Đề tài Vài nét về chương trình ngữ dụng trong sách giáo khoa trung học phổ thông – ban khoa học tự nhiên

Nội dung kiến thức ngữ dụng đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường, thuộc phân môn Tiếng Việt nhằm mục đích rèn luyện cho học sinh kỹ năng sản sinh, khả năng lĩnh hội lời nói, lời viết. Trong chương trình phổ thông trung học, kiến thức ngữ dụng được phân chia đồng đều cho cả ba khối líp 10, 11, 12. Kiến thức ngữ dụng được giảng dạy trực tiếp không chỉ trong các bài dạy thuộc phân môn Tiếng Việt mà còn được tích hợp trong một số bài dạy thuộc phân môn Làm Văn.

doc31 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1648 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vài nét về chương trình ngữ dụng trong sách giáo khoa trung học phổ thông – ban khoa học tự nhiên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU Nội dung kiến thức ngữ dụng đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường, thuộc phân môn Tiếng Việt nhằm mục đích rèn luyện cho học sinh kỹ năng sản sinh, khả năng lĩnh hội lời nói, lời viết. Trong chương trình phổ thông trung học, kiến thức ngữ dụng được phân chia đồng đều cho cả ba khối líp 10, 11, 12. Kiến thức ngữ dụng được giảng dạy trực tiếp không chỉ trong các bài dạy thuộc phân môn Tiếng Việt mà còn được tích hợp trong một số bài dạy thuộc phân môn Làm Văn. Vì ngữ dụng là một ngành khoa học còn khá mới mẻ, nên việc xem xét, nhận định về nội dung giảng dạy ngữ dụng trong chương trình trung học phổ thông là một việc làm cần thiết để nâng cao chất lượng dạy và học phân môn Tiếng Việt nói chung và phần kiến thức Ngữ dụng nói riêng. Trong rất nhiều hình thức kiểm tra đánh giá chất lượng dạy và học, chính thức trắc nghiệm khách quan đang ngày càng phát huy hiệu quả và được sử dụng rộng rãi. Kết hợp với câu hỏi tự luận ngắn, trắc nghiệm khách quan góp phần đa dạng hoá cách thức kiểm tra đánh giá kết quả học tập với bộ môn Ngữ Văn, trong đó phân môn Tiếng Việt là một mảnh đất tốt cho sự thể nghiệm của phương pháp trắc nghiệm. Vì vậy, việc xây dựng một hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan và tự luận cho các bài học thuộc phân môn Tiếng Việt là một việc làm cần thiết trong công tác giảng dạy. Do vậy, chuyên đề chúng tôi chọn đề tài: Vài nét về chương trình ngữ dụng trong sách giáo khoa Trung học Phổ thông – ban Khoa học tự nhiên. Triển khai đề tài này, hi vọng chuyên đề sẽ góp phần đem lại hiệu quả cho việc giảng dạy và tiếp nhận ngữ dụng trong bậc Trung học Phổ thông. PHẦN NỘI DUNG Chương I NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ THUYẾT I. Nhân tè giao tiếp 1. Ngữ cảnh Ngữ cảnh là những nhân tốt có mặt trong một cuộc giao tiếp nhưng nằm ngoài diễn ngôn. Ngữ cảnh là một tổng thể những hợp phần sau đây: 2. Nhân vật giao tiếp Nhân vật giao tiếp là những người tham gia vào một cuộc giao tiếp bằng ngôn ngữ, dùng ngôn ngữ để tạo ra các lời nói, các diễn ngôn qua đó mà tác động vào nhau. Đó là những người tương tác bằng ngôn ngữ. Giữa các nhân vật giao tiếp có quan hệ vai giao tiếp và quan hệ liên cá nhân. Vai giao tiếp: trong một cuộc giao tiếp có sự phân vai, vai phát ra diễn ngôn tức là vai nói (viết), kí hiệu là SP1 và vai tiếp nhận diễn ngôn tức vai nghe (đọc), kí hiểu SP2. Trong cuộc giao tiếp nói, mặt đối mặt, hai vai nói va nghe thường luân chuyển, SP1 sau khi nói xong chuyển thành vai nghe SP2 và ngược lại. Tuy nhiên trong một cuộc giao tiếp bằng lời trừ thuyết ngôn, các vai giao tiếp trên có thể có mặt hoặc vắng mặt tiếp ngôn hoặc đích ngôn ( nói chung là người nhận) có thể ở tình trạng chủ động (có thể đáp ngay lời của người nói) mà cũng có thể bị động (chỉ tiếp nhận không phản hồi tại chỗ). Trong một cuộc giao tiếp người tham gia này phải xây dựng nên một hình ảnh tinh thần về các đặc điểm, trạng thái năng lực của người kia theo đích giao tiếp của mình để rồi căn cứ vào các hình ảnh tinh thần đó mà định ra chiến lược hay kế hoạch giao tiếp, kế hoạch này là một tổ chức gồm các hành động chủ yếu bằng lời để đạt đến đích của mình. Quan hệ liên cá nhân: quan hệ vai giao tiếp là quan hệ giữa các nhân vậy giao tiếp đối với chinh sự phát, nhận trong giao tiếp. Quan hệ liên cá nhân là quan hệ so sánh xét trong tương quan xã hội, hiểu biết, tình cảm giữa các nhân vật giao tiếp với nhau. Quan hệ liên cá nhân giữa các nhân vật giao tiếp có thể xét theo 2 trục: trục tung là trục vị thế xã hội, còn gọi là trục quyền uy, trục hoành là trục của quan hệ khoảng cách, còn gọi là trục thân cận. Quan hệ này có thể thay đổi Ýt hoặc nhiều trong quá trình giao tiếp. Thường thì quan hệ quyền uy sẽ giữ nguyên trong quá trình giao tiếp còn quan hệ khoảng cách có thể thay đổi. Quan hệ liên cá nhân chi phối cả tiến trình giao tiếp, cả nội dung và hình thức diễn ngôn. Trong các ngôn ngữ, đặc biệt là trong Tiếng Việt, xưng hô chịu áp lực rất mạnh của quan hệ liên cá nhân. Hiện thực ngoài diễn ngôn: trừ nhân vật giao tiếp, tất cả những yếu tố vật chất, xã hội, văn hoá... có tính cảm tính và những nội dung tinh thần tương ứng không được nói đến trong diễn ngôn trong quá trình giao tiếp được gọi là hiện thực ngoài diễn ngôn (đối với ngôn ngữ thì là hiện thức ngoài ngôn ngữ). Tuy gồm cả những yếu tố vật chất và tinh thần nhưng hiện thực ngoài diễn ngôn phải được nhân vật giao tiếp ý thức. Khi đã trở thành hiểu biết của những người giao tiếp ( và của những người sử dụng ngôn ngữ) thì hiện thực ngoài diễn ngôn hợp thành tiền giả định bách khoa hay tiền giả định giao tiếp của ngôn ngữ. Hiện thực - đề tài của diễn ngôn: khi giao tiếp các nhân vật giao tiếp sử dụng diễn ngôn của mình để nói về một cái gì đó. Cái được nói tới là hiện thực - đề tài của diễn ngôn. Hiện thực – đề tài của diễn ngôn trước hết bao gồm những cái tồn tại, diễn tiến trong hiện thực ngoài ngôn ngữ và ngoài diễn ngôn; cái thuộc tâm giới của con người nh­ cảm xúc, tư tưởng, nguyện vọng... Hiện thực - đề tài của diễn ngôn còn là bản thân ngôn ngữ. Hoàn cảnh giao tiếp bao gồm những hiểu biết về thế giới, vật lý, sinh lý, tâm lý, xã hội, văn hoá, tôn giáo, lịch sử các ngành khoa học, nghệ thuật... ở thời điểm và ở không gian