Đề tài Tư tưởng và quan điểm của Đạo gia

Trong thời kì khởi đầu của triết học cổ Trung Quốc. Thời kỳ "Bách gia chư tử" đã xuất hiện nhiều nhà tư tưởng lớn và hình thành các các trường phái triết học khá hoàn chỉnh. Và trong đó có sự xuất hiện của Đạo gia với người sáng lập là Lão tử. Đạo gia lấy con người và xã hội làm trung tâm của sự nghiên cứu, và giải thích những vấn đề về thực tiễn chính trị và đạo đức của xã hội. Đạo gia có sự thu nhập nhiều tư tưởng phổ biến từ thời nhà Chu

doc27 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 4137 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tư tưởng và quan điểm của Đạo gia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục Lục A. Đặt vấn đề………………………………………………………… trang 3 B. Nội dung chính……………………………………………………. trang 5 I.Tư tưởng và quan điểm của Đạo gia …………………………… trang 5 I.1 Tư tưởng triết học trong Đạo gia …………………………... trang 5 I.1.1 Tư tưởng Đạo của Đạo gia ………………………... trang 5 I.1.2 Tư tưởng Đức của Đạo gia ………………………… trang 9 I.2 Quan điểm về đời sống xã hội…………………………….… trang 10 I.2.1 Vô vi………………………………………………... trang 10 I.2.2 Hữu vi………………………………………………. trang 14 I.3 Quan điểm về nhận thức…………………………………….. trang 15 II. Những ảnh hưởng của Đạo gia ……………………………….. trang 16 II.1 Trong nhận thức tư duy…………………………………….. trang 17 II.2 Trong văn hoá nghệ thuật………………………………….. trang 19 II.3 Trong chính trị……………………………………………... trang 20 II.3.1 Đối với các nhà nước nói chung…………………... trang 20 II.3.2 Đối với nhà nứơc XHCN Việt Nam……………….. trang 21 II.4 Trong kinh tế……………………………………………….. trang 22 III. Mối quan hệ của Đạo gia với các nền triết học khác…………. trang 23 C. Kết luận……………………………………………………………. trang 25 Giá trị hạn chế và những ứng dụng của Đạo gia A. Đặt vấn đề T rong thời kì khởi đầu của triết học cổ Trung Quốc. Thời kỳ "Bách gia chư tử" đã xuất hiện nhiều nhà tư tưởng lớn và hình thành các các trường phái triết học khá hoàn chỉnh. Và trong đó có sự xuất hiện của Đạo gia với người sáng lập là Lão tử. Đạo gia lấy con người và xã hội làm trung tâm của sự nghiên cứu, và giải thích những vấn đề về thực tiễn chính trị và đạo đức của xã hội. Đạo gia có sự thu nhập nhiều tư tưởng phổ biến từ thời nhà Chu. Những tư tưởng vũ trụ luận về thiên địa, ngũ hành, thuyết về năng lượng, chân khí, thuyết âm dương và Kinh dịch. Đạo gia được khởi đầu từ Lão tử rồi sau đó được phát triển qua một quá trình dài với sự đóng góp của nhiều học giả, ẩn sĩ như Trang tử, Hoài Nam Tử, Trương Đạo Lăng,v.v… Đạo gia được liệt là tôn giáo đặc hữu chính thống của Trung Quốc là một trong tam giáo tồn tại từ thời cổ đại, song song với Nho gia ( thường gọi là Nho giáo) và Phật giáo. Đạo gia đã đóng góp và có ảnh hưởng rất lớn đến nền tảng văn hoá dân tộc Trung Quốc. Và trong lĩnh vực tôn giáo và văn hoá Đạo gia còn vượt khỏi biên giới Trung Quốc và được truyền đến các nước Đông Nam á lân cận như Việt Nam, Hàn Quốc và Nhật Bản. Đạo gia con ảnh hưởng tới các lĩnh vực chính trị, kinh