Đề tài Xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam sang EU:Thực trạng và giải pháp

Đẩy mạnh xuất khẩu là chủ trương kinh tế lớn của Đẳng và nhà nướcViệt Nam đã được khẳng định tại Đại hội Đảng VIII và trong Nghị quyết 01 NQ/TƯ của Bộ chính trị, với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa hướng về xuất khẩu. Với vị trí là một trong 3 ngành xuất khẩu chủ lực , ngành giầy dép Việt Nam luôn là một trong những ngành được quan tâm hàng đầu trong chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu. Đẩy mạnh xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam là phù hợp với điều kiện nước ta theo xu hướng phát triển chung của khu vực và thế giới.

doc79 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1541 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam sang EU:Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Đẩy mạnh xuất khẩu là chủ trương kinh tế lớn của Đẳng và nhà nướcViệt Nam đã được khẳng định tại Đại hội Đảng VIII và trong Nghị quyết 01 NQ/TƯ của Bộ chính trị, với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa hướng về xuất khẩu. Với vị trí là một trong 3 ngành xuất khẩu chủ lực , ngành giầy dép Việt Nam luôn là một trong những ngành được quan tâm hàng đầu trong chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu. Đẩy mạnh xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam là phù hợp với điều kiện nước ta theo xu hướng phát triển chung của khu vực và thế giới. Trong hệ thống các thị trường xuất khẩu của hàng giầy dép Việt Nam, thị trường Eu hiện đang là thị trường đầy hứa hẹn. EU là thị trường lớn với 15 quốc gia thành viên, thị trường EU có tốc độ tăng trưởng cao và khá ổn định. Kể từ sau khi Nhà nước có chính sách mở của đến nay, hàng giầy dép Việt Nam đã có mặt ở hầu hết các nước trong liên minh EU. Đẩy mạnh xuất khẩu hàng giầy dép sang EU, Việt Nam không chỉ có được sự tăng trưởng ổn định về ngoại thương mà còn thực hiện chiến lược đa dạng hoá thị trường xuất khẩu. Vì vậy, xuất khẩu g\hàng giầy dép sang EU luôn là một trong những vấn đề quan tâm của Đảng và nhà nước ta. Nhận thức được vấn đề cso ý nghĩa trên đây và với mong muốn nghiên cứu tìm hiểu sâu về thị trường EU và hoạt động xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam, em đã chọn đề tài: “Xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam sang EU:Thực trạng và giải pháp” để viết chuyên đề tốt nghiệp này. Nội dung của chuyên đề gồm 3 phần: Chương I: Lý luận chung về xuất khẩu và sự cần thiết phải tăng cường khả năng xuất khẩu. Chương II: Thực trạng xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam vào thị trường EU. Chương III: Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam vào thị trường EU. Em xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Thị Hường và Th.S Tạ Lợi đã tận tình hướng dẫn, trực tiếp giúp đỡ em thực hiện chuyên đề này. Đồng thời, xin chân thành cảm ơn các cô chú trong ban Kinh tế thế giới-Viện Chiến lược &Phát triển-Bộ Kế hoạch &Đầu tư đã nhiệt tình giúp đỡ em thong quá trình thực hiện chuyên đề này và trong suốt quá trình thực tập tại Viện. Chương I: Lý luận chung về xuất khẩu và sự cần thiết phải tăng cường khả năng xuất khẩu giày dép I Khái niệm và các hình thức xuất khẩu chủ yếu. Khái niệm. Xuất khẩu là một hoạt động cơ bản của ngoại thương, là một vấn đề hết sức quan trọng của kinh doanh quốc tế, là sự phát triển tất yếu của sản xuất và lưu thông nhằm tạo ra hiệu quả kinh tế cao nhất trong mỗi nền kinh tế. Hoạt động xuất khẩu hiện nay diễn ra trên phạm vi toàn cầu, trong đó tất