trong đó đang diễn ra cuộc giao tiếp. Thoại trường: được hiểu là cái không – thời gian cụ thể ở đó cuộc giao tiếp diễn ra. Mỗi thoại trường quy định một cách thức sử dụng ngôn ngữ phù hợp với nó. II. Hội thoại Hội thoại là hình thức giao tiếp thường xuyên, phổ biến của ngôn ngữ, nó cũng là hình thức cơ sở của mọi hoạt động ngôn ngữ khác. Hội thoại được diễn ra theo những quy tắc nhất định. Những quy tắc Êy khá mềm dẻo, linh hoạt và gắn bó chặt chẽ với ngữ cảnh. Các quy tắc hội thoại bao gồm: quy tắc điều hành luân phiên lượt lời, quy tắc điều hành nội dung của hội thoại và quy tắc chi phối quan hệ liên cá nhân – phép lịch sự. Chương II NHẬN XÉT KIẾN THỨC NGỮ DỤNG TRONG SÁCH GIÁO KHOA PHỔ THÔNG TRUNG HỌC (LỚP 10-11-12) Nội dung kiến thức ngữ dụng đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường, thuộc phân môn Tiếng Việt nhằm mục đích rèn luyện cho học sinh kỹ năng sản sinh, khả năng lĩnh hội lời nói, lời viết. Ngay từ bậc tiểu học, học sinh đã được làm quen với các kiến thức ngữ dụng cơ bản. Trong chương trình Tiếng Việt bậc trung học phổ thông, các nội dung kiến thức ngữ dông tiếp tục được đưa ra với một mức độ kiến thức và yêu cầu cao hơn. Việc phân chia, sắp xếp kiến thức đối với từng khối líp nhìn chung đã có sự hợp lý, phù hợp với nền tảng kiến thức và khả năng tiếp nhận của học sinh trung học phổ thông. Tuy vậy, vẫn còn tồn tại một vài nhược điểm cần khắc phục. I. Cấu trúc chương trình: Trong chương trình phổ thông trung học, kiến thức ngữ dụng được phân chia đồng đều cho cả ba khối líp 10, 11, 12. Kiến thức ngữ dông được giảng dạy trực tiếp không chỉ trong các bài dạy thuộc phân môn Tiếng Việt mà còn được tích hợp trong một số bài dạy thuộc phân môn Làm Văn. Đây là xu hướng tích hợp kiến thức trong giảng dạy Ngữ Văn trong nhà trường phổ thông hiện nay. Tuy nhiên, trong chuyên đề này, chúng tôi không đi vào tìm hiểu nội dung ngữ dụng trong phân môn Làm Văn, mà chỉ đi vào nhận xét những nội dung ngữ dụng được thể hiện trực tiếp trong phân môn Tiếng Việt ở cả ba khối líp 10, 11 ,12. Cấu trúc chương trình ngữ dụng ở bậc trung học phổ thông trong phân môn Tiếng Việt được thể hiện cụ thể trong bảng dưới đây: STT Líp Nội dung dạy ngữ dụng Ghi chó 1. SGK 10 – T1. Ban khoa học tự nhiên. - Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ (thế nào là hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ). - Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ (tiếp theo) (luyện tập). Bài 1 – trang 14. Bài 2 – trang 20. 2. SGK 11 – T1. Ban khoa học tự nhiên. - Ngữ cảnh + Khái niệm. + Các nhân tố của ngữ cảnh. + Vai trò của ngữ cảnh. + Luyện tập. Bài 10 – trang 102. 