tế, triết học, văn chương, nghệ thuật, âm nhạc dưỡng sinh, y khoa, hoá học, võ thuật và địa lý. Nhưng đồng thời với sự bí ẩn về thân thế của người sáng lập Đạo gia là Lão tử và tài liệu tư tưởng cuốn Đạo Đức Kinh. Đạo gia cho đến nay vẫn còn là đề tài nghiên cứu phân tính của nhiều học giả. Cùng với sự ảnh hưởng ra nhiều nước của Đạo gia có cả những học giả nước ngoài Anh, Pháp cũng nghiên cứu về Đạo. Và hiện nay cuốn kinh của Đạo gia, Đạo Đức Kinh, đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới thể hiện sự phổ biến rộng khắp. Nó luôn luôn có sức thu hút mãnh liệt với mọi con người ở mọi tầng lớp xã hội. Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên CNXH, với nòng cốt là chủ nghĩa và phương pháp lý luận Mác-LêNin. Nhưng trong xã hội cũng luôn tồn tại một bộ phận kiến trúc thượng tầng của xã hội cũ vẫn còn có sức sống dai dẳng, trong đó có tư tưởng của Đạo gia, một tư tưởng ít nhiều cũng có ảnh hưởng tới tầng lớp dân chúng Việt Nam. Việc xoá bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của nó là không thể thực hiện được nên chúng ta cần biết vận dụng nó một cách hợp lý để góp phần đạt được múc đích của Đảng và Nhà Nước xây dựng một xã hội lành mạnh, và phát triển thịnh vượng. Vì vậy việc nghiên cứu lịch sử, giáo lý, và tác động của Đạo gia đối với thế giới quan, nhân sinh quan của con người là hết sức cần thiết. Việc đi sâu nghiên cứu đánh giá những mặt hạn chế cũng như tiến bộ của Đạo gia giúp ta hiểu rõ được tư tưởng của Đạo qua đó có những hành động đúng đắn, tìm được cách sống hợp lý và giúp ích cho xã hội. Và chúng ta nên hiểu theo Đạo để làm điều thiện, tránh cái ác, hình thành nhân cách con người tốt hơn chứ không trở nên mê tín dị đoan, cúng bái gây ảnh hưởng tới không những bản thân mà còn cả những người khác và xã hội. Trong đề tài nghiên cứu này chúng ta chỉ đề cập đến tư tưởng Đạo gia trong cuốn Đạo Đức Kinh và bàn về Lão tử . Đồng thời có thêm những tìm hiểu và đánh giá của tôi về những bản chú giải cuốn Đạo Đức Kinh và những lý luận của một vài tác giả đã nghiên cứu về Đạo gia. Đồng thời xét Đạo gia trong mối liên hệ với Phật giáo, Nho giáo và ảnh hưởng của Đạo gia tới xã hội cổ, con người xưa và nay. Xét đến những mối quan hệ biện chứng đứng đắn. Và cả những mặt hạn chế còn có của Đạo gia. Qua đó chúng ta có thể hiểu được một cách căn bản nội dung và bản thể của Đạo. B. Những nội dung chính I. Tư tưởng và quan điểm của Đạo gia I.1 Tư tưởng triết học trong Đạo gia Đạo gia do Lão tử sáng lập vào khoảng những năm 580-500 trước công nguyên. Lão tử họ Lý, tên Nhĩ, tự là Đam, người ở xóm Khúc Nhân, làng Lệ, huyện Khổ, nước Sở thời Xuân Thu. Trong lịch sử triết học cổ đại Trung Hoa, Lão tử lần đầu tiên dùng hình thức tư duy lý luận sáng lập hệ thống lý luận triết học hoàn chỉnh lấy Đạo làm trọng tâm, trở thành vị thuỷ tổ của học phái Đạo gia. Đạo gia dùng phương thức suy luận độc đáo để quan sát hiện tượng xã hội, quan sát sự phát triển của giới tự nhiên, tìm