Đề tài Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích tình hình nhập khẩu của công ty cổ phần xuất nhập khẩu Hàng không – Airimex giai đoạn 2004- 2008

Việt Nam đang trong thời kỳ phát triển rất quan trọng – đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phấn đấu đưa đất nước đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để thực hiện được nhiệm vụ đó, chúng ta phải xây dựng được một cơ sở hạ tầng vững chắc mà trong đó hoạt động nhập khẩu trang thiết bị hiện đại là không thể thiếu. Trong giai đoạn gần đây nền kinh tế Việt Nam đã có sự phát triển cao và ổn định. Năm 2007 mức tăng trưởng GDP đạt 8,5%, năm 2008 tuy diễn ra cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu nhưng Việt Nam vẫn được đánh giá là nơi triển vọng để đầu tư (đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam 2008 ước tính khoảng trên 60 tỷ USD). Sự phát triển mạnh mẽ này của nền kinh tế có sự đóng góp không nhỏ của hoạt động thương mại quốc tế mà trong đó có nhập khẩu hàng hóa. Vì thế việc chú trọng và đẩy mạnh phát triển hoạt động nhập khẩu hàng hóa, máy móc thiết bị là thực sự quan trọng. Qua thời gian thực tập và tìm hiểu thực tế hoạt động xuất nhập khẩu tại công ty xuất nhập khẩu Hàng không – Airimex, em đã phần nào hiểu được hoạt động kinh doanh ngoại thương của một doanh nghiệp, quá trình đàm phán, ký kết và thực hiện một hợp đồng ngoại thương cũng như cách thức lựa chọn các phương thức giao dịch. Như chúng ta đã biết để đạt hiệu quả cao trong kinh doanh các nhà quản lý cần đưa ra những quyết định đúng đắn, kịp thời giúp lập ra những kế hoạch, chiến lược kinh doanh hiệu quả. Và các phương pháp phân tích thống kê là một trong những công cụ hữu hiệu nhất giúp cho việc ra quyết định của các nhà quản lý. Bằng việc vận dụng những lý luận và kiến thức thống kê đã học cùng với quá trình tìm hiểu thực tế em đã lựa chọn đề tài “Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích tình hình nhập khẩu của công ty cổ phần xuất nhập khẩu Hàng không – Airimex giai đoạn 2004- 2008” Kết cấu của chuyên đề bao gồm ba phần: - Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nhập khẩu hàng hóa và vai trò của nhập khẩu. - Chương 2: Hệ thống chỉ tiêu và một số phương pháp phân tích thống kê phân tích tình hình nhập khẩu của Airimex giai đoạn 2004 – 2008. - Chương 3: Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích tình hình nhập khẩu của Airimex giai đoạn 2004 - 2008. Trong thời gian thực tập tại công ty Airimex em đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của các cán bộ nhân viên trong công ty và sự nhiệt tình hướng dẫn của Thạc sĩ Trần Quang. Tuy nhiên do thời gian thực tập và khả năng chuyên môn còn hạn chế nên chuyên đề thực tập không thể tránh khỏi những thiếu sót, nhận định chủ quan chưa toàn diện, vì vậy em mong được những ý kiến đóng góp từ phía các thầy cô giáo. Em xin chân thành cảm ơn!