3. SGK 12 – T1. Ban khoa học tự nhiên. Sách thí điểm. - Hàm ý hội thoại (khái niệm hàm ý hội thoại). - Hàm ý hội thoại (tiếp theo) (tác dụng của hàm ý). Bài - trang 183. Bài - trang 236. Dùa vào bảng thống kê, có thể thấy cấu trúc chương trình ngữ dụng ở bậc trung học phổ thông khá đồng đều. Mỗi khối líp đều có điều kiện giảng dạy kiến thức ngữ dông. Điều này giúp học sinh tiếp nhận kiến thức ngữ dụng một cách hệ thống và liên tục trong ba năm. Nội dung kiến thức đưa ra trong sách phổ thông trung học nhìn chung không phải là kiến thức mới hoàn toàn, học sinh đã được chuẩn bị nền tảng kiến thức từ bậc tiểu học và trung học cơ sở. Các kiến thức ngữ dụng trở lại ở bậc trung học phổ thông với mức độ chuyên sâu hơn, nội dung bài học đa dạng và phong phú hơn, bài tập đưa ra có số lượng lớn hơn, tạo điều kiện cho học sinh thực hành kiến thức. 1. Chương trình sách giáo khoa líp 10. Trong chương trình sách giáo khoa líp 10, phân môn Tiếng Việt, kiến thức ngữ dông thể hiện trong một bài “Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ”, phân bố trong hai tiết. Với hai tiết dạy này, học sinh có thể hoàn toàn nắm được những kiến thức cơ bản, đồng thời có thời gian luyện tập về những nội dung kiến thức vừa lĩnh hội. Nội dung ngữ dụng trong chương trình líp 10 chiếm 20% chương trình Tiếng Việt (kể cả phần Ôn tập cuối năm). Đây là một tỉ lệ hợp lí. Cấu trúc chương trình ngữ dụng líp 10 có hai tiết, chia làm hai phần: tiết 1 học sinh làm quen với lý thuyết; tiết 2 dành cho luyện tập. 2. Chương trình sách giáo khoa líp 11 Trong sách giáo khoa Ngữ Văn líp 11, phân môn Tiếng Việt, kiến thức ngữ dụng được giới thiệu trong một bài “Ngữ cảnh”, giới hạn trong một tiết, chiếm gần 8,5% cấu trúc chương trình Tiếng Việt (kể cả bài Ôn tập). So với líp 10, tỉ lệ nội dung ngữ dụng đưa vào sách giáo khoa ở líp 11 có giảm đi. Nhưng trên thực tế, trong một tiết học, rất nhiều kiến thức được đưa ra cho học sinh (khái niệm, các nhân tố của ngữ cảnh, vai trò của ngữ cảnh) kèm theo đó là mét khối lượng bài tập nhất định. Do vậy, kiến thức ngữ dụng đưa vào líp 11 vẫn đảm bảo yêu cầu về số lượng và chất lượng. 3. Chương trình sách giáo líp 12 Trong sách giáo khoa líp 12, phân môn Tiếng Việt, kiến thức ngữ dụng được giới thiệu trong một bài “Hàm ý hội thoại”, giới hạn trong ba tiết. Cấu trúc chương trình ngữ dụng ở líp 12 chia đều cả lí thuyết và luyện tập ở ba tiết. Trong từng tiết học, học sinh vừa được tiếp cận với các nội dung kiến thức vừa được thực hành. Việc phân chia cấu trúc chương trình như vậy tạo điều kiện cho học sinh vừa tiếp nhận vừa thực hành kiến thức. Mặt khác, cách phân chia này còn phù hợp với nội dung kiến thức được đưa ra: trong ba tiết, học sinh được tiếp cận với một khối lượng kiến thức khá lớn (khái niệm hàm ý hội thoại, cách thức tạo câu có hàm ý). Chia nhỏ lí thuyết thành ba tiết có bài tập đi kèm là hợp lý, phù hợp với khả năng tiếp nhận của học sinh. II. Mục tiêu bài dạy 1. Chương trình sách giáo khoa líp 10. Kiến thức ngữ dụng trong chương trình líp 10 được thể hiện ở một đơn vị kiến thức “Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ”, chia thành hai tiết. Tiết 1: Giới thiệu kiến thức Tiết 2: Thực hành Bài học này yêu cầu học sinh phải đạt một số chuẩn kiến thức cơ bản sau: - Câu hái quan trọng nhất mà học sinh cần tìm được câu trả lời là “Thế nào là hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ”. - Học sinh phải giải thích được tại sao hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ lại là hoạt động quan trọng nhất trong những hoạt động trao đổi thông tin của con người, trong mối tương quan với những hoạt động giao tiếp bằng các phương tiện khác (cử chỉ, điệu bộ, ánh mắt....) - Học sinh cần nắm được hai quá trình của hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ là tạo lập văn bản, lĩnh hội văn bản; và mối quan hệ giữa chúng. - Ngoài ra, qua bài học này, học sinh cần hiểu rõ những khái niệm cơ bản: nhân vật giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp, nội dung giao tiếp, mục đích giao tiếp, phương tiện và cách thức giao tiếp... cũng như sù chi phối của chúng đối với hoạt động giao tiếp. Nhìn chung, mức yêu cầu đối với bài học này khá cao, vì học sinh được dành riêng một tiết cho phần lí thuyết. Trong một tiết học Êy, các chuẩn kiến thức đề ra phải được giải quyết một cách triệt để. 2. Chương trình sách giáo khoa líp 11. Kiến thức ngữ dụng trong chương trình líp 11 phần Tiếng Việt được thể hiện ở một đơn vị kiến thức “Ngữ cảnh”, giới hạn trong một tiết học. Trong thời gian 45’, học sinh vừa phải nắm được một khối lượng kiến thức nhất định, vừa phải thực hành một số bài tập cơ bản dưới sự định hướng của giáo việc. Bài “Ngữ cảnh” yêu cầu học sinh đạt được một số chuẩn kiến thức sau. - Trước hết, học sinh cần phải nắm được khái niệm “Ngữ cảnh” trong hoạt động giao tiếp cùng với những nhân tố của ngữ cảnh (nhân vật giao tiếp, bối cảnh ngoài ngôn ngữ bao gồm bối cảnh giao tiếp rộng, bối cảnh giao tiếp hẹp, hiện thực được nói tới, văn cảnh). - Học sinh lý giải được vai trò quan trọng của ngữ cảnh đối với hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ: ảnh hưởng đến cả người nói (người viết) với quá trình sản sinh lời nói, câu văn và người nghe (người đọc) với quá trình lĩnh hội lời nói, câu văn. - Ngoài ra, học sinh cần phải nắm được kĩ năng nói và viết phù hợp với ngữ cảnh, có năng lực nhận thức và lĩnh hội được lời nói trong mối quan hệ với ngữ cảnh, có khả năng giải mã lời nói trong từng ngữ cảnh cụ thể. Dung lượng kiến thức mà bài “Ngữ cảnh” đưa ra tương đối lớn trong thời gian mét tiết học. Tuy vậy, học sinh líp 11 đã được làm quen với các khái niệm nh­: nhân vật giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp, nội dung giao tiếp trong nội dung ngữ dụng líp 10, vì vậy các em không gặp khó khăn khi tiếp nhận bài học này. 3. Chương trình sách giáo khoa líp 12. Ở chương trình sách giáo khoa líp 12, phân môn Tiếng Việt, kiến thức ngữ dụng được thể hiện ở một đơn vị kiến thức “Hàm ý hội thoại”, giới hạn trong ba tiết. Qua ba tiết học về “Hàm ý hội thoại”, học sinh phải đạt một số chuẩn kiến thức sau. - Học sinh cần nắm được là khái niệm “Hàm ý hội thoại”, nhận diện được hàm ý mà người nói, người viết gửi gắm trong phát ngôn, từ đó hiểu đúng ý của người nói. - Học sinh lÝ giải được hàm ý trong hội thoại, mối liên quan giữa tác dụng của hàm ý với hoàn cảnh giao tiếp. - Học sinh cũng cần phải nắm được một số cách thức tạo câu có hàm ý. Kiến thức phân bố đồng đều cho cả ba tiết (mỗi tiết có cả lí