hiểu quy luật tự nhiên, mở rộng phạm vi suy nghĩ của con người từ nhân sinh đến vũ trụ. Đạo gia đi sâu đến vấn đề vũ trụ bản thể luận, rồi từ đó hướng sang nghiên cứu nhân sinh luận va chính trị luận. Nó thực sự có vai trò quan trọng đối với con người và cả xã hội. Chúng ta sẽ xem xét bản thể của Đạo gia trong cuốn Đạo Đức Kinh. Đạo Đức Kinh có 81 chương và khoảng 5000 chữ được chia làm hai phần Thượng Kinh và Hạ Kinh. Thượng Kinh gồm 37 chương luận chữ Đạo nên còn được gọi là Đạo Kinh. Hạ Kinh gồm 44 chương luận chữ Đức nên còn được gọi là Đức Kinh. Như vậy có thể thấy Lão tử đề ra hai tư tưởng của Đạo gia là Đạo và Đức. I.1.1 Tư tưởng Đạo của Đạo gia "Nhân pháp Địa Địa pháp Thiên Thiên pháp Đạo Đạo pháp Tự Nhiên." *** "Người theo Đất Đất theo Trời Trời theo Đạo Đạo theo Tự Nhiên." Theo bốn quan điểm trên Đạo gia đã giải thích tất cả các vấn đề của tự nhiên và xã hội. Trong đó chúng ta có thể thấy sự xuất hiện của bản thể chủ yếu của Đạo gia đó là "Đạo". Đạo chính là sự khái quát cao nhất trong triết học Lão-Trang. Do đó nên nó cũng có rất nhiều ý nghĩa, chúng ta không thể không đọc mà hiều được cái thâm thuý sâu xa của Đạo. Trong Kinh Thư Đạo nghĩa là con đường nghĩa vụ và hành thiện, trong Kinh Thi Đạo là hành trình, trong Tứ thư Đạo là luân lý. Với nhiều ý nghĩa như vậy nhưng theo thời gian ý nghĩa luân lý đã dần chiếm ưu thế. Lão tử là người đầu tiên đã dùng từ Đạo trong một nghĩa siêu hình đích thực. Ông cho rằng Đạo là bản nguyên của vũ trụ, có trước trời đất không biết tên nó là gì, tạm đặt tên cho nó là "Đạo". Đạo Đức Kinh có viết về Đạo như sau " Đạo là vô trạng, vô tượng, vô vật,…"; " Đạo không giống hữu nhưng giống vô"; " Sâu thẳm và tràn đầy"; " Đạo không thể gọi tên được; Nó là Vô, là Vô Danh". Bản thân Đạo là một khái niêm trừu tượng, chính Lão tử cũng đã nói " Đạo mà định nghĩa được thì không phải là Đạo". Đó chính là một sự siêu hình của Đạo gia. Với tư tưởng Đạo gia Đạo không tồn tại độc lập, Đạo vừa là Vô Danh vừa là Hữu Danh. Đời sau Trang Tử cũng có khẳng định thêm về cái Vô Danh của Đạo. Ông cho rằng: " Đạo không thể nghe được, nghe được không phải nó, Đạo chẳng thể thấy được, thấy được không phải nó. Làm sao lấy trí mà hiểu được cái hình dung của cái không hình dung được." Đạo là nguyên thuỷ của trời đất là nguồn gốc nguyên nhân sinh thành thế giới, Lão tử nói Đạo chính là mẹ của vạn vật. Bản thân đạo là Vô và là Hữu, là vô hình và là hữu hình. Do đó Đạo trở nên quá huyền diệu, khó nói danh trạng. Đạo trở thành huyền vi và sâu thẳm và nói có sự kết hợp hài hoà của Vô và Hữu. " Vô là cái gốc của trời đất, Hữu là mẹ của muôn loài Hai cái đó, đồng với nhau. Cùng một gốc, tên khác nhau. Đồng nên gọi huyền. Huyền rồi lại huyền. Đó là cửa vào ra của mọi huyền diệu trong trời đất." Đạo được viết trong Đạo Đức Kinh với một tư duy biên chứng hết sức sâu sắc. Về mặt bên ngoài cái Vô của Đạo ở chỗ nó không thể nắm bắt được vì nó không phải là vật. Cái Hữu của Đạo là cái chúng ta hiểu