác, thính giác của học sinh trung học cơ sở. 4. 2. Khách thể nghiên cứu - 160 học sinh trường trung học cở sở Quang Trung Hà Nội trong đó bao gồm : + lớp 6G : 40 học sinh + lớp 7G : 40 học sinh + lớp 8G : 40 học sinh + lớp 9A : 40 học sinh 4. 3. Phạm vi nghiên cứu - Sử dụng trắc nghiệm nghiên cứu trí nhớ thị giác, thính giác ngắn hạn của học sinh trung học cơ sở. - Do thời gian nghiên cứu ngắn ( 4 tháng ) nên tôi chỉ tiến hành nghiên cứu tại một trường trung học cở sở Quang Trung Hà Nội - Thời gian nghiên cứu : từ tháng 12 /2006 đến tháng 3/ 2007. 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 5. 1. Phương pháp quan sát Chương trình dạy học trên truyền hình không có nhiều chuyên đề cho học sinh trung học cơ sở và chỉ phát lại một bài 2 lần nên tôi chỉ tiến hành quan sát được 2 em học sinh lớp 6G và 2 em học sinh lớp 9A trường trung học cơ sở Quang Trung Hà Nội. 5. 2. Phương pháp phân tích tài liệu Tham khảo, thu thập thông tin về cơ sở lý luận thông qua sách, báo và các công trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến đề tài. 5. 3. Phương pháp trắc nghiệm Sử dụng trắc nghiệm trí nhớ từ ngữ, nhớ bảng số và trí nhớ hình tượng (nội dung và phương pháp thực hiện trắc nghiệm in trong phần phụ lục) 5. 4. Phương pháp phỏng vấn Phỏng vấn 4 học sinh đã xem chương trình dạy học qua truyền hình gồm 2 học sinh lớp 6G và 2 học sinh lớp 9A. 5. 5. Phương pháp thống kê toán học Sử dụng công thức tính tỉ lệ % để xử lý, phân tích thông tin nghiên cứu. - Khối lượng trí nhớ được tính theo công thức: Đ/TS × 100% trong đó Đ : số lượng thông tin nhớ lại đúng TS : tổng số thông tin cần nhớ trong bài tập - Độ chính xác của trí nhớ được tính theo công thức : Đ/ Đ + S × 100% trong đó Đ : số lượng vị trí thông tin nhớ lại đúng S : số lượng vị trí thông tin nhớ lại sai - Kết quả đánh giá như sau: + dưới 10% : Trí nhớ kém + 10% - 30% : Trí nhớ dưới trung bình + 30% - 50% : Trí nhớ trung bình + 50% - 70% : Trí nhớ khá tốt + 70% - 90% : Trí nhớ tốt + 90% - 100% : Trí nhớ rất tốt 6. GIẢ THUYẾT KHOA HOC - Phần lớn học sinh trung học cơ sở nhớ hình ảnh, từ ngữ và chữ số khá tốt, trong đó trí nhớ hình ảnh có mức độ phát triển cao hơn trí nhớ từ ngữ và chữ số. - Học sinh lớp 8, 9 nhớ lại khối lượng và độ chính xác của thông tin tốt hơn học sinh lớp 6, 7. NỘI DUNG CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN 1. 1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ - Nhà triết học Hy Lạp Arixtot ( 383-322 trước công nguyên ( TCN ) ) là người đầu tiên lý giải vấn đề trí nhớ. Theo ông,những ấn tượng phác họa mà chúng ta cảm thấy để lại trong chúng ta những dấu vết,tương tự như chiếc nhẫn áp vào sáp ong cũng để lại dấu vết trong đó. Ông cũng đã đề cập đến vai trò của hoạt động trí nhớ nhưng ông chưa chỉ ra được dấu vết đó được tạo ra và giữ gìn như thế nào. Dựa trên cơ sở xem xét dấu vết chính là quá trình thần kinh đã xảy ra trước đây trên vỏ bán cầu đại não. I. M. Xetrenop đã mô tả sự nảy sinh và ý nghĩa của các dấu vết đó như sau : “ Do tần số lặp lại của cảm giác hay phản xạ thực tế nên cảm giác sẽ trở lại rõ ràng hơn và