Đồ án Hiện tượng chính trị thế giới nổi bật trong thời kỳ sau chiến tranh Lạnh

Những năm đầu thế kỷ 21 đánh dấu một thời kỳ phát triển mạnh mẽ của lực lượng cánh tả trên thế giới đặc biệt là ở Mỹ Latinh. Sự ra đời của hàng loạt chính phủ cánh tả tại nhiều nước trong khu vực cùng với những hoạt động cải cách liên tiếp theo xu hướng dân chủ xã hội đã phản ánh một xu thế tiến bộ mới của thời đại. Thực tế này đã trở thành một hiện tượng chính trị thế giới nổi bật trong thời kỳ sau chiến tranh Lạnh, do đó đang giành được sự quan tâm theo dõi của dư luận quốc tế. Nổi bật trong rất nhiều gương mặt của phong trào sôi nổi đó là Tổng thống Venezuela Hugo Chavez. Ông được coi là lá cờ đầu trong phong trào cánh tả ở Mỹ Latinh. Những hoạt động cải cách thiên tả do ông khởi xướng cho đến nay đã nhận được nhiều ý kiến đánh giá nhận xét khác nhau từ báo giới và các nhà nghiên cứu. Trong phạm vi một bài nghiên cứu khoa học, tác giả chỉ tập trung tìm hiểu nghiên cứu về chương trình cải cách ở Venezuela dưới thời tổng thống Chavez trong khoảng thời gian từ khi ông lên nắm quyền năm 1999 đến nay. Bài viết gồm có 3 phần chính. Phần 1 tìm hiểu bối cảnh trong nước và quốc tế để thấy được nguyên nhân thúc đẩy quá trình cải cách. Phần 2 - phần chính đề cập đến những hoạt động cải cách đã và đang diễn ra trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị , xã hội. Và từ những tác động thực tiễn của cuộc cải cách ở Venezuela trong thời gian qua phần 3 đưa ra một số nhận xét cùng với những đánh giá về triển vọng của hoạt động cải cách trong thời gian sắp tới. Với những nội dung này mục tiêu của bài nghiên cứu là tìm hiểu kỹ hơn về con đường phát triển mới, một mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh phong trào cộng sản và phong trào công dân đang từng bước phục hồi sau cuộc khủng hoảng sâu sắc từ cuối thập kỷ 1980 của thế kỷ XX. Kinh nghiệm của cuộc cải cách ở Venezuela hiện nay sẽ mang lại những kinh nghiệm thực tiễn có giá trị cho các nước đang phát triển giúp các nước tìm được hướng đi phù hợp với tình hình trong nước và xu thế mới của thời đại.

doc27 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1514 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Hiện tượng chính trị thế giới nổi bật trong thời kỳ sau chiến tranh Lạnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Những năm đầu thế kỷ 21 đánh dấu một thời kỳ phát triển mạnh mẽ của lực lượng cánh tả trên thế giới đặc biệt là ở Mỹ Latinh. Sự ra đời của hàng loạt chính phủ cánh tả tại nhiều nước trong khu vực cùng với những hoạt động cải cách liên tiếp theo xu hướng dân chủ xã hội đã phản ánh một xu thế tiến bộ mới của thời đại. Thực tế này đã trở thành một hiện tượng chính trị thế giới nổi bật trong thời kỳ sau chiến tranh Lạnh, do đó đang giành được sự quan tâm theo dõi của dư luận quốc tế. Nổi bật trong rất nhiều gương mặt của phong trào sôi nổi đó là Tổng thống Venezuela Hugo Chavez. Ông được coi là lá cờ đầu trong phong trào cánh tả ở Mỹ Latinh. Những hoạt động cải cách thiên tả do ông khởi xướng cho đến nay đã nhận được nhiều ý kiến đánh giá nhận xét khác nhau từ báo giới và các nhà nghiên