Đề tài Vấn đề thất nghiệp của sinh viên sau khi ra trường

Sinh viên ra trường hiện nay thất nghiệp đang là vấn đề đáng báo động trong xã hội hiện nay. Câu hỏi đặt ra ở đâuy là nguyên nhân của tình hình thất nghiệp của sinh viên hiện nay là do đâ? Hậu quả để lại là gì? Vấn đề đó đã gây thiệt hại gì cho nền kinh tế nước nhà? Và chúng ta phải làm gì để khâc phục tình trạng trên? Vấn đề này được nhìn từ nhiều góc độ khác nhau và mỗi người một quan điểm khác nhau

doc25 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1871 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vấn đề thất nghiệp của sinh viên sau khi ra trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Sinh viên ra trường hiện nay thất nghiệp đang là vấn đề đáng báo động trong xã hội hiện nay. Câu hỏi đặt ra ở đâuy là nguyên nhân của tình hình thất nghiệp của sinh viên hiện nay là do đâ? Hậu quả để lại là gì? Vấn đề đó đã gây thiệt hại gì cho nền kinh tế nước nhà? Và chúng ta phải làm gì để khâc phục tình trạng trên? Vấn đề này được nhìn từ nhiều góc độ khác nhau và mỗi người một quan điểm khác nhau. Tuy nhiên giải pháp nhằm đặt ra gấp để giải quyết vấn đề lao động trong xã hội cũng như đảm bảo công ăn việc làm cho hàng nghìn sinh viên mỗi năm ra trường. Vấn đề này cần sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta, và nó không nằm ngoài sự quan tâm của em vì vậy em chọn đề tài “Vấn đề thất nghiệp của sinh viên sau khi ra trường” để nghiên cứu.Đề tài của em gồm 3 chương: Chương 1:Giới thiệu chung Chương 2: Cơ sở lý luận về vấn đề thất nghiệp Chương 3: Thực trạng về vấn đề thất nghiệp của sinh viên sau khi ra trường Chương 4: Biện pháp để giải quyết vấn đề thất nghiệp của sinh viên và Một số ý kiến đóng góp Chương 5: Kết luận Do kiến thức của em còn hạn hẹp và vẫn còn tồn tại một số thiếu xót em mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn để đề tài của em được hoàn thiện hơn.Em xin chân thành cảm ơn. Chương 1 Giới thiệu chung 1.1.Lý do chọn đề tài Vấn đề thất nghiệp của sinh vien sau khi ra truờng là vấn đề đáng báo động.Nguyên nhân vấn đề này là do đâu và đã có những biện pháp gì để giải quyêt.Đó là một trong số lý do em chọn đề tài “ Vấn đề thất nghiệp của sinh viên sau khi ra trường” 1.2.Mục đích và Mục tiêu của nghiên cứu đề tài 1.2.1.Mục đích Nhằm làm rõ nguyên nhân dẫn đến tình trạng thất nghiệp của sinh viên sau khi ra truờng, tìm ra giải pháp khắc phục vấn đề trên 1.2.2.Mục tiêu Giúp cho mọi người va bản thân em hiểu rõ vấn đề thất nghiệp của sinh viên có ảnh hưởng đến lực lượng lao động như thế nào, kinh tế xã hội có bị ảnh hưởng nhiều không. 1.3.Giới thiệu của đề tài 1.3.1.