doc139 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1140 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích tình hình nhập khẩu của công ty cổ phần xuất nhập khẩu Hàng không – Airimex giai đoạn 2004- 2008, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục LỜ DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ Bảng 2.1: Doanh thu của Airimex giai đoạn 2004 – 2008 Bảng 2.2: Lợi nhuận từ hoạt động bán hàng và cung cấp dịch vụ của công ty Airimex giai đoạn 2004 – 2008. Bảng 2.3: Kim ngạch nhập khẩu của Airimex phân chia theo phương thức nhập khẩu. Bảng 2.4: Doanh thu của Airimex từ các hoạt động kinh doanh và cung cấp dịch vụ giai đoạn 2004 – 2008. Bảng 2.5: Kim ngạch nhập khẩu chia theo nguồn cung ứng 2004 – 2008. Bảng 3.1: Kim ngạch nhập khẩu của Airimex giai đoạn 2004 – 2008. Bảng 3.2: Phân tích biến động kim ngạch nhập khẩu của Airimex giai đoạn 2004 – 2008. Bảng 3.3: Phân tích biến động doanh thu của Airimex giai đoạn 2004 – 2008. Bảng 3.4: Biến động về chi phí nhập khẩu trực tiếp của Airimex giai đoạn 2004 – 2008. Bảng 3.5: Phân tích biến động tổng vốn của Airimex giai đoạn 2004 – 2008. Bảng 3.6: Bảng phân tích biến động các chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng tổng vốn và hiệu quả sử dụng tài sản cố định của Airimex giai đoạn 2004- 2008. Bảng 3.7: Bảng phân tích biến động chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ nhập khẩu của Airmex giai đoạn 2004 – 2008. Sơ đồ 2.1: Mô hình CART trong phân tích mối liên hệ tương tác các nhân tố tác động đến tổng doanh thu của Airimex. Sơ đồ 3.1: Bộ máy quản lý của Airimex Biểu đồ 3.1: Kim ngạch nhập khẩu của Airimex 2004 – 2008. Biểu đồ 3.2: Doanh thu của Airimex 2004 – 2008. Biểu đồ 3.3: Chi phí nhập khẩu trực tiếp của Airimex 2004 – 2008. Biểu đồ 3.4: Tổng vốn của Airimex 2004- 2008. LỜI MỞ ĐẦU Việt Nam đang trong thời kỳ phát triển rất quan trọng – đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phấn đấu đưa đất nước đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để thực hiện được nhiệm vụ đó, chúng ta phải xây dựng được một cơ sở hạ tầng vững chắc mà trong đó hoạt động nhập khẩu trang thiết bị hiện đại là không thể thiếu. Trong giai đoạn gần đây nền kinh tế Việt Nam đã có sự phát triển cao và ổn định. Năm 2007 mức tăng trưởng GDP đạt 8,5%, năm 2008 tuy diễn ra cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu nhưng Việt Nam vẫn được đánh giá là nơi triển vọng để đầu tư (đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam 2008 ước tính khoảng trên 60 tỷ USD). Sự phát triển mạnh mẽ này của nền kinh tế có sự đóng góp không nhỏ của hoạt động thương mại quốc tế mà trong đó có nhập khẩu hàng hóa. Vì thế việc chú trọng và đẩy mạnh phát triển hoạt động nhập khẩu hàng hóa, máy móc thiết bị là thực sự quan trọng. Qua thời gian thực tập và tìm hiểu thực tế hoạt động xuất nhập khẩu tại công ty xuất nhập khẩu Hàng không – Airimex, em đã phần nào hiểu được hoạt động kinh doanh ngoại thương của một doanh nghiệp, quá trình đàm phán, ký kết và thực hiện một hợp đồng ngoại thương cũng như cách thức lựa chọn các phương thức giao dịch. Như chúng ta đã biết để đạt hiệu quả cao trong kinh doanh các nhà quản lý cần đưa ra những quyết định đúng đắn, kịp thời giúp lập ra những kế hoạch, chiến lược kinh doanh hiệu quả. Và các phương pháp phân tích thống kê là một trong những công cụ hữu hiệu nhất giúp cho việc ra quyết định của các nhà quản lý. Bằng việc vận dụng những lý luận và kiến thức thống kê đã học cùng với quá trình tìm hiểu thực tế em đã lựa chọn đề tài “Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích tình hình nhập khẩu của công ty cổ phần xuất nhập khẩu Hàng không – Airimex giai đoạn 2004- 2008” Kết cấu của chuyên đề bao gồm ba phần: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nhập khẩu hàng hóa và vai trò của nhập