cứu. Trong phạm vi một bài nghiên cứu khoa học, tác giả chỉ tập trung tìm hiểu nghiên cứu về chương trình cải cách ở Venezuela dưới thời tổng thống Chavez trong khoảng thời gian từ khi ông lên nắm quyền năm 1999 đến nay. Bài viết gồm có 3 phần chính. Phần 1 tìm hiểu bối cảnh trong nước và quốc tế để thấy được nguyên nhân thúc đẩy quá trình cải cách. Phần 2 - phần chính đề cập đến những hoạt động cải cách đã và đang diễn ra trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị , xã hội. Và từ những tác động thực tiễn của cuộc cải cách ở Venezuela trong thời gian qua phần 3 đưa ra một số nhận xét cùng với những đánh giá về triển vọng của hoạt động cải cách trong thời gian sắp tới. Với những nội dung này mục tiêu của bài nghiên cứu là tìm hiểu kỹ hơn về con đường phát triển mới, một mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh phong trào cộng sản và phong trào công dân đang từng bước phục hồi sau cuộc khủng hoảng sâu sắc từ cuối thập kỷ 1980 của thế kỷ XX. Kinh nghiệm của cuộc cải cách ở Venezuela hiện nay sẽ mang lại những kinh nghiệm thực tiễn có giá trị cho các nước đang phát triển giúp các nước tìm được hướng đi phù hợp với tình hình trong nước và xu thế mới của thời đại. Venezuela là nước cộng hòa Nam Mỹ - một quốc gia giàu tài nguyên, khoáng sản, đứng thứ 5 trên thế giới về xuất khẩu dầu mỏ. Cũng như các nước khác trong khu vực Venezuela có lịch sử phát triển đầy thăng trầm: đã từng là thuộc địa của Tây Ban Nha trong nhiều năm, là một trong những nước được coi là “sân sau” của Mỹ, đã phải trải qua hàng chục năm chế độ độc tài tàn bạo. Những năm cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ XXI lịch sử Venezuela nói riêng và khu vực Mỹ Latinh nói chung đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ. Ở Venezuela kể từ khi lên cầm quyền vào 2/1999 Tổng thống Hugo Chavez đã tiến hành hàng loạt những cải cách tiến bộ đem lại những thay đổi lớn lao trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội ở quốc gia Nam Mỹ này. I. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CUỘC CẢI CÁCH 1. Tình hình trong nước Trước khi Tổng thống Hugo Chavez lên nắm quyền, đất nước Venezuela vẫn trong thời kì dân chủ Panto Fijo kéo dài từ những năm đầu thập niên 1960 đến tận năm 1999. Bảy chính phủ thời kì này đã thất bại trong điều hành đất nước đẩy Venezuela vào tình trạng bất ổn về chính trị, tham nhũng và đói nghèo. Tình trạng vi phạm nhân quyền, bất bình đẳng xã hội diễn ra phổ biến; tham nhũng cửa quyền đã đến mức nghiêm trọng khiến người dân mất tin tưởng vào chính quyền, vào chế độ dân chủ hiện tại. Trước khi lực lượng cánh tả lên cầm quyền một nghịch lí tồn tại là đất nước có tới 30 triệu hecta đất chưa canh tác nhưng 70% lương thực thực phẩm lại phải nhập từ nước ngoài, 80% đất đai được canh tác chỉ nằm trong tay của 5% dân số là các đại điền chủ. Kinh tế đất nước phát triển không ổn định, đời sống người dân khó khăn. Đến năm 1999 hơn 80% dân số Venezuela sống trong cảnh nghèo đói, hệ thống an sinh xã hội bị phá sản, nhiều trẻ em bị bỏ rơi phải sống trong những đường cống ngầm. Lạm phát lên tới 20%, thất nghiệp 14%. Chênh lệch giàu