cả các lĩnh vực, các ngành của nền kinh tế, từ vật phẩm tiêu dùng đến tư liệu sản xuất, từ các chi tiết linh kiện rất nhỏ bé đến các loại máy móc khổng lồ, các loại công nghệ kỹ thuật cao, không chỉ có hàng hoá hữu hình mà cả hàng hoá vô hình và với tỷ trọng ngày càng cao. Như vậy, thông qua hoạt động xuất khẩu có thể làm gia tăng ngoại tệ thu được, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu ngân sách cho nhà nước, kính thích đổi mới công nghệ, cải biến cơ cấu kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm và nâng cao mức sống người dân. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu. Với mục tiêu là đa dạng hoá các hình thức xuấta khẩu nhằm phân tán và chia sẽ rủi ro, các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế có thể chọn lựa nhiều hình thức xuất khẩu khác nhau. Sau đây là một số hình thức xuất khẩu chủ yếu: Xuất khẩu trực tiếp. Xuất khẩu trực tiếp là việc xuất khẩu các loại hàng hoá và dịch vụ do chính doanh nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước tới khách hàng nước ngoài thông qua các tổ chức của mình. Về nguyên tắc, xuất khẩu trực tiếp có thể làm tăng thêm rủi ro trong kinh doanh, song lại có những ưu điểm nổi bật sau: Giảm bớt chi phí trung gian do đó tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Có thể liên hệ trưc tiếp và đều đặn với khách hàng và với thị trường nước ngoài, biết được nhu cầu của khách hàng và tìhn hình bán hàng ở đó để có thể thay đổi sản phẩm và các điều kiện bán hàng trong điều kiện cần thiết. Xuất khẩu uỷ thác. Xuất khẩu uỷ thác là hình thức kinh doanh quốc tế trong đó đơn vị kinh doanh quốc tế đóng vai trò là người trung gian thay mặt cho đơn vị sản xuất tiến hành các thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng hoá cho các nhà sản xuất và qua đó thu được một số tiền nhất định ( thường là tỷ lệ phần trăm giá trị lô hàng xuât khẩu). Ưu điểm của hình tưc này là: Mức độ rủi ro thấp. Khong cần bỏ vốn vào trong kinh doanh. Tạo được việc làm cho người lao động đồng thời thu được một khoản lợi nhuận đáng kể. Trách nhiệm trong việc tranh chấp và khiếu nại thuộc về người sản xuất. Xuất khẩu tại chỗ. Xuất khẩu tại chỗ là hình thức xuất khẩu mới nhưng đang được phát triển và có xu hướng phổ biến rộng rãi. Ưu điểm của hình thức này là: Hàng hoá không cần phải vượt biên giới quốc gia mà khách hàng vẫn có thể mua được. Doanh gnhiệp không cần phải tiến hành làm các thủ tục xuất khẩu như làm thủ tục hải quan, mua bảo hiểm hàng hoá, thuê phương tiện vận tỉa… do đó có thể giảm được một lượng chi phí khá lớn. Xuất khẩu gia công uỷ thác. Xuất khẩu gia công uỷ thác là hình thưc xuất khẩu mà trong đó đơn vị kinh doanh quốc tế đứng ra nhận nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm cho xí nghiệp gia công, sau đó thu hồi thanhg phẩm để xuất lại cho bên nước ngoài. Đơn vị được hưởng phí uỷ thác theo thoả thuận với các xí nghiệp sản xuất. Ưu điểm của hình thức này là: Doanh nghiệp không cần bỏ vốn mà vẫn thu được lợi nhuận. Rủi ro ít hơn. Tuy nhiên hình thức này cũng có nhược điểm: Phải tiến hành nhiều công việc, nhiều thủ tục xuất nhập. Cán bộ kinh doanh phải có nghiệp vụ và kinh nghiệm kể cả trong quá trình giám sát và kiểm tra công việc gia công. Buôn bán đối lưu. Buôn bán đối lưu là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua và lượng hàng hoá mang ra trao đổi có giá trị tương đương. Mục đích xuất khẩu ở đây không phải thu về một khoản ngoại tệ mà nhằm mục đích có được một lượng hàng hoá có giá trị tương đương với giá trị của lô hàng xuất khẩu. Hình thức xuất