khẩu. Chương 2: Hệ thống chỉ tiêu và một số phương pháp phân tích thống kê phân tích tình hình nhập khẩu của Airimex giai đoạn 2004 – 2008. Chương 3: Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích tình hình nhập khẩu của Airimex giai đoạn 2004 - 2008. Trong thời gian thực tập tại công ty Airimex em đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của các cán bộ nhân viên trong công ty và sự nhiệt tình hướng dẫn của Thạc sĩ Trần Quang. Tuy nhiên do thời gian thực tập và khả năng chuyên môn còn hạn chế nên chuyên đề thực tập không thể tránh khỏi những thiếu sót, nhận định chủ quan chưa toàn diện, vì vậy em mong được những ý kiến đóng góp từ phía các thầy cô giáo. Em xin chân thành cảm ơn! Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hoạt động nhập khẩu hàng hóa và vai trò của nhập khẩu 1.1. Khái niệm về nhập khẩu hàng hóa và phân loại 1.1.1. Khái niệm Nhập khẩu là mua hàng hóa và dịch vụ của quốc gia hoặc vùng lãnh thổ khác nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước. Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng trong thương mại quốc tế, nó tác động trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống trong nước. Hoạt động nhập khẩu cùng với xuất khẩu cấu thành nên nghiệp vụ ngoại thương đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Theo định nghĩa của SNA thì nhập khẩu là mua hàng hóa, dịch vụ giữa các đơn vị thường trú và không thường trú của các quốc gia. Ngày nay, nhập khẩu không chỉ đơn thuần với ý nghĩa là mua hàng hóa vượt qua biên giới quốc gia mà còn gắn với hoạt động chuyển giao công nghệ - khoa hoc - kỹ thuật. Với việc trao đổi hàng hóa, dịch vụ, chuyển giao công nghệ giữa các quốc gia nhằm mục đích kinh tế và tối đa hóa lợi nhuận, hoạt động nhập khẩu nói riêng và thương mại quốc tế nói chung đã thể hiện được sự gắn bó chặt chẽ giữa kinh tế quốc gia và kinh tế thế giới. 1.1.2. Phân loại 1.1.2.1. Nhập khẩu trực tiếp Nhập khẩu trực tiếp là hình thức nhập khẩu trong đó người bán (nhà xuất khẩu, người sản xuất, người cung cấp) và người mua (nhà nhập khẩu) quan hệ trực tiếp với nhau (bằng cách gặp mặt, qua thư từ, điện tín) để bàn bạc thỏa thuận về hàng hóa, giá cả và các điều kiện giao dịch khác. Ưu điểm của phương thức này là cho phép người xuất khẩu nắm bắt được nhu cầu của thị trường về số lượng, chất lượng, giá cả dó đó người bán có thể thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của thị trường, giúp xây dựng chiến lược quốc tế phù hợp, hơn thế giúp người bán không bị chia sẻ lợi nhuận. Tuy nhiên kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp đòi hỏi các doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải có những cán bộ nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu giỏi: giỏi về giao dịch đàm phán, am hiểu và có kinh nghiệm buôn bán quốc tế đặc biệt là nghiệp vụ thanh toán quốc tế thông thạo, như vậy mới đảm bảo có hiệu quả. Đây vừa là yêu cầu để đảm bảo hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp vừa là điểm yếu của đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam khi tiếp cận với thị trường thế giới. Hơn thế khi kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp chi phí tiếp thị thị trường thế giới cao nên những doanh nghiệp có quy mô nhỏ vốn ít nên xuất nhập khẩu ủy thác có lợi hơn. 1.1.2.2. Nhập khẩu ủy thác: Nhập khẩu ủy thác là hình thức nhập khẩu