được từ Đạo hay còn gọi là đạt Đạo. Đạo có Vô và có cả Hữu, một sự kết hợp hài hoà, chọn vẹn và đầy đủ. Đó là cái hay của Đạo, cái toàn vẹn của Đạo. Trong một chân trời tri thức nhỏ bé, khi chúng ta đạt được Đạo thì chính chúng ta đã nắm được cái Vô và Hữu của Đạo mà có thể chính chúng ta cũng không hay biết.Ta có thể thấy sự quay vòng của Đạo từ không có thành có rồi trở về không có và biến thành huyền diệu. Ta có thể nhận thấy việc kế thừa những tư tưởng Âm dương ngũ hành trong viêc thể hiện Đạo. Cũng như hai thế lực Âm và Dương luôn thống nhất với nhau, Đạo thể hiện sự thống nhất qua Vô và Hữu nhưng ở một tầm cao hơn. Mặt Vô trở thành đặc tính cơ bản của Đạo, mặt Hữu là biểu hiện của Đạo trong thế giới tự nhiên. Trong nền văn hoá Trung Quốc, hệ tư tưởng triết học thường thiên về những vấn đề thuộc đời sống thực tiễn chính trị- đạo đức của xã hội, về những hiện tượng di dịch biến đổi suy thoái và chuyển hoá. Và sự bất biến, vĩnh cửu là cơ sở những tư tưởng đó. Đạo lại bao gồm cả sự vĩnh cửu bất biến này. Nó được thể hiện qua cái Thường hay còn gọi là Thường Đạo. Thường Đạo là sự sinh động vững mạnh, bất biến. Thường Đạo còn có một ý nghĩa cao hơn. Khi con người hiểu Đạo cần phải hiểu Thường để tìm thấy sự rảnh rang, nhàn hạ, tìm được sự tĩnh tâm. Thường Đạo biểu hiện ở mọi nơi, ở mọi vật nó thể hiện bản tính tự nhiên của Đạo. Trang tử đã bổ sung thêm cho Lão tử. Ông cho rằng trạng thái vận động không ngừng biến đổi của vũ trụ và vạn vật chính là Thường Đạo. Đạo thể hiện cả sự vô vi. " Đạo thường vô vi, nhưng không gì không làm, nhi vô bất vi". Vô vi vừa là nguyên lý vừa là thái độ vừa là chuẩn mực vừa là mục đích của Đạo. Theo Lão tử vô vi chăm lo cho muôn vật, muôn loài thể hiện tính " mẹ" của Đạo. Bản thân vô vi là nhỏ bé không có gì đó chính là cái Vô Danh trong Đạo. Vạn vật đều do Đạo sinh ra, nhờ Đạo mà sinh ra. Lão tử đưa ra quá trình vận hành của Đạo theo trình tự: "Đạo sinh Nhất, Nhất sinh Nhị, Nhị sinh Tam, Tam sinh vạn vật". Quá trình này diễn tả mối tương quan giữa Đạo và vạn vật tự nhiên. Vậy nhất, nhị, tam là cái gì? Vấn đề này thực sư còn gặp nhiều khó khăn trong việc giải thích đối với cả những nhà nghiên cứu triết học Lão-Trang. Các nhà luận giải cho rằng Nhị là trời đất hoặc cũng có thể là Âm Dương. Tam là Tự Nhiên. Nhưng còn Nhất là gì? Họ cho rằng từ "Nhất" nằm ở vị trí trung gian giữa Đạo và Nhị, do đó chắc từ Nhất hẳn có một ý nghĩa đặc biệt nào đó. Theo quan niệm á Đông thì những con số trừu tượng được nói thay cho những vật cụ thể, để chỉ những phẩm tính và tương quan của các sự vật. Và "Nhất" nên hiểu là một nguyên tố đặc biệt có trước khi khai sinh ra trời đất. Ta có thể thấy nó có vẻ tương đồng với thuyết Âm Dương. Khi thuyết Âm Dương có đưa ra một quá trình: " Thái cực sinh lưỡng nghi; Lưỡng nghi sinh tứ tượng; Tứ tượng sinh bát quái" và Thái cực ở đây tương đồng với " Nhất" trong vận hành của Đạo. Ta đã biết Đạo là Vô trong bản tính sơ thuỷ của nó, nhưng là hữu