nghèo ngày càng tăng. Tình hình này đã phản ánh sự bất lực của chính phủ hiện tại, đòi hỏi phải có một cuộc cách mạng thực sự đưa đất nước thoát khỏi tình trạng trì trệ trên. Tiến hành cuộc cải cách là bước đi mang tính tất yếu xuất phát từ tình hình thực tế của Venezuela trong những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI. Hơn nữa thay đổi tình trạng bất công bằng trong xã hội hiện tại, xây dựng một xã hội dân chủ ấm no, quyền con người được tôn trọng luôn là ước mơ ngàn đời của người dân nghèo Venezuela. Họ ủng hộ ông Chavez - vị Tổng thống vốn xuất thân từ tầng lớp bình dân và đã từng sinh sống trong những khu phố nghèo vì ông đã cam kết đem lại một tương lai mới cho họ. Họ coi ông là niềm hi vọng cuối cùng giúp họ thoát khỏi cảnh nghèo khổ, ngu dốt và nhục nhã. Và khi lên nắm quyền nhà chính trị yêu nước này đã không làm thất vọng các cử tri của mình. Cải cách là sự lựa chọn hợp lý nhất để đưa Venezuela thoát khỏi tình hình hiện tại. 2. Tình hình khu vực Sau cuộc khủng hoảng nợ trầm trọng vào thập niên 1980 – “ thập niên mất mát” về kinh tế đối với các nước Mỹ Latinh, nhiều quốc gia đã chuyển từ mô hình phát triển hướng nội khuyến khích sản xuất thay xuất khẩu sang mô hình kinh tế thị trường tự do mới vào cuối những năm 1980 đầu 1990. Tuy nhiên mô hình phát triển mới này chỉ có tác dụng khuyến khích nhất thời. Cuộc khủng hoảng tài chính Mehico (1994) và cuộc khủng hoảng tài chính và tiền tệ Châu Á (1997) cho thấy những bất cập của mô hình chủ nghĩa tự do cũng như những sai lầm trong phát triển của các quốc gia Mỹ Latinh. 10 năm cuối thế kỉ XX kinh tế khu vực phát triển thiếu ổn định, những năm cuối bắt đầu suy thoái. Nợ nước ngoài của khu vực thời kì 1990 – 2001 tăng 74%, năm 2002 tổng nợ của khu vực là 760 tỷ đôla. Số người nghèo tăng vọt lên từ 120 triệu người năm 1980 lên 220 triệu người năm 1990 và 272 triệu người trên tổng số dân là 510 năm 2002.Tỷ lệ thất nghiệp toàn khu vực tăng cao. Theo CEPAL (Ủy ban kinh tế Mỹ Latinh và vùng Caribe) trong nửa thập kỉ qua GDP/ người của khu vực giảm 2% và cho rằng khu vực này đã bị “kéo giật lùi một nửa thế kỉ”. Kinh tế khủng hoảng, nhiều vấn đề xã hội này sinh. Mỹ Latinh sa lầy trong lạc hậu, đói nghèo và trở thành một trong những khu vực có tình trạng bất bình đẳng xã hội và vi phạm nhân quyền nhiều nhất thế giới. Tình trạng ảm đạm về kinh tế và sự nổi lên của nhiều vấn nạn xã hội những năm cuối thế kỷ có thể xem như một hồi chuông cảnh báo về những điểm yếu của khu vực. Cuộc khủng hoảng kinh tế vừa qua đã chứng tỏ sự sụp đổ của mô hình kinh tế thị trường tự do được áp dụng không hợp lý trong nhiều năm qua ở Mỹ Latinh. Sự áp đặt chủ nghĩa tự do mới đã làm các nước Mỹ Latinh phụ thuộc ngày càng chặt chẽ vào tư bản độc quyền nhất là tư bản Mỹ khiến lợi ích quốc gia và nền độc lập dân tộc bị phương hại nghiêm trọng. Do vậy trong thời kỳ này ở Mỹ Latinh đồng thời với sự thức tỉnh ý thức dân tộc, các phong trào đấu tranh của tầng lớp nhân dân lao đồng vì mục tiêu dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Kết quả là cuối thập niên 1990 của thế kỷ XX các lực lượng cánh tả khu vực Mỹ Latinh đã