được thực hiện nhờ sự giúp đỡ của trung gian thứ ba. Người thứ ba này được hưởng một khoản tiền nhất định. Người trung gian phổ biến trong hoạt động xuất nhập khẩu là đại lý và môi giới. Đại lý là một người hay một công ty ủy thác cho người khác, công ty khác thực hiện việc mua bán hoặc dịch vụ cho việc mua bán như quảng cáo, vận tải và bảo hiểm. Quan hệ giữa người ủy thác và đại lý thể hiện trên hợp đồng đại lý. Có thể phân loại đại lý theo các tiêu thức khác nhau: Phân loại theo phạm vi quyền hạn đại lý được ủy thác: - Đại lý toàn quyền (Universal Agent): là hình thức mà người đại lý được phép thay mặt người ủy thác làm mọi việc mà người ủy thác làm. - Tổng đại lý (General Agent): là hình thức người đại lý chỉ được phép thay mặt người ủy thác thực hiện một số các công việc nhất định như ký hợp đồng mua bán… - Đại lý đặc biệt (Special Agent): là hình thức mà người đại lý chỉ thực hiện một số công việc hạn chế mà nội dung của công việc do người ủy thác quyết định như ủy thác mua một khối lượng hàng với chất lượng và giá cả xác định. Phân loại theo nội dung quan hệ giữa người đại lý và người ủy thác: - Đại lý ủy thác (đại lý thụ ủy): là hình thức mà người đại lý được chỉ định để hành động thay cho người ủy thác. Thù lao cho người đại lý thường là một khoản tiền hay tỉ lệ phần trăm trị giá của lô hàng vừa thực hiện. - Đại lý hoa hồng (Commission Agent): là người được ủy thác tiến hành hoạt động với danh nghĩa của mình, nhưng với chi phí của người ủy thác, thù lao của người đại lý hoa hồng là một khoản tiền hoa hồng tùy theo khối lượng và tính chất của công việc được ủy thác. - Đại lý kinh tiêu (Merchant Agent): là người đại lý hoạt động với danh nghĩa và chi phí của mình, thù lao của người này là khoản chênh lệch giá bán và giá mua. Môi giới – người môi giới (Broker): là thương nhân trung gian giữa bên mua và bên bán, được bên mua hoặc bên bán ủy thác tiến hành bán hoặc mua hàng hóa hay dịch vụ. Khi tiến hành nghiệp vụ môi giới, người môi giới không đứng tên của chính mình, mà đứng tên của người ủy thác, không chiếm hữu hàng hóa và không chịu trách nhiệm cá nhân trước người ủy thác về việc khách hàng không thực hiện hợp đồng. Quan hệ giữa người ủy thác và người môi giới dựa trên ủy thác từng lần, không dựa vào hợp đồng. Ưu điểm của hình thức nhập khẩu ủy thác là thông qua người trung gian thường là những người am hiểu thị trường xâm nhập, pháp luật và tập quán buôn bán của địa phương, họ có khả năng đẩy mạnh buôn bán và tránh bớt rủi ro cho người ủy thác. Những người trung gian, nhất là các đại lý thường có cơ sở vật chất nhất định, do đó khi sử dụng họ, người ủy thác có thể giảm bớt đầu tư trực tiếp vào nước tiêu thụ hàng. Ngoài ra nhờ dịch vụ của trung gian trong việc lựa chọn phân loại, đóng gói, người ủy thác giảm bớt chi phí vận tải. Tuy nhiên do dựa vào bên trung gian nên công ty xuất nhập khẩu mất sự liên hệ trực tiếp với thị trường, vốn hay bị bên nhận đại lý chiếm dụng, công ty phải đáp ứng những yêu sách của đại lý và môi giới, lợi nhuận bị chia sẻ. 1.1.2.3. Nhập khẩu trong thương mại đối lưu Thương mại đối lưu (Counter – Trade) hay còn gọi là hình thức xuất nhập khẩu liên kết là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng trao đổi với nhau có giá trị tương đương. Mục đích của xuất nhập khẩu liên kết không phải nhằm thu ngoại tệ, mà thu về một hàng hóa khác