qua đó sự duy trì bởi cơ quan thần kinh trong trạng thái ẩn tàng cũng trở nên vững chắc hơn. Dấu vết ẩn tàng dược giữ gìn ngày càng lâu hơn và cảm giác trở nên khó quên hơn “ - Thế kỷ IV – TCN đến thế kỷ XVII, Haylốc ( người Anh ) chịu sự ảnh hưởng từ tư tưởng vật lý của Niutơn đã giải thích trí nhớ bằng hiện tượng giao thoa của sóng như khi ta ném hai viên gạch xuống ao. - Paplop tìm ra quy luật hình thành có diều kiện và các dường dây liên hệ tạm thời. Đây là lý thuyết phát triển trên cơ sở của lý thuyết liên tưởng hoặc sự móc nối các biểu tượng. - Arixtot nói đến ba thứ liên tượng ( gần nhau, giống nhau, trái ngược), liên tưởng nhân quả cũng xuất phát từ liên tượng gần nhau. Lý thuyết liên tượng giải thích được hiện tượng bên trong não nhưng chưa giải thích được trí nhớ ngắn hạn, dài hạn, ngôn ngữ. Lý thuyết liên tưởng coi sự liên tưởng là nguyên tắc quan trọng nhất của sự hình thành trí nhớ. Lý thuyết này quan niệm rằng : sự xuất hiện của một hình ảnh tâm lý trong vỏ não luôn diễn ra đồng thời hoặc kế tiếp trong thời gian với hiện tượng tâm lý khác theo quy luật liên tưởng ( sự liên tưởng gần nhau về không gian - thời gian, liên tưởng tương tự về nội dung – hình thức, sự liên tượng đối lập và logic ). Thuyết liên tưởng mới chỉ dừng lại ở sự mô tả những điều kiện bên ngoài của sự xuất hiện những ấn tượng đồng thời. Nói cách khác là quan điểm này chỉ nhìn thấy sự kiện chứ chưa lý giải được một cách khoa học. - Năm 1913 dòng lý thuyết tâm lý học Gestalt chống lại thuyết liên tưởng. Thuyết này cho rằng : trí nhớ đi từ toàn thể đến bộ phận. Người ta nhớ toàn bộ sự vật rồi mới nhớ bộ phận. Lý thuyết này đưa ra hiện tượng tri giác toàn thể : khi nhìn hai cánh quạt quay nhanh có hai màu khác nhau ta thấy có sự pha trộn màu. Hay khi nhìn ngưòi từ “ cánh đòn sương phủ ” đi lại, ta thấy đầu tiên là bóng ngưòi xuất hiện rồi mới thấy mắt, mũi, tay, chân,… Thuyết liên tưởng đi từ bộ phận đến toàn thể còn thuyết Gestalt đi từ toàn thể đến bộ phận. Tuy nhiên cả hai lý thuyết này chỉ giải thích đuợc trí nhớ căn cứ vào tổ chức kích thích ở bên ngoài, không đi vào diễn biến giải phẫu sinh lý, hoá sinh ở bên trong não, không lưu ý đến tính tích cực của chủ thể mang quá trình trí nhớ, không lưu ý đến cách tạo nên dấu vết khác nhau ở những người khác nhau và tính lựa chọn của trí nhớ. - Bexong ( người Pháp ) vào đầu thế kỷ XX đã nêu ra lý thuyết tâm vận động chia trí nhớ làm hai loại : + Trí nhớ hồn : là trí nhớ hoàn toàn độc lập với vật chất, là trực giác đặc trưng cho loài người. Con người luôn có niềm tin với tôn giáo để vươn lên mà không cần có sự tham gia của các giác quan và vật chất. + Trí nhớ vận động của vật chất : là trí nhớ do các giác quan đem lại nhờ : sờ nghe nhìn... Như vậy không rõ cơ sở sinh lý của các hiện tượng tâm lý. - Lý thuyết tâm lý học hoạt động của Vưgotxki quan điểm rằng con người hoạt động ra sao thì trí nhớ như vậy. Mối quan hệ giữa các biểu tượng không phải xuất phát từ bản thân vật chất ( không quyết định bởi bản thân tính chất của tài liệu cần ghi nhớ ) mà trước hết là phụ thuộc vào việc chủ thể làm gì