trong tương quan thế giới hiện tượng. Nhà luận ngữ Nghiêm Toản kết luận: " ắt Đạo là cái Vô mà Nhất là cái Hữu". Đạo còn là chúa tể của vạn vật và là phép tắc của vạn vật. Đạo thể hiện quan điểm đó đầu tiên ở việc sinh ra cả trời đất và vạn vật. Theo Đạo gia Đạo là cái gốc của trời đất, nó tồn tại từ xưa đến nay, sinh ra quỷ, thần, thượng, đế, trời, đất. Đạo không cao, không sâu, có lâu mà không già. Không một ai có thể đo lường được Đạo. Quả thật Đạo tồn tại mà cũng chính như không tồn tại. Một sự rộng lớn bao la mang tầm vóc vĩ mô của Đạo. Đạo bao trùm vạn vật không đâu là không có Đạo. Và Đạo còn ảnh hưởng vạn vật thông qua các quy tắc của Đạo. ảnh hưởng tới cả tiến trình hình thành và phát triển thế giới. Lão tử cho rằng ảnh hưởng này qua vô vi và tự nhiên. Đó chính là " Đạo pháp Tự Nhiên" của Đạo gia. Trong Đạo Đức Kinh đã khẳng định rằng chỉ có một khuôn phép của Đạo, một luật pháp cho hành động và tác động của Đạo, đó là Tự nhiên: " Người bắt chước đất, đất bắt trước trời, trời bắt chước Đạo, Đạo bắt chước chính bản thân mình gọi là Tự Nhiên". Ta có thể thấy tất cả cái rộng lớn nhất bao quát nhất của thế giới là đất, trời. Chúng cũng phải tuân theo Đạo. Phạm trù tác động của Đạo là vô tận, rộng lớn không cùng. Vậy người ngộ được Đạo thật sự sẽ ra sao? Tất cả những quan điểm trên đều cho thấy "Đạo" đã thể hiện một trình độ tư duy khái quát cao về những vấn đề tự nhiên và xã hội. "Đạo" đã có sự nhìn nhận thế giới trong tính chỉnh thể thống nhất của nó. Đạo còn là quy luật biến hoá tự thân của vạn vật, quy luật ấy gọi là Đức. I.1.2 Tư tưởng Đức của Đạo gia Khi Đạo sinh ra vạn vật thì Đức là cái bao bọc nuôi dưỡng tới thành thục vạn vật. Đức cũng như Đạo cũng là một khái niệm được khái quát cao, nó được diễn tả và được đặt trong chính mối quan hệ huyền diệu với bản thân nó. Đạo Đức Kinh có nói về Đức như sau: " Đức cao là không có Đức, Đức cao thì không làm". Ngụ ý rằng Đức mà chân chính cao cả thì bề ngoài xem như không có Đức, nhưng thật ra lại là Đức cao nhất. Chính sự huyền diệu đó mà Đức có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Nó chính là luân lí kèm theo đức hạnh, đạo hạnh, là ý nghĩa, là cuộc sống của con người. Đức là đặc tính riêng biệt của một sự vật. Đức cũng là sự thể hiện toàn bộ nhân cách của con người, cách hành xử và lối sống của người đó. Đức và Đạo đều là nền tảng của thế giới, nó như trời và đất. Khác nhau nhưng lại quan hệ mật thiết với nhau. Theo Đạo gia cái gì có Đạo thì ở đó sẽ xuất hiện Đức . Đức chính là nguyên lý hữu hình của Đạo. Trong Đạo Đức Kinh Đức cũng xuất hiện với sự thâm viễn huyền vi. Đức là thiện, là trung thực, là trung tín, là không tranh chấp. Đức luôn theo cùng với Đạo. Đạo và Đức không phân lìa nhau. Đức thể hiện toàn bộ chức năng của mình khi thế giới hiện tượng hình thành với vai trò là hành động của Đạo. Đức cấp dưỡng, nuôi nấng, che chở những gì Đạo sinh ra. Đạo thuộc về vô vi thì Đức thuộc về hiện tượng. Đức chính là nguyên lý của vạn