có giá trị tương đương. Như vậy một doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa trong thương mại đối lưu có nghĩa là họ đã xuất khẩu một lượng hàng hóa có giá trị tương đương để thu về lượng hàng hóa nhập khẩu đó.Các hình thức thương mại đối lưu chủ yếu là: hình thức hàng đổi hàng (barter), trao đổi bù trừ (Compensation). - Hình thức hàng đổi hàng: nghĩa là hai bên trao đổi với nhau những hàng hóa có giá trị tương đương, việc giao hàng diễn ra hầu như đồng thời. Trong nghiệp vụ hàng đổi hàng cổ điển, người ta không dùng tiền để thanh toán và chỉ có hai bên tham gia, còn ngày nay có thể dùng một phần tiền để thanh toán thương vụ và có thể có nhiều hơn hai bên tham gia. - Hình thức trao đổi bù trừ: trong nghiệp vụ bù trừ hai bên trao đổi với nhau trên cơ sở ghi giá trị hàng giao, hàng nhận, đến cuối kỳ hạn hai bên mới so sánh, đối chiếu giữa giá trị hàng giao với giá trị hàng nhận. Nếu sau khi bù trừ tiền hàng như thế mà mà còn số dư thì số tiền đó được giữ lại để chi trả theo yêu cầu của bên chủ nợ về những khoản chi tiêu của bên chủ nợ tại nước bị nợ. Nhìn chung dù tiến hành theo hình thức nào thì đều phải tôn trọng nguyên tắc cân bằng được thể hiện là: cân bằng về mặt hàng (mặt hàng quý đổi lấy mặt hàng quý, mặt hàng ế thừa đổi lấy mặt hàng ế thừa), cân bằng về mặt điều kiện giao dịch (cùng giao FOB cảng đi hoặc cùng giao CIF cảng đến), cân bằng về cơ sở giá cả (cùng tính cao hơn hoặc thấp hơn giá quốc tế), cân bằng về tổng giá trị hàng giao cho nhau. 1.1.2.4. Hình thức tái xuất khẩu Tái xuất khẩu là hình thức xuất khẩu trở ra nước ngoài những hàng trước đây đã nhập khẩu, chưa qua chế biến ở nước tái xuất. Giao dịch tái xuất khẩu bao gồm nhập khẩu và xuất khẩu với mục đích thu về một số ngoại tệ lớn hơn vốn bỏ ra ban đầu. Đặc điểm của giao dịch tái xuất là luôn luôn thu hút ba nước: nước xuất khẩu, nước tái xuất và nước nhập khẩu. Nên còn gọi giao dịch tái xuất là giao dịch ba bên hay giao dịch tam giác. Người bán vừa là người mua, sau mỗi chuyến hàng đều có việc thanh toán bằng tiền. Tái xuất có thể được thực hiện bằng một trong hai hình thức sau: tái xuất theo đúng nghĩa và chuyển khẩu. - Tái xuất theo đúng nghĩa: là hình thức hàng hóa đi từ nước xuất khẩu đến nước tái xuất rồi lại được xuất khẩu từ nước tái xuất sang nước nhập khẩu. Ngược chiều với sự vận động của hàng hóa là sự vận động của đồng tiền: nước tái xuất trả tiền nước xuất khẩu và nhận tiền từ nước nhập khẩu. - Chuyển khẩu là hình thức trong đó hàng hóa từ nước xuất khẩu được chuyển trực tiếp sang nước nhập khẩu. Nước tái xuất trả tiền cho nước xuất khẩu và thu tiền của nước nhập khẩu. Có ba hình thức chuyển khẩu: + Hàng từ nước xuất khẩu được trở thẳng sang nước nhập khẩu. + Hàng từ nước xuất khẩu được chở đến nước tái xuất nhưng không làm thủ tục vào nước tái xuất mà được chở sang nước nhập khẩu. + Hàng từ nước xuất khẩu được chở đến nước tái xuất, làm thủ tục nhập vào kho ngoại quan ở nước tái xuất, sau đó được xuất khẩu sang nước nhập khẩu. 1.1.2.5 Hình thức đấu thầu quốc tế Đấu thầu quốc tế là phương thức giao dịch đặc biệt, trong đó người mua (tức là người gọi thầu) công bố trước điều kiện mua hàng để người bán (tức người dự thầu) báo giá mình muốn bán, sau đó người mua sẽ chọn mua của người nào bán rẻ nhất và điều kiện tín dụng phù hợp hơn cả với những điều kiện đã nêu. Phương thức đấu thầu