với nó, hoạt động sau này của chủ thế và mục đích của hoạt động ấy. - Xmiecnop ( người Liên Xô ) và Sydow ( người Đức ) đã làm sáng tỏ cơ chế sinh lý và sinh hoá của quá trình ghi nhớ và vạch ra một số quy luật của trí nhớ như : sự phụ thuộc của trí nhớ vào nội dung tài liệu ( dễ hay khó ), vào khối lượng tài liệu ( nhiều hay ít ) hoặc sự phụ thuộc của trí nhớ vào nhiệm vụ, mục đích gợi nhớ, vào cách học để nhớ lâu. Tuy nhiên quan điểm này vẫn chưa giải quyết được triệt để những vấn đề của trí nhớ theo quan điểm hoạt động : quan điểm cho rằng mọi chức năng tâm lý cấp cao trong đó có trí nhớ có chủ định đều được hình thành và phát triển trong hoạt động. - Leonchiep và V. P Diartenco đã đưa ra kết luận : hoạt động của con người hướng vào đâu thì họ nhớ cái gì. Mục đích và động cơ hoạt động rất quan trọng. Đến đây đã có một khối lượng đáng kể các công trình nghiên cứu vấn đề tương quan giữa tâm lý và hoạt động trong quá trình ghi nhớ. Đối tượng nghiên cứu của các công trình này vào hai vấn đề : + Nghiên cứu một cách rộng rãi sự phụ thuộc của hiệu quả trí nhớ và hoạt động. Công trình nghiên cứu của Diatrenco đã xác định sự phụ thuộc của hiệu quả ghi nhớ vào đối tượng nhất định. Trong hoạt động đó tất cả những gì là đối tượng của hoạt động cần thiết cho việc thực hiện nhiệm vụ đều được ghi nhớ một cách chính xác. Còn những cái tuy được tri giác nhưng không phải là đối tượng của hoạt động cần cho nhiệm vụ thì chủ thế hầu như không nhớ. + Nghiên cứu đã chỉ ra ảnh hưởng quyết định của động cơ hành động và đặc biệt là mức độ tích cự của chủ thể trong khi thực hiện hành động. - Nhà tâm lý học George Sperling (1960) đã nghiên cứu về trí nhớ cảm giác. Ông cho người ta xem một loạt gồm 12 mẫu tự xếp theo mẫu sau đây : F T Y C K D N L Y W B M Khi xuất trình loại mẫu tự này trong vòng 1/12 giây thì hầu hết mọi người đều chỉ nhớ lại được chính xác 4 hoặc 5 mẫu tự mà thôi. Dù họ biết rằng mình đã thấy được nhiều hơn nhưng ký ức đã phai mờ vào lúc họ thuật lại mẫu tự đầu tiên. Như vậy có thể nói rằng lúc đầu các thông tin ấy đã được lưu trữ chính xác vào trí nhớ cảm giác nhưng trong khoảng thời gian cần thiết để phát biểu thành 4 hay 5 mẫu tự đầu tiên thì trí nhớ về các mẫu tự khác đã phai nhạt rồi biến mất. Sperling tổ chức một cuộc thí nghiệm trong đó ông cho phát ra các khẩu lệnh yêu cầu thuật lại các dòng mẫu tự theo các mức độ âm thanh cao, vừa hay thấp ngay sau khi đối tượng thí nghiệm vừa được cho nhìn thấy toàn bộ loạt chữ nói trên. Đối tượng được yêu cầu thuật lại các mẫu tự thuộc dòng trên cùng theo khẩu lệnh có âm cao, các mẫu tự ở dòng giữa theo khấu lện có âm vừa phải hoặc các mẫu tự thuộc dòng dưới cùng theo khẩu lệnh có âm thấp. Mỗi khẩu lệnh được phát ra ngay sau khi nhìn thấy toàn bộ loạt mẫu tự nên đối tượng phải căn cứ vào trí nhớ để thuật lại cho đúng dòng mẫu tự được yêu cầu. Kết quả nghiên cứu cho thấy các đối tượng đã ghi nhớ toàn bộ loạt mẫu tự nói trên. Cả ba dòng mẫu tự mà họ nhìn thấy đều được lưu giữ vào trí nhớ cảm giác. Tuy bị mất đi nhanh chóng nhưng các thông tin lưu giữ trong trí nhớ cảm giác là phản ánh