khẩu này có ưu điểm: Tránh được những rủi ro về sự biến động của tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối. Có lợi khi các bên không có đủ ngoại tệ để thanh toán cho lô hàng nhập khẩu của mình. Làm cân bằng hạng mục thường xuyên trong cán cân thanh toán ở một quốc gia. Xuất khẩu theo nghị định thư( xuất khẩu trả nợ). Xuất khẩu theo nghị định thư là hình thức mà doanh nghiệp xuất khẩu theo chỉ tiêu nhà nước giao, tiến hành xuất khẩu một hay một số mặt hàng nhất định cho chính phủ nước ngoài trên cơ sở nghị định thư đã ký giữa hai chính phủ. Ưu điểm của hình thức xuất khẩu này là: Không có sự rủi ro trong thanh toán. Cho phép các doanh nghiệp tiết kiệm được các khoản chi phí trong công việc nghiên cứu thị trường, tìm kiếm bạn hàng. Trên thực tế, hình thức xuất khẩu này xuất hiện rất ít, thường trong một số nước xãa hội chủ nghĩa trước đây và trong một số doanh nghiệp nhà nước. Gia công quốc tế. Gia công quốc tế là hình thức kinh doanh trong đó một bên ( gọi là bên nhận gia công ) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên ( bên đặt gia công) để chế biến ra thành phẩm, giao lại cho bên đặt gia công và qua đó thu được một số tiền nhất định ( gọi là phí gia công). Ưu điểm của hình thức xuất khẩu này là: Tạo việc làm và thu nhập cho người lao động. Có điều kiện cải tiến và đổi mới máy móc thiết bị, kỹ thuật công nghệ nhằm nâng cao năng suất lao động. Giá lao động và nguyên liệu tương đối rẻ. Hình thức này áp dụng chủ yếu trong những ngành sản xuất sử dụng nhiều lao động và nguyên vật liệu như dệt may, da giầy… Tái xuất khẩu Tái xuất khẩu là hình thức xuất khẩu những hàng hoá mà trước đây đã nhập khẩu và chưa tiến hành hoạt động chế biến. Ưu điểm của hình thức này là: Doanh nghiệp có thể thu được lợi nhuận cao mà không phải tổ chức sản xuất, đầu tư vào nhà xưởng, máy móc thiết bị… Khả năng thu hồi vốn cũng nhanh hơn. Chủ thể tham gia vào hoạt động này nhất thiết phải có sự tham gia của ba quốc gia: nước xuất khẩu, nước nhập khẩu và nước tái xuất khẩu. II Nội dung của hoạt động xuất khẩu. Hoạt động trên thị trường quốc tế, tất cả các doanh nghiệp dù đã có kinh nghiệm hay mới chỉ bắt đầu tham gia vào kinh doanh đều phải tuân theo một cách nghiêm túc các công đoạn của thương vụ làm ăn thì mới có khả năng tồn tại lâu dài được. Công tác tổ chức xuất khẩu tương đối phức tạp, có thể thay đổi theo mỗi loại hình xuất khẩu. Song tựu chung lại, cần phải tuân theo một trình tự gồm các công đoạn sau: Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu. Đây là một trong những nội dung cơ bản ban đầu, nhưng quan trọng và cần thiết để có thể tiến hành được hoạt động xuất khẩu. Khi doanh nghiệp có ý định tham gia vào thị trường quốc tế thì doanh nghiệp cần xác định mặt hàng mình định kinh doanh. Trên thực tế doanh nghiệp có thể lựa chọn xuất khẩu những mặt hàng sau: SWYG ( Sell What You Got ) doanh nghiệp xuất khẩu những sản phẩm mà mình sản xuất. SWAB ( Sell What Actually Buy): doanh nghiệp xuất khẩu những sản phẩm mà thị trường cần. GLOB ( Sell Things Globaly Disregarding National Frontiers): doanh nghiệp xuất khẩu những mặt hàng giốn nhau ra thị trường thế giới, không phân biệt sự khác nhau về văn hoá xã hội, ngôn ngữ, phong tục tập quán…và biên giới quốc gia. Ngày nay, xu hướng xuất khẩu những sản phẩm mà thị trường cần và xuất khẩu những mặt hàng giống nhau ra tất cả các thị trường là phổ biến. Còn xuất khẩu những sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất chỉ bó hẹp trong một số lĩnh vực như: sản phẩm kỹ thuật cao, thiết bị toàn bộ… Để lựa