vật. Theo Trang tử Đức giống như nước của mặt trời là sáng và nóng, Đức của nước là lạnh và tuôn chảy, của gió là mát và dịch chuyển, Đức của người cũng là một trạng thái tự nhiên không ràng buộc với bất kì mối quan hệ xã hội nào. " Đức của người thọ ở nơi đất trời, hãy biết gìn giữ nó tột cùng, đừng làm hư hại nó" Vì Đức tự nhiên như "bò ngựa bốn chân thì thuộc về trời, còn thòng cổ ngựa xâu cổ bò thì thuộc về người" nên Đức có đời sống độc lập vận động theo cái lẽ của tạo hoá và Đạo. Như vậy ta có thể hiểu một cách khái quát. Đức là vật thuộc về Đạo và không thể phân lìa khỏi Đạo. Đức bao gồm những đặc tính mà chỉ Đạo mới có. Đạo và Đức cùng bảo trở và nuôi dưỡng thế giới vạn vật muôn loài. Đạo là gốc, Đức là công cụ; Đạo quyết định Đức, Đức làm sáng tỏ Đạo. Đạo là nhận thức luận và phương pháp luận của Đạo gia thì Đức là chính trị quan, lịch sử quan. Đạo Đức của Đạo gia chính là một phạm trù vũ trụ quan, nó đã đóng góp vào việc giải thích bản thể của vũ trụ trong Đạo gia . I.2 Quan điểm về đời sống xã hội Lão tử cho rằng bản tính nhân loại có hai khuynh hướng " Hữu Vi" và " Vô Vi". I.2.1 Vô Vi Vô Vi là một khái niệm tối quan trọng của Đạo gia. Lão tử đã rất nhiều lần nhắc đến nó. Ông có nói: " Đạo thường không làm, nhưng không gì không làm"; "Nếu làm theo cách vô vi, ắt không có gì là không thành công". Vô Vi là sống đúng cách, phù hợp với tự nhiên, không làm gì trái với tự nhiên. Nhiều người hiểu "Vô Vi" là " Không Làm Gì Cả" nhưng nó là một quan niệm hết sức sai lầm. Vô Vi không phải như vậy, nó là không dùng tư tâm mà xen vào việc của người khác, không dùng lòng tham cá nhân mà xen vào mọi việc. Hành sự hợp lẽ, thuận theo quy luật của tự nhiên. Lão tử còn khẳng định: " Làm như không làm, như thế có đặng không". Ông cho rằng nước mềm mại uyển chuyển nhưng có thể chảy đến bất kỳ nơi nào, và với một khối lượng lớn thì có thể làm lở cả đất đá, san phẳng cả núi đồi. Như vậy chính nước cũng nhờ cái Vô Vi mà có được sức mạnh, mặc dù nó là cái mềm yếu, luôn bị đánh giá coi thường khi xem nó với sắt, đồng.Còn đối với các nhà trị nước Lão tử đưa ra biện pháp:" lấy Vô Vi mà sử sự, lấy bất ngôn mà dạy đời". Để lập quân bình trong xã hội phải trừ xử những "thái quá" nâng đỡ cái " bất cập". Lấy nhu nhược thắng cương thường", "lấy yếu thắng mạnh"," tri túc" không cạnh tranh bạo động", "công thành thân thoái", " dĩ đức báo oán".Trong lịch sử có rất nhiều người ứng dụng cái Vô Vi này vào cuộc sống của mình. Với lập luận thực tiễn cây có phát triển có lớn mạnh thì rồi cũng có lúc tàn. Đấy chính là quy luật của tự nhiên. Cũng như ta không thể mong trẻ mãi không già. Nước không thể tồn tại mà không diệt vong. Khi trẻ phải biết cống hiến hết mình cho đất nước, về già trí lực đã cạn phải biết nhường chỗ cho lớp trẻ thay thế, không tham quyền cố vị đó là thuận theo tự nhiên. Trong Đạo gia tư tưởng Vô Vi còn được thể hiện nhiều ở tính nhu của Đạo. Đó là cách lấy cái nhu mềm mà chiến thắng cái cương cứng, và thể