Đối tượng nghiên cứu Sinh viên chuẩn bị ra truờng và sinh viên sau khi ra truờng 1.3.3.Phạm vi nghiên cứu Tìm hiểu sinh viên tại một số truờng đại học nói chung và sinh viên trường Cao đẳng ngoại ngữ và Công nghê Việt Nhật nói riêng 2.Phương pháp nghiên cứu Chủ yếu sử dụng phương pháp lý luận Chương 2 Cơ sở lý luận về vấn đề thất nghiệp của sinh viên Sau khi ra trường 1.1.Khái niệm thất nghiệp Thất nghiệp có nghĩa là một bộ phận lao đông không được thuê mướn( không có việc làm) Người trong tuổi lao động: là những người ở độ tuổi có nghĩa vụ và quyền lợi lao động được quy định trong hiến pháp Nữ 18->55 Nam 18->60 Người ngoài tuổi lao động = dan số- tuổi lao động -Người trong tuổi lao động có hai loại Lực lượng lao động: +Người có việc làm : làm trong hoạt động kinh tế xã hội +Người thất nghiệp:người ko có việc làm nhưng mong muốn tìm được việc làm 1.2.Phân loại thất nghiệp Theo các nhà khoa hoc thì thất nghiệp được chia thành các loại sau: Trong các sách báo kinh tế chúng ta thường gặp rất nhiều những tên gọi khác nhau về các lọai hình thất nghiệp. Thực tế đó bắt nguồn từ những quan niệm không thống nhất về thất nghiệp hoặc dựa trên những tiêu chuẩn  phân loại khác nhau. Chúng ta hay gặp các thuật ngữ : Thất nghiệp tạm thời, Thất nghiệp tự nhiên, Thất nghiệp tự nguyện, Thất nghiệp không tự nguyện, Thất nghiệp cơ cấu, Thất nghiệp công nghệ, Thất nghiệp mùa vụ, Thất nghiệp hữu hình, Thất nghiệp trá hình, Thất nghiệp ngắn hạn, Thất nghiệp trung hạn, Thất nghiệp dài hạn, Thất nghiệp từng phần (bán thất nghiệp), Thất nghiệp toàn phần, Thất nghiệp chu kỳ, Thất nghiệp nhu cầu, Thất nghiệp kinh niên, Thiếu việc làm hữu hình, Thiếu việc làm vô hình, Thừa lao động, Lao động dôi dư... Tuy nhiên nội hàm của những thuật ngữ đã nêu không được phân biệt một cách rõ ràng. Chẳng hạn, thất nghiệp tự nhiên chủ yếu là do thiếu thông tin thị trường lao động và do sự di chuyển của người lao động trên thị trường, như vậy lọai hình này gồm một phần là thất nghiệp tạm thời và một phần là thất nghiệp cơ cấu. Đến lượt mình, một bộ phận của thất nghiệp cơ cấu lại là kết quả của việc không đáp ứng yêu cầu về tay nghề và nghiệp vụ do tiến bộ kỹ thuật đòi hỏi. Ở đây không nói đến khía cạnh thay đổi công nghệ làm giảm nhu cầu lao động mà đề cập đến yêu cầu nâng cao kiến thức, kỹ năng hoặc phải thay đổi một số nghề và nghiệp vụ. Hay là, do không có thông tin đầy đủ về thị trường lao động nhiều người tự nguyện thất nghiệp không đi tìm việc làm, họ mong đợi vào những điều kiện lao động và thu nhập không thực tế ("ảo") trong tương lai, và sự kém hiểu biết đã lấy di những cơ hội việc làm của họ. Nhiều tranh luận cũng xảy ra với trường hợp thất nghiệp mùa vụ. Do thất nghiệp mùa vụ liên quan đến tính chất thời vụ và thời gian kéo dài của nó nên cũng được coi là một phần của thất nghiệp cơ cấu. Ngoài ra, đặc điểm của sản xuất nông nghiệp chỉ ra rằng thất nghiệp mùa vụ thường thấy dưới hình thức trá hình. Thất nghiệp trá hình xảy ra khi giảm nhu cầu về lao động không tương ứng với giảm số nơi làm việc. Thất nghiệp trá hình cũng có thể xảy ra khi tuyển quá số lao động nhưng không đạt yêu cầu về tay nghề và khi tuyển những người không phù hợp về chuyên môn, nghiệp vụ. Để đỡ phức tạp và có cách hiểu đồng nhất, thuận lợi cho việc xác định nguyên nhân và đề xuất những công cụ, giải pháp thích hợp, chúng tôi đề xuất