liên tiếp giành thắng lợi trong các cuộc tuyển cử, bầu cử tổng thống đưa đến sự ra đời của hàng loạt chính phủ cánh tả ở nhiều nước trong khu vực. Các lực lượng cánh tả trong đó có lực lượng dân tộc cấp tiến đã đẩy mạnh hoạt động cải cách kinh tế xã hội theo xu hướng chuyển từ mô hình chủ nghĩa tự do sang mô hình kinh tế thị trường kết hợp với giải quyết các vấn đề xã hội, chủ động trong chính sách đối ngoại, tách dần khỏi sự ảnh hưởng của Mỹ, bảo vệ độc lập chủ quyền và bình đẳng trong quan hệ quốc tế. Thực tế trên là một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy cuộc cải cách ở Venezuela. Như vậy trước bối cảnh đầy thách thức ở Venezuela và khu vực Mỹ Latinh, cuộc cải cách của Tổng thống Hugo Chavez vừa đáp ứng yêu cầu cấp bách thực tế trong nước vừa phản ánh xu thế tất yếu của thời đại mới trong khu vực. II. NỘI DUNG CẢI CÁCH 1. Khái quát chung Ngay sau khi lên nắm quyền, Tổng thống Hugo Chavez đã bắt tay ngay vào việc khắc phục những hậu quả tiêu cực của chính sách điều chỉnh cơ cấu kinh tế do Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) áp đặt dưới thời tổng thống A. Perez. Chính phủ cánh tả Venezuela tiến hành một loạt cải cách về thể chế, tổ chức trưng cầu dân ý về sửa đổi hiến pháp, bầu quốc hội lập hiến đáp ứng được những đòi hỏi dân chủ của nhân dân lao động, đồng thời thông qua nhiều luật có lợi cho người nghèo, tiến hành nhiều cải cách kinh tế và xã hội tiến bộ như chiến dịch xóa nạn mù chữ, xóa đói giảm nghèo, cải tạo nhà cho người nghèo, xây dựng thêm nhiều trường học, cải thiện dịch vụ y tế.... Cuộc cải cách ở Venezuela bắt đầu từ năm 1999 trong nhiệm kì đầu của Tổng thống Chavez và đang được đẩy mạnh trong hiện tại và tương lai. Tờ Thời báo Tài chính của Anh ngày 10-1-2007, nhận định rằng, tốc độ thực hiện cải cách ở Venezuela diễn ra nhanh tới kinh ngạc. Do thất bại trong điều hành đất nước nên Đảng Hành động Dân Chủ (theo khuynh hướng xã hội dân chủ) và đảng Dân chủ Thiên Chúa giáo (COPEI) vốn thay nhau nắm quyền trong suốt 40 năm ở Venezuela đã bị thất bại trong cuộc bầu cử năm 1998 và bị loại ra khỏi chính trường. Phong Trào Cộng Hòa Thứ 5 mà ông Chavez là một trong những thành viên sáng lập ra đã liên minh với nhiều đảng phái và phong trào lợi ích khác kêu gọi ủng hộ cho ông Chavez trong cuộc bầu cử tổng thống diễn ra vào 12/1998. Kết quả ông đã thắng cử với 57% số phiếu bầu. Có được thắng lợi này là do ông đã đưa ra một chương trình cải cách toàn diện nhằm chống tham nhũng, tình trạng kinh tế trì trệ và bất bình đẳng trong xã hội. Trong chiến dịch tranh cử ông đã phát động cuộc cách mạng mang tên người anh hùng Bolivar- một cuộc cách mạng mang lại công bằng hơn cho tầng lớp dân nghèo. Ông Chavez đã từng tuyên bố: “Cuộc đấu tranh vì sự công bằng, cuộc đấu tranh vì sự bình đẳng và cuộc đấu tranh vì tự do”. Tổng thống Chavez đã nhận được sự ủng hộ to lớn từ nhân dân lao động nhờ đó chính trị gia nảy lửa này đã trụ vững trên chính trường chính trị đầy sóng ở Venezuela trong thời gian qua. Với uy tín cao ông tiếp tục tái đắc cử tổng thống nhiệm kỳ 3 với chiến thắng vang dội trước đối thủ Manuel Rosales- thống đốc bang Zulia, ứng