hiện cái nhu mềm luôn trường tồn, vững chắc. Lão tử cho rằng nhu mềm là biểu hiện của sức sống sung mãn, cứng rắn là dấu hiệu của tử vong. Ông lấy cây cỏ và thân thể làm ví dụ: " Con người khi sống cơ thể mềm yếu; khi chết cơ thể trở nên cứng đờ. Vạn vật cây cỏ khi sinh trưởng thì mềm mại, khi chết thì trở nên khô cứng." Hay: " răng cứng thì chóng gãy, lưỡi mềm thì bền lâu". Những so sánh hết sức dễ hiểu súc tích đã cho thấy cái nhu của Đạo. Tính nhu mềm của Đạo có phần tương đồng với tính Âm trong thuyết Âm Dương. Nhưng nó khác với tính Âm ở chỗ cơ bản là có được khái quát cao hơn bao trùm vạn vật mà không chịu sự chi phối nào cả không như Âm phải chịu ảnh hưởng của Dương. Trong Đạo tính mềm luôn được đề cao, nó có thể chiến thắng tính mạnh. Đó là "yếu thắng mạnh", và tư tưởng này được rất nhiều người áp dụng một cách phổ biến. Ngay cả những người duy vật hiện đại. Trong trường hợp những người yếu hèn và bị áp bức sẽ thắng những người hùng mạnh đàn áp. Trong Đạo Đức Kinh Lão tử khẳng định tầm quan trọng của Đạo:" Yếu mềm là cái dụng của Đạo" . Trong bối cảnh siêu hình về sự trở lại và phát sinh từ cái Hữu đến cái Vô, thì đặc tính nhu mềm không phải mang một tính cách không chỉ máy móc cơ học hay sinh lý hoá. Tính nhu mềm mang một tầm khái quát cao hơn nó được thể hiện qua các hình ảnh ẩn dụ: khe lạch, nước, biển, đất bằng. Khe lạch: Là tượng trưng cho sự đón nhận và sẵn sàng trong khiêm tốn. Và là sự biểu hiện của cái trống không, sự sâu thẳm hết đo lường. Nước: Tượng trưng cho tính nhân từ của con người. Nước tìm đến chỗ thấp, nơi mà người ta thường xa tránh; nhưng chính vì thấp mà nước có lợi. Nhờ thế mà nước mạnh; mạnh nhất mặc dầu nước là nhu mềm nhất trong vạn vật. Biển: ở chỗ thấp nhất nơi mà mọi nguồn sông lạch phải đổ về. ở đây Đạo đã được sánh với thiên hạ như sông biển với suối khe. Tính nhu của biển là khái quát cao hơn trong tính nhu của nước. Tính nhu mềm được rất nhiều người áp dụng, nó trở thành công cụ đắc lực của con người trong xây dựng xã hôi, bảo vệ đất nước, trong cả đường hành xử, danh lộc. Nó chịu sự chỉ đạo của Vô Vi lấy Vô Vi làm gốc để hành động. Để đạt được cảnh giới của Vô Vi con đường duy nhất là học:" Cầu học vấn, trí thức ngày càng tăng; tu Đạo, ham muốn ngày càng bớt, bớt rồi lại bớt, cuối cùng đạt đến cảnh giới Vô Vi". Đạo gia khuyên rằng nên dùng trạng thái Vô Vi để hành sự, dùng trạng thái vô vi để làm việc. " Cố làm thì sẽ hư, giữ thì sẽ mất. Bởi vậy bậc thánh nhân không làm nên không hư, không giữ nên không mất". Nhưng do quá đề cao việc thuận với tự nhiên Đạo gia trở nên quá lãnh đạm với thế giới và xã hội; quá thụ động và xa lạ với các trào lưu văn hoá văn minh. Đó là một trong những sai lầm cơ bản của Đạo gia. Trên quan điểm duy vật biện chứng của Mác-Lênin trong quan điểm Vô Vi này gần như trái ngược với sự phát triển và tiến bộ của xã hội dựa trên lực lượng sản xuất, các tương quan biện chứng và đấu tranh giai cấp. Khi con người quá Vô
Tài liệu liên quan