thuyết và luyện tập). Ở 2 tiết đầu học sinh nhận thức về vai trò của hàm ý trong hội thoại và cách thức nhận diện hàm ý đó. ĐÕn tiết 3, học sinh được làm quen với các cách thức để tạo ra hàm ý và việc vận dụng chúng trong từng hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. Học sinh líp 12 sẽ có những thuận lợi nhất định, vì kiến thức về các phương châm hội thoại đã được học ở các líp học dưới. 4. Nhận xét chung Nhìn chung chuẩn kiến thức mà các bài ngữ dụng đặt ra trong chương trình sách giáo khoa trung học phổ thông không quá khó đối với học sinh. Trong những thời lượng cho phép, dưới sự gợi mở của giáo viên, học sinh hoàn toàn có thể đạt được các chuẩn kiến thức được đề ra. Kiến thức ngữ dông ở các líp 10, 11, 12 có sự liên thông với nhau và liên thông với kiến thức ngữ dụng trung học cơ sở. Càng ở các líp trên, kiến thức càng được mở rộng dùa trên những nền tảng đã có. III. Nội dung kiến thức. 1. Chương trình sách giáo khoa líp 10. 1.1. Phần lí thuyết. Bài Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ (tiết 1) * Ưu điểm - Về tính vừa sức: kiến thức ngữ dông trong chương trình líp 10 là vừa sức với học sinh. Những kiến thức về hoạt động giao tiếp, nhân vật giao tiếp, vai giao tiếp, lượt lời, hoàn cảnh, nội dung giao tiếp, mục đích giao tiếp... đều là những kiến thức học sinh đã được tiếp cận từ các líp dưới. - Về nội dung bài học: nội dung bài học được trình bày ngắn gọn, rõ ràng nên học sinh dễ tiếp nhận, dễ ghi nhí ngay kiến thức. - Về cấu trúc bài học: cÊu trúc bài học chia làm 2 phần: lí thuyết “thế nào là hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ” và “bài tập” vào 2 tiết tách rời nhau. Học sinh có điều kiện về thời gian để có thể nắm chắc lí thuyết và chuẩn bị bài tập ở nhà trước. Học sinh sẽ phát huy được tính chủ động tích cực trong giê học việc luyện tập sẽ có hiệu quả hơn,. - Về ngữ liệu: trong phần 1, ngữ liệu Hội nghị Diên Hồng ngắn gọn, rõ ràng, bảo đảm đủ thông tin cho học sinh phân tích để hiểu được hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. Văn bản đưa ra đã quen thuộc với học sinh từ chương trình Trung học cơ sở nên dễ tiếp cận, dễ trả lời chính xác các câu hỏi do sách giáo khoa đặt ra. Câu hỏi để phân tÝch ngữ liệu rõ ràng, dễ hiểu. Việc cã kèm theo câu hỏi gợi mở giúp học sinh tiếp cận vấn đề từng bước là rất khoa học. Câu hỏi đặt ra ở hai phần, có logic trình tự hợp lí. Mỗi câu hỏi đề cập đến một vấn đề của hoạt động giao tiếp, đi từ đối tượng thực hiện hoạt động giao tiếp (nhân vật giao tiếp), qua sự luân phiên lượt lời của hoạt động giao tiếp đến hoàn cảnh giao tiếp để từ đó hiểu nội dung cuộc giao tiếp, nhằm mục tiêu cuối cùng là hiểu mục đích giao tiếp, kết quả giao tiếp. Câu hỏi phân tích về các nhân tố chi phối hoạt động giao tiếp được đặt ra với số lượng lớn là phù hợp với yêu cầu rèn luyện, nâng cao kĩ năng phân tích, lĩnh hội và tạo lập văn bản trong giao tiếp của bài học. Nhìn chung không có câu nào quá khó. - Phần ghi nhí: súc tích, phân ý rành mạch và đảm bảo được những nội dung kiến thức cơ bản nhất học