viên đảng Dân chủ xã hội trong cuộc bầu cử tổng thống Venezuela diễn ra 3/12/2006. Trước lực lượng ủng hộ hùng hậu đang tập trung tại trung tâm thủ đô Caracas trong đêm 3/12 bất chấp trời mưa nặng hạt ông Chavez đã tung hô nhân dân Venezuela vạn tuế, “cách mạng Xã hội chủ nghĩa muôn năm”, Bolivar muôn năm, chiến thắng toàn dân muôn năm. Phát biểu trên truyền hình sau lễ tuyên thệ nhận chức tổng thống khẳng định quyết tâm xây đất nước Venezuela theo đường lối xã hội chủ nghĩa với tên gọi mới là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Venezuela thay thế tên gọi chính thức hiện nay Cộng hòa Bolivar Venezuela. Ông Chavez đã công khai nói về nhiệm kỳ thứ 3 như là một giai đoạn mới trong dự án dài hạn của ông đối với quốc gia Mỹ La Tinh này: “Một kỉ nguyên mới bắt đầu. Chúng ta thể hiện rằng Venezuela là phe đỏ, Chủ nghĩa xã hội là nhân văn, là tình yêu. Chúng ta cần một thế giới mới” Ông cũng nêu quyết tâm của chính phủ mới trong việc quốc hữu hóa các ngành then chốt của nền kinh tế. Tổng thống Chavez muốn biến Venezuela từ xã hội tư bản thành xã hội xã hội chủ nghĩa. Kế hoạch chiến lược đã được chính phủ soạn thảo và được đặt tên là “Kế hoạch quốc gia Simon Bolivar”. Lập trường chính trị xã hội theo hướng xã hội chủ nghĩa còn được thể hiện trong nhiều tuyên bố về đường lối xây dựng kinh tế chính trị xã hội trong hiện tại và tương lai của Tổng thống Chavez và các quan chức trong nội các của ông. Thực tế những cải cách toàn diện trên nhiều lĩnh vực đã và đang diễn ra sôi động ở Venezuela đã cho thấy quyết tâm của Tổng thống Chavez xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thế kỉ XXI. 2. Cải cách chính trị Chính trị là tâm điểm trong chương trình cải cách toàn diện Venezuela của tổng thống Chavez. Tiến hành sửa đổi hiến pháp, thành lập liên minh Đảng mới, tiến hành mạnh mẽ cuộc chiến chống tham nhũng và thực thi chính sách ngoại giao độc lập cứng rắn là những mốc thay đổi chính trên chính trường Venezuela trong thời gian qua. Sau gần một năm cầm quyền Tổng thống Chavez đã đề xuất sửa đổi hiến pháp với mục đích chống tham nhũng, bảo vệ nhân quyền, bảo vệ chân lý và phát triển kinh tế đất nước. Hiến pháp sửa đổi năm 1999 của Cộng hòa Bolivar Venezuela đã được thông qua cuộc trưng cầu dân ý vào 15/12/1999 với 71,8% phiếu thuận. Hiến pháp năm 1999 của Venezuela đã chấm dứt gần 40 năm tồn tại của nền dân chủ Panto Fijo với nhiều thay đổi đáng kể, lập ra một kỉ nguyên mới gọi là “nền Cộng hòa thứ 5”. Hiến pháp mới đã khắc phục nhiều khiếm khuyết tồn tại trong hiến pháp 1961. Theo hiến pháp này hệ thống quyền lực nhà nước chia thành 5 nhánh. Ngoài 3 nhánh quyền lực (lập pháp, hành pháp, tư pháp) còn có thêm 2 nhánh quyền lực nữa là: Hội đồng Đạo Đức Quốc Gia (HĐĐĐQG) thực hiện quyền lực công dân và Hội đồng Bầu cử Quốc Gia thực hiện quyền lựa chọn bộ mày nhà nước của công dân. HĐĐĐQG có các cơ quan hoạt động độc lập có thẩm quyền ngăn chặn tham nhũng; thanh tra và truy cứu các hành vi vi phạm chuẩn mực công dân, quy tắc hành chính; giám sát việc tuân thủ pháp luật của các hoạt động quản lý hành chính nhà nước cũng như tăng cường giáo dục nhằm hoàn