chia các loại hình thất nghiệp đã nêu thành 3 nhóm : thất nghiệp tạm thời, thất nghiệp cơ cấu và thất nghiệp nhu cầu. Thất nghiệp tạm thời là tình trạng không có việc làm ngắn hạn do không có đầy đủ thông tin về cung - cầu lao động, hoặc chờ đợi vào những điều kiện lao động và thu nhập không thực tế hoặc liên quan đến sự di chuyển của người lao động giữa các doanh nghiệp, giữa các vùng và lĩnh vực kinh tế. Thất nghiệp cơ cấu là tình trạng không có việc làm ngắn hạn hoặc dài hạn do không phù hợp về qui mô và cơ cấu cũng như trình độ của cung lao động theo vùng đối với cầu lao động (số chỗ làm việc). Sự không phù hợp có thể là do thay đổi cơ cấu việc làm yêu cầu hoặc do biến đổi từ phía cung của lực lượng lao động. Ở nước ta thất nghiệp cơ cấu biểu hiện rõ nhất trong những năm khi mà GDP tăng trưởng cao nhưng thất nghiệp giảm không đáng kể, thậm trí còn trầm trọng hơn với một số đối tượng như thanh niên, phụ nữ, người nghèo và với những thành phố lớn. Thất nghiệp nhu cầu là trình trạng không có việc làm ngắn hạn hoặc dài hạn do giảm tổng cầu về lao động và làm nền kinh tế đình đốn hoặc suy thoái, dẫn đến giảm hoặc không tăng số việc làm. Ở nước ta thất nghiệp cơ cấu biểu hiện rõ nhất trong những năm khi mà GDP tăng trưởng cao nhưng thất nghiệp giảm không đáng kể, thậm trí còn trầm trọng hơn với một số đối tượng như thanh niên, phụ nữ, người nghèo và với những thành phố lớn. Thất nghiệp nhu cầu là trình trạng không có việc làm ngắn hạn hoặc dài hạn do giảm tổng cầu về lao động và làm nền kinh tế đình đốn hoặc suy thoái, dẫn đến giảm hoặc không tăng số việc làm. Thất nghiệp nhu cầu xuất hiện trong những năm đầu của cuộc cải cách kinh tế ở nước ta (1986 - 1991) và gần đây có xu hướng tăng lên do đình đốn, ứ đọng sản phẩm ở một số ngành, lĩnh vực bị ảnh hưởng của khủng hỏang kinh tế thế giới, đồng thời với đó là quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước và dôi dư lao động 2.Nguyên nhân gắn với loại hình thất nghiệp Hiệu quả can thiệp của Chính phủ vào lĩnh vực lao động - việc làm để đảm bảo an sinh xã hội hoặc tạo điều kiện tăng độ linh  hoạt  mềm dẻo của thị trường lao động-nhằm mục tiêu việc làm đầy đủ, việc làm bề vững và có hiệu quả - phụ thuộc trước hết vào việc đánh giá đúng những nguyên nhân gây ra từng loại hình thất nghiệp và lựa chọn những công cụ, giải pháp phù hợp. Trên cơ sở những nghiên cứu về thất nghiệp và tổng hợp ý kiến của nhiều nhà kinh tế trên thế giới (1), (2), (3), (4) có thể phân loại những nguyên nhân thất nghiệp và đánh giá mức độ ảnh hưởng của chúng đến từng loại hình thất nghiệp theo bảng Bảng 1. Nguyên nhân gắn với các loại hình thất nghiệp Nguyên nhân thất nghiệp Thất nghiệp tạm thời Thất nghiệp cơ cấu Thất nghiệp nhu cầu * Không có thông tin về tình hình trên thị trường lao động. +++ * Do sự di chuyển của người lao động +++ * Tham gia thị trường lao động lần đầu +++ ++ * Tham gia lại thị trường lao động của những người trước đây tự nguyện thất nghiệp +++ ++ * Lạm phát ++ * Mất