sinh cần nằm được về hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. * Khuyết điểm - Không thống nhất giữa đề mục bài học và phần ghi nhí: Trong phần ghi nhí, sách giáo khoa chia ra 3 nội dung ghi nhớ cơ bản là khái niệm về hoạt động giao tiếp, hai quá trình hình thành hoạt động giao tiếp và các nhân tố chi phối đến hoạt động giao tiếp. Tuy nhiên, phần đề mục của tiết học lại chỉ đề cập đến “Thế nào là hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ” rất dễ khiến học sinh hiểu rằng bài học chỉ tìm hiểu về khái niệm hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. ĐÓ thống nhất với nội dung bài học còng nh­ kiến thức cơ bản cần nắm cuối bài, nên sửa mục I thành “Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ”. - Không thống nhất giữa câu hỏi gợi mở và phần ghi nhí: Mục đầu tiên của Ghi nhớ nêu khái niệm hoạt động giao tiếp là “hoạt động trao đổi thông tin của con người trong xã hội, được tiến hành chủ yếu bằng phương tiện ngôn ngữ (dạng nói và dạng viết), nhằm thực hiện những mục đích về nhận thức, về tình cảm, về hành động”. Mục 2 của Ghi nhớ nêu lên: “Mỗi hoạt động giao tiếp gồm hai quá trình: tạo lập văn bản (do người nói, người viết thực hiện) và lĩnh hội văn bản (do người nghe, người đọc thực hiện). Hai quá trình này diễn ra trong quan hệ tương tác”. Nhưng trong cả hai phần hệ thống câu hỏi phân tích ngữ liệu không có câu nào đề cập đến hai nội dung này. Nếu những “kiến thức cơ bản về hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ” chỉ được đưa ra ở phần ghi nhí hoặc trong quá trình giáo viên giảng, học sinh sẽ bị đặt vào thế bị động, áp đặt tiếp nhận kiến thức. Do đó cần thiết phải có mặt câu hỏi về hai nội dung trên để học sinh tự phát hiện và lĩnh hội hai vấn đề đó. Chẳng hạn, trước khi đưa ra 2 ngữ liệu 1 và 2 cùng các hệ thống câu hỏi phân tích ngữ liệu, giáo viên có thể yêu cầu học sinh chia làm 2 nhóm đồng thời tạo lập hai cuộc giao tiếp: mét nửa líp giao tiếp bằng ngôn ngữ nói về chủ đề học tập; nửa líp còn lại giao tiếp bằng ngôn ngữ viết bằng cách viết một tờ đơn. Sau đó giáo viên đưa ra câu hỏi để học sinh tiếp cận vấn đề: + Hoạt động bàn bạc về thời tiết và viết đơn xin nghỉ học là hoạt động giao tiếp. Hoạt động đó được tạo lập nh­ thế nào? Nhằm mục đích gì? + Khi thực hiện một hoạt động giao tiếp, chúng ta đã thực hiện những hành động gì? Sử dụng phương tiện gì là chủ yếu? Ngoài ra còn dùng những phương tiện nào? Đưa thêm hoạt động này vào giê học, học sinh vừa hiểu rõ được về hoạt động giao tiếp, vừa được áp dụng kiến thức vào thực tiễn để bước đầu hoàn thành kĩ năng. - Về ngữ liệu: ở mục 2, ngữ liệu được chọn là bài Tổng quan văn học Việt Nam có dung lượng quá dài và ở mức độ khó đối với học sinh. Việc đưa ngữ liệu dài sẽ làm học sinh phân tán, khó tập trung vào kiến thức cần nắm. Hơn nữa, trong ngữ liệu, người tạo lập và người tiếp nhận văn bản đều không thể xác định cụ thể, hoàn cảnh tạo lập giao tiếp cũng không rõ ràng, học sinh khó trả lời một cách chính xác các câu hỏi. Nên chọn một đoạn trong vă
Tài liệu liên quan