chọn được đúng mặt hàng mà thị trường cần đòi hỏi doanh nghiệp phải có một quá trình nghiên cứu tỷ mỷ, phân tích một cách có hệ thống về nhu cầu thị trường cũng như khả năng của doanh nghiệp. Đồng thời doanh nghiệp cần dự đoán xu hướng biến động của thị trường cũng như những cơ hội và thách thức mà mình cần gặp phải trên thị trường thế giới. Hoạt động này không những đòi hỏi phải có một thời gian dài mà còn tốn nhiều chi phí, song bù lại doanh nghiệp lại xâm nhập được vào những đoạn thị trường tiềm năng và có khả năng tăng doanh số bán và lợi nhuận kinh doanh. Lựa chọn thị trường xuất khẩu. Sau khi đã lựa chọn được mặt hàng xuất khẩu doanh nghiệp cũng cần phải tiến hành lựa chọn thị trường xuất khẩu mặt hàng đó. Trong nhiều trường hợp doanh nghiệp không thể hoạt động trên nhiều thị trương của một quốc gia nào đó mà chỉ có thể hoạt động trên một đoạn hoặc một số đoạn thị trường trên cơ sở các tiêu thức dùng để phân đoạn thị trường. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp có thể hoạt động trên phạm vi quốc gia, khu vực hoạt toàn cầu. Việc lựa chọn thị trường đòi hỏi doanh nghiệp phải phân tích, tổng hợp nhiều nhân tố bao gồm cả nhân tố vi mô, nhân tố vĩ mô và khả năng cạnh tranh của doan nghiệp. Thông thường đó là nhân tố thuộc về văn hoá xã hội, pháp luật, kinh tế, khoa học công nghệ, đồng tiền thanh toán, cạnh tranh, hàng rào thương mại và các nhân tố thuộc môi trường tìa chính. Đây cũng là một quá trònh đòi hỏi rất nhiều thời gian và chi phí. Lựa chọn đối tác giao dịch. Sau khi lựa chọn được mặt hàng và thị trường giao dịch, doanh nghiệp muốn xâm nhập vào những đoạn hoặc thị trường đó, doanh nghiệp cần phải lựa chọn những đối tác đang hoạt động trên thị trường đó để thực hiện các kế hoạch kinh doanh của mình. Việc lựa chọn đúng đối tượng giao dịch sẽ tránh cho doanh nghiệp nhiều phiền toái, những mất mát, rủi ro mà doanh nghiệp gặp phải trên thị trường quốc tế., đồng thời có điều kiện thực hiện thành công các kế hoạch kinh doanh của mình. Các tốt nhất là doanh nghiệp các đối tác có đặc điểm sau: Thương nhân quen biết hay đã từng có quan hệ giao dịch với doanh nghiệp của ta, có uy tín trong kinh doanh. Thương nhân có khả năng , thực lực về tài chính. Có thiện chí trong quan hệ buôn bán với ta, không biểu hiện hành vi lừa đảo. Những người chịu trách nhiệm đại diện trong kinh doanh và có phạm vi trách nhiệm của họ đối với các nghĩa vụ của công ty hoặc các tổ chức. Trong quá trình lựa chọn đối tác giao dịch, doanh nghiệp có thể thông qua thương vụ của Việt Nam ở nước đó, văn phòng đại diện của Cục xúc tiến thương mại Việt Nam (nếu có), các bạn hàng đã có quan hệ kinh doanh với doanh nghiệp trước đó, các tin tức mà mình thu thập và điều tra được, các phòng thương mại và công nghiệp, các ngân hàng, các tổ chức tài chính để hỗ trợ và trợ giúp. Lựa chọn phương thức giao dịch. Phương thưc giao dịch là những cách thức mà doanh nghiệp sử dụng để thực hiện các kế hoạch và mục tiêu kinh doanh của mình trên thị trường thế giới. Những cách thức này quy định thủ tục tiến hành, các điều kiện giao dịch, các thao tác và chứng từ cần thiết của quan hệ giao dịch kinh doanh. Có rất nhiều phương thức giao dịch khác nhau như: giao dịch thông thường, giao dịch qua khâu trung gian, giao dịch tại hội chợ triển lãm, giao dịch tại sở giao dịch hàng hoá, dấu gia và đấu thầu quốc tế. Tuy nhiên phổ biến nhất và được sử dụng rộng rãi nhất vẫn là phương thức thông thường. Giao dịch thông thường là một trong những phương thức giao dịch mà ở đó người bán ( hoặc người mua ) bàn bạc, thoả thuận trực tiếp hoặc gián tiếp với người mau (hoặc người bán) về hàng hoá và các điều kiện giao dịch… Phương thức giao dịch này cho phép hai bên bàn bạc trực tiếp hoạc gián tiếp với nhau, do đó dễ dàng đi đến thống nhất và ít xảy ra chuyện hiểu lầm nhau, do đó dễ dàng đi đến thống nhất và ít xảy ra chuyện hiểu lầm nhau. Xét về mặt hiệu quả thì giảm được chi phí trung gian, làm tăng thêm lợi nhuận cho doanh nghiệp. Thêm vào đó, hình thức này còn tạo điều kiện cho cả người mua lẫn người bán chủ động trong việc sản xuất kinh doanh. Nói chung với những loại hàng hoá khác nhau, tuỳ thuộc vào đặc điểm của thị trường và khả năng của doanh nghiệp, doanh nghiệp có thể lựa chọn phương thức giao dịch phù hợp. Đàm phán, ký kết hợp đồng xuất khẩu. Đàm phán, ký kết hợp đồng xuất khẩu là một trong những khâu quan trọng của hạot động xuất khẩu. Nó quyết định khả năng thực hiện những công đoạn mà doanh nghiệp đã tiến hành trước đó, đồng thời nó quyết định đến tính khả thi của các kế hoạch của doanh nghiệp. Việc đàm phán phải căn cứ vào nhu cầu sản phẩm trên thị trường, đối thủ cạnh tranh, khả năng, điều kiện và mục tiêu kinh doanh cung như mối quan hệ của doanh nghiệp với các đối tác khác. kết quả của đàm phán sẽ là hợp đồng được ký kết. Mọi cam kết trong hợp đồng sẽ là căn cứ pháp lý quan trọng, vững chắc và đáng tin cậy để các bên thực hiện cam kết của mình. Đàm phán có thể thực hiện thông qua thư tín, điện tín và đàm phán trực tiếp. Tiếp sau công việc đàm phán các bên tiến hành ký kết các hợp đồng mua bán hàng hoá. Hợp đồng mau bán hàng hoá là một văn bản có tính chất pháp lý được tiến hành trên cơ sở thoả thuận một cách bình đẳng, tự nguyện giữa các chủ thể nhằm xác lập, thực hiện và chấm dứt mối quan hệ trao đổi hàng hoá. Hàng hoá là đối tượng của hợp đồng, là sản phẩm của quá trình lao động, được sản xuất ra nhằmn mục đích mua bán, trao đổi nhằm thoả mãn nhu cầu của xã hội: Thông qua trao đổi và mua sản phẩm của lao động đã nối kết sản xuất và tiêu dùng bằng khâu phân phối, lưu thông mà nội dung pháp lý của nó chính là hợp đồng mua bán hàng hoá. Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế (còn gọi là hợp đồng xuất nhập khẩu) là loại hợp đồng mau bán đặc biệt trong đó quy định người bán có nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu cho người mua, người mua có nghĩa vụ trả cho người bán một số tiền ngang với giá trị hàng hoá bằng các phương thức thanh toán quốc tế. Khác với hợp đồng mua bán nội địa, hợp đồng xuất khẩu phải được hình thành giữa các doanh nghiệp có trụ sở kinh doanh ở các quốc gia khác nhau, hàng hoá phải được dịch chuyển qua biên giới quốc gia và đồng tiền thanh toán phải là ngoài tệ đối với ít nhất một bên. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu, giao hàng và thanh toán tiền. Sau khi ký kết hợp đồng,, các bên sẽ thực hiện các điều kiện mà mình cam kếy trong hợp đồng. Sau đây là trình tự những công việc chung nhất cần tiến hành để thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Tuy nhiên, trong thực tế tuỳ theo thoả thuận của các bên trong hợp đồng mà người xuất khẩu có thể bỏ qua một hoặc vài công đoạn. Dục mở và kiểm tra thư tín dụng. Trong hoạt động buốn bán quốc tế ngày nay, việc sử dụng thư tín dụng (L/C) phổ biến hơn cả do những lợi ích mà nó mang lại. Sau khi nhà nhập khẩu mở thư tín dụng, nhà sk phải kiểm tra cẩn thận , tỉ mỉ và chi tiết các điều kiện trong L/C xem có phù hợp với các điều kiện trong hợp đồng hay không. Nếu không phù hợp hoặc có sai sót thì cần boá ngay cho nhà nhập khẩu biết để sửa chữa kịp thời. Bởi