đất nông nghiệp do làm KCN, KCX ++ ++ * Tăng quy mô lực lượng lao động +++ * Trình độ đào tạo không phù hợp với yêu cầu làm việc +++ * Cơ cấu nghiệp vụ (nghề) theo vùng về số lượng và chất lượng không phù hợp +++ * Áp dụng công nghệ mới +++ * Thay đổi trong hệ thống giá trị + +++ * Thay đổi cơ cấu dân số +++ * Chính sách tiền lương tối thiểu của Chính phủ +++ +++ * Đình đốn nhu cầu và suy thoái kinh tế ++ +++ * Cơ chế sử dụng lao động trong khu vực nhà nước ++ +++ * Chi phí lao động quá cao +++ +++ * Năng suất lao động thấp +++ * Do tính chất mùa vụ của sản xuất +++ (+ : ảnh hưởng ít ;  ++ : ảnh hưởng vừa;  +++ : ảnh hưởng nhiều) Trong bảng 1 ta thấy một nguyên nhân có thể gây ra nhiều hơn một loại hình thất nghiệp. Ví dụ, suy thoái kinh tế ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế gây ra thất nghiệp nhu cầu nhưng cũng tác động đến một số ngành và lĩnh vực kinh tế gây ra thất nghiệp cơ cấu. Chính sách tiền lương tối thiểu theo hướng cao có thể ảnh hưởng đến việc làm gây ra thất nghiệp cơ cấu, đặc biệt với những người tham gia thị trường lao động lần đầu và những người chưa có tay nghề hoặc tay nghề thấp; đồng thời làm giảm nhu cầu lao động của một số doanh nghiệp. Cơ chế cứng trong sử dụng lao động tại DNNN gây ra cả thất nghiệp cơ cấu và thất nghiệp nhu cầu vì chi phí lao động quá cao, năng lực cạnh tranh của DNNN thấp. 2. Tỷ lệ thất nghiệp 2.1.1.Khái niệm:Tỷ lệ thất nghiệp là phần trăm số người lao động không có việc làm tính trên tông số lao động trong xã hội. Thất nghiệp xảy ra khi một người có khả năng làm việc và sẵn sàng làm việc nhưng không có việc làm. Thất nghiệp thường được đo lường bằng việc sử dụng tỷ lệ thất nghiệp, được xác định bằng tỷ lệ phần trăm của những lao động không có việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp cũng được sử dụng trong các nghiên cứu kinh tế và các chỉ số  kinh tế chẳng hạn như Chỉ số về các Chỉ tiêu dẫn đầu của Ban quốc hội Mỹ được sử dụng như một thước đo tình hình kinh tế vĩ mô. Kinh tế học chủ đạo cho rằng thất nghiệp là không thể tránh khỏi, và một điều không muốn nhưng phải chấp nhận là phải ngăn chặn lạm phát; đây là vấn đề gây tranh cãi trong một số trường kinh tế không chính thống. Nguyên nhân của thất nghiệp vẫn còn đang gây tranh cãi. Kinh tế học Keynes nhấn mạnh rằng thất nghiệp là do nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế không đủ (thất nghiệp chu kỳ). Những người khác cho rằng đó là do vấn đề cơ cấu và tính không hiệu quả trong thị trường lao động; thất nghiệp cơ cấu liên quan tới sự không phù hợp giữa cung và cầu đối với lao động có những kỹ năng cần thiết, đôi khi bị ảnh hưởng bởi công nghệ hỏng hoặc quá trình toàn cầu hóa. Kinh tế cổ điển hoặc tân cổ điển có xu hướng bác bỏ những giải thích này, và tập trung nhiều hơn vào những quy định cứng nhắc áp đặt cho thị trường lao động, chẳng hạn như tổ chức công đoàn, luật về lương tối thiểu, thuế, và các quy định khác làm giảm việc thuê lao động (thất nghiệp theo lý thuyết cổ điển). Tuy nhiên những người khác cho rằng thất nghiệp phần lớn là do sự lựa chọn tự nguyện của những người không có việc làm và thời gian cần để tìm kiếm một công việc mới (thất nghiệp do chuyển nghề). Kinh tế học hành vi nêu bật các hiện tượng như tiền lương cứng nhắc và tiền lương hiệu quả mà có thể dẫn đến thất nghiệp. Cũng có bất đồng về quan điểm làm thế nào để đo lường chính xác tỷ lệ thất nghiệp. Các nước khác nhau có tỷ lệ thất nghiệp khác nhau; Theo truyền thống, tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ thấp hơn so với các nước thuộc liên minh châu Âu, mặc dù cũng có sự khác nhau về tỷ lệ thất nghiệp giữa các nước này, các nước như Anh và Đan Mạch hoạt động tốt hơn Ý và Pháp và tỷ lệ thất nghiệp cũng thay đổi theo thời gian (ví dụ cuộc Đại suy thoái) trong suốt chu kỳ kinh tế. 2.1.2.Công thức tính tỷ lệ thất nghiệp Mặc dù nhiều người quan tâm đến số lượng người thất nghiệp, nhưng các nhà kinh tế học chỉ tập trung vào tỷ lệ thất nghiệp. Cách tính này chính xác khi có sự gia tăng thông thường số lượng người thất nghiệp do tăng dân số và tăng lực lượng lao động liên quan tới sản xuất. Tỷ lệ thất nghiệp được thể hiện dưới dạng tỷ lệ %, và được tính như sau: Tỷ lệ thất nghiệp = Số lượng công nhân bị thất nghiệp/Tổng lực lượng lao động Theo định nghĩa của Tổ chức Lao động Quốc tế, “công nhân bị thất nghiệp” là những người hiện không làm việc nhưng sẵn sàng và có thể làm việc để được trả lương, hiện tại sẵn có khả năng làm việc, và tích cực tìm kiếm việc làm. Những người tích cực tìm kiếm việc làm phải nỗ lực: trong việc liên hệ với chủ lao động, tham gia các cuộc phỏng vấn xin việc, liên hệ với các cơ quan cung ứng việc làm, gửi sơ yếu lý lịch, nộp đơn xin việc, đáp lại những việc làm đăng quảng cáo, hoặc một vài cách tìm kiếm việc làm trong trước bốn tuần. Việc xem quảng cáo việc làm mà không đáp lại sẽ không được coi là tích cực tìm kiếm việc làm. Bởi vì không phải tất cả những trường hợp thất nghiệp có thể “lộ ra” và được các cơ quan chính phủ biết tới nên số liệu thống kê chính thức về thất nghiệp có thể không chính xác. ILO chỉ ra 4 phương pháp khác nhau để tính tỷ lệ thất nghiệp: Cuộc điều tra về thực trạng lao động là phương pháp tính tỷ lệ thất nghiệp được ưa chuộng nhất bởi vì chúng cho ra kết quả đầy đủ nhất và có thể tính tỷ lệ thất nghiệp theo nhiều loại nhóm khác nhau chẳng hạn như chủng tộc và giới tính. Đây là phương pháp được sử dụng nhiều nhất cho việc so sánh tỷ lệ thất nghiệp giữa các nước trên thế giới. Những dự đoán chính thức về tỷ lệ thất nghiệp được đưa ra bằng sự kết hợp thông tin của một hoặc nhiều hơn trong số 3 phương pháp khác nhau. Việc sử dụng phương pháp này làm giảm tác dụng của những Cuộc điều tra về thực trạng lao động. Số liệu thống kê về Bảo hiểm xã hội chẳng hạn như trợ cấp thất nghiệp, được tính toán dựa trên số lượng người được bảo hiểm, đại diện cho tổng lực lượng lao động và số lượng người được bảo hiểm mà đang nhận trợ cấp. Phương pháp này bị chỉ trích rất nhiều do thời hạn hưởng trợ cấp kết thúc trước khi người ta tìm được việc làm. Số liệu thống kê của Phòng lao động là ít có tác dụng nhất bởi vì họ chỉ tính đến số lượng người thất nghiệp hàng tháng, những người đến các Phòng lao động để tìm việc làm. Phương pháp này cũng kể đến cả những người thất nghiệp mà theo định nghĩa của ILO họ không bị thất nghiệp Tỷ lệ thất nghiệp = 100% Số người không có việc làm Tổng số lao động xã hội Tử số: Không tính những người không cố gắng tìm việc. Mẫu số: Tổng số lao động xã hội = Số người có việc làm + số người không có việc làm nhưng tích cực tìm việc 3.Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên Là tỷ lệ thất nghiệp mà nền kinh tế đạt được ứng với mức sản lượng tiềm năng 3.1.Các yếu tố xác định tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên Tỷ lệ tìm việc và tỷ lệ rời công việc. Tỷ lệ tìm việc là tỷ lệ những người thất nghiệp tìm được một việc làm mỗi tháng so với lực lượng lao động. Tỷ lệ tìm việc càng cao, tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên càng thấp. Tỷ lệ rời công việc là tỷ lệ những người mất việc mỗi tháng so với lực lượng lao động. Tỷ lệ rời công việc càng cao, tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên càng cao. Lưu ý đây là tỷ lệ những người rời công việc thuộc hai dạng thất nghiệp tạm thời và thất nghiệp cơ cấu,trong thực tế còn một tỷ lệ rời bỏ công việc thuộc diện thất nghiệp do thiếu cầu(thất nghiệp keyness). 4.Yếu tố tác động đến tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên -Tiền lương cứng nhắc: Khi nghành đóng tàu gặp khủng hoảng,chủ doanh nghiệp sẽ đứng trước hai lựa chọn một là giảm tiền lương(vì lúc này nhiều công nhân nghành đóng tàu bị sa thải cung lớn hơn cầu doanh nghiệp có thể giảm tiền lương xuống mức cân bằng) hai là giảm số công nhân làm việc. Vì các hượp đồng lao động đã quy định mức tiền lương và đã được ký kết nên ngay lập tức DN ko thể chọn cách một các DN chọn cách hai và cách này làm tăng tỷ lệ TNTN,giả sử doanh nghiệp chọn cách thứ nhất thì tỷ lệ thất nghiệp sẽ điều chỉnh dần về tỷ lệ TNTN vì tiền lương dần tiến về mức cân bằng. - Tiền lương cứng nhắc: Khi nghành đóng tàu gặp khủng hoảng,chủ doanh nghiệp sẽ đứng trước hai lựa chọn một là giảm tiền lương(vì lúc này nhiều công nhân nghành đóng tàu bị sa thải cung lớn hơn cầu doanh nghiệp có thể giảm tiền lương xuống mức cân bằng) hai là giảm số công nhân làm việc. Vì các hượp đồng lao động đã quy định mức tiền lương và đã được ký kết nên ngay lập tức DN ko thể chọn cách một các DN chọn cách hai và cách này làm tăng tỷ lệ TNTN,giả sử doanh nghiệp chọn cách thứ nhất thì tỷ lệ thất nghiệp sẽ điều chỉnh dần về tỷ lệ TNTN vì tiền lương dần tiến về mức cân bằng. 5.Mối liên hệ giữa thất nghiệp va lạm phát Lạm phát có ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đến nền kinh tế của một quốc gia.Khi tỷ lệ lạm phát quả cao sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế quốc dân và đời sống xã hội, đồng thời tỷ lệ thất nghiệp sẽ tăng