chính xác những gì họ đã trông thấy. Sperling rút ra kết luận : toàn bộ hình ảnh lưu giữ trong trí nhớ cảm giác trong khoảng thời gian không quá một giây đồng hồ. - Nhà tâm lý học Nelson Cowan (1988) cho rằng cách hình dung trí nhớ chính xác nhất xuất phát từ mô hình theo đó ký ức ngắn hạn được xem là một bộ phận của trí nhớ dài hạn, chứ không phải là một giai đoạn riêng biệt. - Nhà tâm lý học người Anh là Sir Frederic Bartlett đã đề xướng quan điểm cho rằng trí nhớ căn cứ vào các tiến trình xây dựng thông điệp. Ông cho rằng người ta thường ghi nhớ các thông tin theo dạng lược đồ, là các chủ đề chứa đựng tương đối ít chi tiết cụ thể. Trong một thí nghiệm chứng minh tác dụng của các lược đồ này, các nhà khảo cứu đã sử dụng một tiến trình gọi là hiện tượng tái tạo theo chuỗi, trong đó các thông tin từ ký ức được chuyển đi liên tiếp từ người này sang người khác. Người đầu tiên được quan sát một bức tranh rồi cố gắng miêu tả lại cho người khác mà không cần phải nhìn lại bức tranh ấy. Sau đó yêu cầu người ấy miêu tả tiếp cho một người khác rồi lặp lại tiến trình này với một người khác nữa. Nếu ta nghe lời miêu tả của người cuối cùng về nội dung bức tranh chắc chắn ta sẽ thấy rằng miêu tả ấy về nhiều khía cạnh quan trọng khác biệt hẳn với chính bức tranh. - Có nhiều lý thuyết và mô hình khác nhau được đưa ra nhằm giải thích cho các quá trình tâm lý - thần kinh liên quan với trí nhớ, trong số đó có ba mô hình chính đặc biệt quan trọng. Đó là mô hình Atkitson – Shifrin ( 1968 ), mô hình về các mức độ xử lý và mô hình Tulving + Mô hình Atkinson – Shiffrin Đây là mô hình thuộc loại cấu trúc, theo đó có ba hệ thống lưu trữ của trí nhớ : trí nhớ cảm giác, trí nhớ ngắn hạn và trí nhớ dài hạn. Thông tin tiếp nhận được dịch chuyển qua ba hệ thống dưới sự kiểm soát của các quá trình nhận thức như chú ý, hồi tưởng…Sự khác nhau của ba hệ thống được căn cứ theo bốn đặc tính : dung lượng thông tin, thời gian lưu trữ, thể thức mã hoá và các cơ chế thoái biến thông tin. Tuy nhiên những nghiên cứu gần đây cho thấy ranh giới giữa những hệ thống này đang bị mờ nhạt đi. + Mô hình về các mức xử lý ( Craik và Lockhart, 1972 ) Theo mô hình này trí nhớ được chia thành các giai đoạn khác nhau : trí nhớ cảm giác, trí nhớ làm việc và trí nhớ dài hạn. Quan điểm mà mô hình này đưa ra là kích thích thông tin đồng thời được xử lý ở các cấp độ khác nhau tuỳ thuộc đặc tính của nó. Thông tin được xử lý kỹ càng, sâu sắc thì cơ hội được lưu giữ sẽ lớn hơn những thông tin chỉ được xử lý hời hợt. Mức độ kỹ càng và sâu sắc được hiểu theo mức xử lý : từ các đặc tính vật lý của thông tin, đặc tính âm thanh ( lời nói ) đến ngữ nghĩa của thông tin. Học thuyết này chứng minh cho thực tế là chúng ta nhớ tốt hơn những điều có ý nghĩa và giá trị đối với bản thân. + Mô hình Tulving ( 1972 ) Lý thuyết này chia trí nhớ dựa trên bản chất vật liệu nhớ : trí nhớ hồi đoạn, trí nhớ ngữ nghĩa và trí nhớ kỹ năng. Trí nhớ hồi đoạn là diễn trình ghi nhận kinh nghiệm của mỗi cá nhân, lưu giữ thông tin về các sự kiện xảy ra cùng các mối liên hệ giữa chúng. Tất cả các sự kiện này được