vì khi người mua (nhà nhập khẩu) đã mở L/C thì lúc này L/C trở thanhhf trái vụ độc lập và các bên sẽ thực hiện các điều kiện trong L/C chứ không căn cứ vào hợp đồng nữa. Xin giấy phép xuất khẩu. Trong một sô trường hợp, mặt hàng xuất khẩu thuộc danh mục mặt hàng nhà nước quản lý, doanh nghiệp phải tiến hành xin giấy phép xuất khẩu. Việc cấp giấy phép xuất khẩu do phòng cấp giấy phép xuất khẩu của Bộ thương mại đảm nhiệm Chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu. Đối với các doanh nghiệp sản xuất và nhập khẩu trực tiếp việc chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu là tương đối đơn giản. sau khi đã tiến hành sản xuất ra sản phẩm, doanh nghiệp chỉ cần lựa chọn, đóng gói, kẻ ký mã hiệu và vận chuyển tới nới quy định. Đối với các doanh nghiệp chuyên kinh doanh xuất khẩu thì các công việc cần tiến hành trong công tác chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu là: Thu gom hàng xuất khẩu: để thực hiện công việc này, doanh nghiệp xuất khẩu cần phải ký hợp đồng với các nhà sk trong nước, các hợp đồng có thể là: + Hợp đồng mua đứt bán đoạn. + Hợp đồng đổi hàng. + Hợp đồng đại lý thu mua. + Hợp đồng nhận uỷ thác xuất khẩu. + Hợp đồng liên doanh, liên kết xuất khẩu. Đóng gói hàng xuất khẩu: hàng hoá có thể được đóng gói trong hòm, thngf bao, chai, lọ… xép vào các containers. Kẻ ký mã hiệu. Kiểm định hàng hoá. Trước khi xuất khẩu, các nhà xuất khẩu phải có nghĩa vụ kiểm tra số lượng, phẩm chất, trọng lượng của hàng hoá. Nếu hàng hoá là động thực vật cần kiểm tra mức độ vệ sinh an toàn thực phẩm và mức độ gây bệnh. Thuê phương tiện vận chuyển. Doanh nghiệp xuất khẩu có thể tự thuê phương tiện vận chuyển hoặc uỷ thác cho một công ty uỷ thác thuê tàu. Việc lựa chọn thuê phương tiện vận chuyển nà, phương tiện vận chuyển ra sao căn cứ vào ba nhân tố sau đây: Những điều kiện của hợp dồng xuất khẩu. Đặc điểm của hàng hoá Điều kiện vận chuyển Cơ sở pháp lý điều tiết môit qua hệ giữa bên uỷ thác thuê tàu và bên nhận uỷ thác thuê tàu là hợp đồng uỷ thác thuê tàu. có hai loại hợp đồng uỷ thác thuê tàu là hợp đồng uỷ thác thuê tàu cả năm và hợp đồng uỷ thác thuê tàu chuyến. Nhà xuất khẩu căn cứ vào đặc điểm của hàng hoá để lựa chọn hợp đồng thuê tàu cho thích hợp. Mua bảo hiểm cho hàng hoá. Hàng hoá trong buôn bán quốc tế thường được chuyên chở chủ yếu bằng đường biển. Tuy vậy, vận chuyển bằng đường biển cũng gây cho doanh nghiệp không ít rủi ro nên phải mua bảo hiểm cho hàng hoá. Việc mua bảo hiểm hàng hoá được thực hiện thông qua hợp đồng boả hiểm. Hợp đồng bảo hiểm hàng hoá chuyên chở bằng đường biển là một văn bản trong đó nhà bảo hiểm cam kết sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm các tổn thất theo các điều kiện bảo hiểm được ký kế, nếu người được bảo hiểm dã đóng phí bảo hiểm. Có hai loại hợp đồng bảo hiểm: hợp đồng bảo hiểm bao và hợp đồng bảo hiểm chuyến. Hợp đồng bảo hiểm bao : là hợp đồng bảo hiểm nhiều chuyến hàng trogn mọt khoản thời gia nhất định, thưòng là một năm hoặc đối với một giá trị bảo hiểm nhất định, không kể đến thời gian. Hợp đồng bảo hiểm chuyến: là hợp đồng bảo hiểm được ký kết cho từng chuyến hàng chuyên chở từ địa điểm này đến địa điểm khác ghi trong hợp đồng bảo hiểm. Có ba loại điều kiện bảo hiểm chính là điều kiện bảo hiểm A, điều kiện bảo hiểm B, điều kiện bảo hiểm C, ngoài ra có bảo hiểm chiến tranh và bảo hiểm đình công. Làm thủ tục hải quan. Hàng hoá khi vượt qua biên giới quốc gia để xuất khẩu đều phải làm thủ tục hải quan. Việc là thủ tục hải quan bảo gồm ba bước sau dây: Khai b
Tài liệu liên quan