được áp dụng tương đối phổ biến trong việc mua sắm và thi công các công trình của Nhà nước, các thiết bị máy móc tiên tiến hiện đại, nhất là ở các nước đang phát triển. Ở nước ta, nhập khẩu thiết bị máy móc theo phương thức đấu thầu quốc tế được áp dụng cũng khá nhiều. Các công ty nhập khẩu trong nước công bố trước điều kiện mua hàng để lựa chọn ra nhà cung cấp ở nước ngoài nào đáp ứng tốt nhất các điều kiện đã nêu. 1.1.2.6. Đấu giá quốc tế: Đấu giá quốc tế là một phương thức hoạt động thương mại, được tổ chức ở một nơi nhất định tại đó người bán hàng tự mình hoặc thuê người tổ chức đấu giá thực hiện việc bán hàng hóa công khai để chọn được người mua trả giá cao nhất. Hàng hóa nhập khẩu được tiến hành theo phương thức giao dịch đấu giá quốc tế thường là những mặt hàng khó tiêu chuẩn hóa và chúng được đưa ra đấu giá ở những trung tâm đấu giá quốc tế nổi tiếng. Đấu giá có thể được chia thành hai loại hình chính: - Loại hình trả giá lên: là hình thức bán đấu giá theo đó người trả giá cao nhất so với giá khởi điểm là người có quyền mua hàng. - Loại hình đặt giá xuống: là hình thức đấu giá theo đó người đầu tiên chấp nhận ngay mức giá khởi điểm hoặc mức giá được hạ thấp là người có quyền mua hàng. Nhưng nếu xét theo hàng hóa – đối tượng đấu giá thì cũng có thể chia thành hai loại: - Đấu giá thương nghiệp: trong đó hàng hóa được phân lô, phân loại, có thể được sơ chế, đại bộ phận người dự là nhà buôn. - Đấu giá phi thương nghiệp: hàng hóa được bán với mục đích như thanh lý vật vô thừa nhận, giải quyết hàng tồn kho, thanh lý công ty phá sản …, đại bộ phận người tham gia là người tiêu dùng. Như vậy nhập khẩu hàng hóa được tiến hành theo những phương thức giao dịch mua, bán nhất định. Mỗi phương thức quy định thủ tục tiến hành, điều kiện giao dịch, thao tác và chứng từ cần thiết cho giao dịch nên có những ưu nhược điểm riêng. Vì thế tùy vào điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp (quy mô vốn, đặc điểm hàng hóa mua bán, năng lực cán bộ …) mà lựa chọn phương thức giao dịch thích hợp hoặc phối hợp nhiều phương thức giao dịch cùng một lúc. 1.2. Quy trình hoạt động nhập khẩu ở các doanh nghiệp 1.2.1. Nghiên cứu thị trường và xác định mặt hàng cần nhập khẩu Vấn đề nghiên cứu thị trường là một việc làm cần thiết đầu tiên đối với bất cứ công ty nào muốn tham gia vào thị trường thế giới. Hoạt động xuất nhập khẩu thường phức tạp hơn hoạt động thương mại nội địa vì bạn hàng ở cách xa nhau, hoạt động chịu sự điều tiết của nhiều hệ thống luật pháp, hệ thống tài chính – tiền tệ khác nhau… Nghiên cứu thị trường theo nghĩa rộng là quá trình điều tra để tìm triển vọng bán hàng cho một sản phẩm cụ thể hay một nhóm sản phẩm và phương pháp thực hiện mục tiêu đó. Quá trình nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin, số liệu về thị trường, so sánh, phân tích những số liệu đó và rút ra kết luận giúp nhà quản lý đưa ra kết luận đúng đắn lập kế hoạch marketing. Công việc đầu tiên của người làm công tác nghiên cứu thị trường là và thu thập những thông tin có liên quan đến thị trường và mặt hàng mình cần quan tâm. Có hai phương pháp chủ yếu trong nghiên cứu thị trường là: phương pháp nghiên cứu văn phòng hay nghiên cứu tại bàn và nghiên cứu hiện trường. - Nghiên cứu văn phòng bao gồm việc thu thập thông tin từ các nguồn tư liệu xuất bản hay không xuất bản. Đây là phương pháp phổ biến nhất và tương đối ít tốn kém. Tài liệu nghiên cứu thường là thông tin lấy từ các tổ chức quốc tế như: Trung tâm thương mại Quốc tế, hiệp định chung về thương mại và thuế quan, tổ chức thương mại và phát triển của Liên hợp quốc, cơ quan Thống kê của Liên Hợp Quốc… Nguồn thông tin quan trọng thứ hai là các sách báo thương mại do các tổ chức quốc gia hoặc cá nhân xuất bản như: Niên giám thống kê xuất khẩu của các nước, bản tin Reuter về các loại mặt hàng, thời báo tài chính… Nguồn thông tin quan trọng thứ ba là quan hệ với thương nhân. Số liệu thống kê là một trong những loại thông tin quan trọng nhất, được sử dụng nhiều nhất trong nghiên cứu thị trường, đặc biệt là nghiên cứu tại bàn. Tuy nhiên phương pháp nghiên cứu văn phòng có hạn chế là chậm và mức độ tin cậy có hạn. Kết quả nghiên cứu văn phòng cũng nên cần bổ sung thêm kết quả nghiên cứu hiện trường. - Nghiên cứu hiện trường là phương pháp thu thập thông tin chủ yếu thông qua tiếp xúc với các thương nhân tại hiện trường. Doanh nghiệp cử người đến tận thị trường để tìm hiểu tình hình. Đây là một phương pháp quan trọng trong nghiên cứu thị trường, tuy tốn kém hơn phương pháp nghiên cứu văn phòng nhưng giúp doanh nghiệp mau chóng nắm được những thông tin chắc chắn và toàn diện. Về mặt trình tự nghiên cứu hiện trường, có thể được thực hiện sau khi đã sơ bộ phân tích đánh giá những kết quả nghiên cứu văn phòng. Trước hết cần xử lý sơ bộ các thông tin về các thị trường đã đề cập, chọn ra thị trường có nhiều triển vọng nhất. Sau đó căn cứ vào kết quả lựa chọn để tiến hành nghiên cứu hiện trường và lập kế hoạch khảo sát. Nội dung chính trong nghiên cứu hiện trường gồm xác định những vấn đề của một mặt hàng cụ thể và kiểm tra các cách thu thập thông tin khác. Thông qua nghiên cứu thị trường doanh nghiệp nhập khẩu có thể nắm bắt được nhu cầu của thị trường nội địa, cũng như nguồn cung ứng của đối tác nước ngoài. Doanh nghiệp cần xác định xem khách hàng hiện nay là những ai, có nhu cầu về mặt hàng gì? Phân nhóm khách hàng theo nghề nghiệp, tuổi, dân tộc , giới tính… Nhịp điệu mua hàng của các nhóm khách hàng ra sao? Sản phẩm của hãng ở thế hệ nào? Lý do mua hàng của khách là gì? Nhóm khách hàng tiềm năng là ai? Doanh nghiệp cũng cần xác định khối lượng hàng hóa cung ứng hiện nay của các đối tác nước ngoài, giá bán trung bình của các sản phẩm tương tự, sản phẩm của hãng cung cấp ở vào giai đoạn nào của thị trường. Trong thương mại quốc tế có rất nhiều rủi ro vì vậy doanh nghiệp phải xác định, phân tích cẩn thận tất cả những điều kiện của thị trường liên quan đến nhập khẩu hàng hóa. Điều kiện đầu tiên là về quy chế và pháp lý: cần tìm hiểu rõ ràng về quy chế giá cả, quy chế về những hoạt động thương mại, hóa đơn hải quan, kiểm soát hối đoái… Các điều kiện khác cần thiết như điều kiện về tài chính (thuế quan, chi phí vận tải, bảo hiểm vận chuyển…), điều kiện về kỹ thuật (tiêu chuẩn sản phẩm), điều kiện về con người và tâm lý (trình độ và khả năng đào tạo nhân viên, nét văn hóa xã hội của đất nước có nhà cung cấp là đối tác của doanh nghiệp…). Ngoài ra doanh nghiệp còn cần nghiên cứu và dự đoán được xu hướng biến động của giá cả trên thị trường thế giới. Xu hướng biến động giá cả của các loại hàng hóa trên thị trường thế giới rất phức tạp có lúc tăng, giảm, cá biệt có trường hợp ổn định, nhưng nói chung xu hướng đó c
Tài liệu liên quan