gắn với thời gian, không gian cụ thể. Đặc điểm sử dụng bối cảnh cho phép xác định chính xác về thông tin mới, biến nó thành riêng biệt và có thể tái hiện được tốt hơn. Trí nhớ ngữ nghĩa được hiểu là khối kiến thức được tổ chức hoá về vạn vật ( văn hoá chung, vốn hiểu biết về đời sống, các khái niệm trừư tượng, các kiến thức chuyên môn... Nói chung đây là vốn kiến thức đa dạng về các sự vật, hiện tượng và không gắn với yếu tố không gian, thời gian. Trí nhớ kỹ năng về bản chất là những mối quan hệ giữa các kích thích và hành vi vận động, được tạo thành qua quá trình rèn tập những công việc nào đó. 1. 2. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN TRONG ĐỀ TÀI 1. 2. 1 Khái niệm trí nhớ - Trong cuốn sách “ Tâm lý học đại cương ”. Tập1. Viện Đại Mở Hà Nội. 1995 của Phạm Tất Dong, Nguyễn Hải Khoát, Nguyễn Quang Uẩn đã định nghĩa : “ Trí nhớ là một quá trình tâm lý phản ánh vốn kinh nghiệm của con người dưới hình thức biểu tưởng bằng cách ghi nhớ, giữ gìn, nhận lại và nhớ lại những điều mà con người đã trải qua ”. Thực vậy nội dung phản ánh của trí nhớ là toàn bộ vốn kinh nghiệm của con người, nó bao gồm những hình ảnh mà con người đã tri giác trước đây, những ý nghĩa mà con người đã trải qua, những rung cảm mà con người đã thể nghiệm, những việc làm mà con người đã tiến hành…. Nói khác đi, toàn bộ vốn kinh nghiệm của con người đã để lại dấu vết trong trí nhớ. Sản phẩm được tạo ra trong trí nhớ được gọi là biểu tượng. “ Biểu tượng là hình ảnh của sự vật, hiện tượng nảy sinh trong óc chúng ta khi không còn sự tác động trực tiếp của chúng vào giác quan ta ”. - Trong cuốn “ Tâm lý học đại cương ” (2004) của Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên ) đã đưa ra khái niệm về trí nhớ : “ Trí nhớ được biểu hiện là sự ghi nhớ, giữ lại và làm xuất hiện lại (tái hiện) những gì cá nhân thu được trong hoạt động sống của mình ”. Như vậy, nét đặc trưng nhất của trí nhớ là trung thành với tất cả những gì cá nhân đã trải qua, tức là nó hoạt động một cách máy móc và thật thà, trí nhớ không làm thay đổi chút gì trong các yếu tố đã được cá nhân trải qua. - Tác giả Phạm Minh Hạc trong cuốn “ Tâm lý học ” ( 1989) định nghĩa trí nhớ như sau : “ Trí nhớ là sự ghi lại, giữ lại, nhận lại và làm hiện lại những kinh nghiệm của sự vật hay hiện tượng đã được tri giác trước đây, cũng như tất cả những kinh nghiệm trước đây của bản thân mỗi người ”. Nội dung của trí nhớ có thể là hình tượng của tri giác, có thể là biểu tượng của tưởng tượng, có thể là những điều được suy nghĩ, những việc đã làm, những cảm xúc đã trải qua. Trí nhớ là một quá trình phản ánh nhưng trí nhớ không phản ánh những cái đang tác động trực tiếp mà phản ánh những cái đã qua. Như vậy, những cái đã được tri giác, suy nghĩ, đã làm, cảm xúc trước đây không mất đi mà dấu vết của chúng còn được giữ trên vỏ bán cầu đại não trong một thời gian nào đó. Những dấu vết này có khả năng làm sống lại hưng phấn đã xảy ra khi kích thích gây hưng phấn đó không còn nữa. Cũng giống như quá trình trí giác, trí nhớ liên hệ chặt chẽ với xu hướng cá nhân. Cá nhân nhớ cái gì, quên cái