cao va hai yếu tố này tỷ lệ thuận với nhau. Lạm phát và thất nghiệp là có sự đánh đổi thực tế Chương 3 Thực trạng về vấn đề thất nghiệp của sinh viên sau khi ra Tình trạng thất nghiệp của sinh viên ra trường: Hiện nay hầu hết sinh viên khi ra trường, nhất là các sinh viên học tại các thành phố lớn, đều bắt đầu đôn đáo kiếm một công việc tạm thời nào đó để làm lấy tiền trụ lại thành phố xin việc ổn định sau, mà không phải xin tiền bố mẹ. Các công việc mà họ làm đa phần là không cần đến bằng cấp như: Bưng bê tại các quán café, quán ăn hay làm nhân viên trực nghe điện thoại, đi gia sư…Chỉ là những công việc đơn giản như thế, lương không đủ ăn nhưng để xin được một chỗ làm ổn định cũng không phải dễ dàng gì. Rất nhiều trung tâm tuyển dụng việc làm lợi dụng các sinh viên mới ra trường để lừa bịp bằng các chiêu nộp hồ sơ cộng với tiền phí xin việc để rồi công việc thì chẳng thấy đâu, nhiều sinh viên mới ra trường do thiếu hiểu biết nên vừa bị lừa mất tiền, lại mất cả công sức lẫn thời gian làm việc không công cho một công ty nào đó. Tình trạng ấy không chỉ xảy ra với các sinh viên có bằng loại khá, trung bình khá mà thậm chí cả những sinh viên ra trường với tấm bằng loại giỏi vẫn loay hoay không biết phải đi đâu, về đâu trong tình trạng ở các công ty, các cơ quan lúc nào cũng chồng đống những xấp hồ sơ xin việc. Nên có không ít bạn sinh viên sau khi học xong Cao đẳng hay Đại học do không xin được việc đã chọn giải pháp là học tiếp, học liên thông hay học văn bằng hai để lại được bố mẹ nuôi như tâm sự của một số bạn sinh viên: “Mình chán cảnh phải ngồi chầu chực xin việc ở các trung tâm mà cuối cùng lại về không nên mình đã bảo bố mẹ rồi, mình sẽ học lên Cao học. Hy vọng với tấm bằng thạc sĩ thì ra trường sẽ suôn sẻ hơn”. Cũng có nhiều sinh viên ra trường nhưng còn dành thời gian và tiền bạc đi học thêm các chuyên ngành khác như tiếng Anh, lập trình, nghiệp vụ thư ký, nghiệp vụ sư phạm, nghiệp vụ báo chí… để có thể “đỡ đần” trước mắt lúc ra trường. Cũng có nhiều sinh viên ra trường đã tìm được việc làm sau một vài tháng đầu vật lộn nhưng hầu hết trong số họ không mấy ai được làm công việc theo đúng chuyên nghành mình đã học mà hầu hết là xin việc trái nghành, nghề. Như theo thống kê của Bộ GD&ĐT, tỷ lệ có việc làm đúng chuyên ngành của sinh viên khối tự nhiên là khoảng 60%, còn các trường thuộc khối xã hội thấp hơn nhiều. Một nghiên cứu gần đây cho thấy cứ 100 sinh viên khối xã hội mới tốt nghiệp ra trường chỉ có khoảng 10 người tìm được công việc đúng chuyên môn. Số còn lại làm những công việc khác để lo cho cuộc sống và chờ cơ hội. Để xin được những công việc khác này, sinh viên phải học thêm nhiều kiến thức có thể khác rất xa chuyên môn đã học. Thất nghiệp là vấn đề phổ biến đối với hầu hết các quốc gia, kể cả những nước phát triển. Làm rõ tỷ lệ thất nghiệp sẽ đánh giá chính xác mức sống và tình hình ổn định kinh tế, chính trị, xã hội... tại quốc gia đó. Trong thời gian chờ đợi số liệu điều tra từ Bộ Lao
Tài liệu liên quan