thiện giá trị công dân. Ban nhân quyền quốc gia có nhiệm vụ giám sát, bảo vệ nhân quyền; ban kiểm toán quốc gia lập ra để giám sát và kiểm toán tài sản quốc gia. Có thế thấy hoạt động chủ yếu của các cơ quan thuộc HĐĐĐQG – nhánh quyền lực công dân là kiểm soát việc tuân thủ pháp luật của các quan chức nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước và các tổ chức khác sử dụng tài sản của nhà nước. Đây là hệ thống quyền lực được thành lập ra để chống tham nhũng. Một nhánh quyền lực mới khác được lập ra là Hội Đồng Bầu cử Quốc Gia với mục tiêu hướng dẫn, giám sát, điều hành bầu cử và trưng cầu dân ý. Theo hiến pháp 1999 quyền lực tập trung vào tay tổng thống và chính quyền trung ương nhiều hơn. Nhưng có một điều khoản cho phép bất kì vị trí dân cử nào kể cả tổng thống cũng có thể trở thành mục tiêu của cuộc bỏ phiếu tín nhiệm sau 1/2 nhiệm kì. Tổng thống có quyền phủ quyết đối với các đạo luật do quốc hội thông qua nhưng tại lần xem xét lại dự thảo luật bị tổng thống phủ quyết vẫn thông qua với trên 51% phiếu sẽ trở thành luật. Thời hạn mỗi nhiệm kỳ tổng thống cũng được nâng từ 4 năm lên 6 năm. Ngày 31-1 vừa qua, Quốc hội Venezuela đã nhất trí thông qua "đạo luật cách mạng" cho phép Tổng thống quyền điều hành đất nước bằng sắc lệnh liên quan 11 lĩnh vực như: chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng... trong vòng 18 tháng.  Ðây là quyết định  quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho Tổng thống Hugo Chavez triển khai thực hiện các kế hoạch chuyển đổi thể chế Nhà nước, kinh tế, xã hội theo hướng CNXH. Song song với việc thông qua luật đặc biệt trên Quốc hội Venezuela sẽ thảo luận cải cách Hiến pháp cho phù hợp mô hình chính trị, kinh tế, xã hội của nước này trong thời gian tới. Trước đó, nhằm  giúp người dân nghiên cứu, tìm hiểu về CNXH, Venezuela đã  thành lập các "Trung tâm thông tin về CNXH"  ở nhiều nơi và đây là một phần trong kế hoạch cải cách giáo dục gắn với giáo dục tư tưởng CNXH. Venezuela đang xây dựng kế hoạch thiết lập hệ thống dân chủ địa phương kiểu mới - "Hội đồng công xã" nhằm tăng cường vai trò, quyền làm chủ của nhân dân. Hội đồng công xã sẽ quyết định các chính sách phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương mà trước kia do chính quyền đảm nhiệm. Ngoài ra còn có nhiều sự thay đổi lớn về cơ cấu tổ chức của Quốc hội Venezuela. Ðảng Phong trào Cộng hòa thứ năm (MVR)  của Tổng thống đã tuyên bố giải tán và  cùng với hơn 20 đảng khác sẽ tham gia Ðảng XHCN thống nhất Venezuela. Theo Tổng thống Hugo Chavez "Venezuela cần một đảng cầm quyền phục vụ phong trào cách mạng và phục vụ nhân dân, chứ không phải phục vụ các đảng phái chính trị”. Hoạt động ngoại giao của Venezuela dưới thời tổng thống Hugo Chavez có nhiều thay đổi mang tính bước ngoặt so với các thời tổng thống trước. Không muốn tiếp tục bị coi là “sân sau” của Mỹ, Venezuela thi hành chính sách chống Mỹ mạnh mẽ và gay gắt, bảo vệ độc lập chủ quyền và bình đẳng trong quan hệ quốc tế. Tổng thống Chavez đã từng chỉ trích cuộc chiến tranh của Mỹ tại Afghanistan. Lên án Mỹ đã đứng đằng sau hậu thuẫn cho các lực lượng phản đối Tổng thống Chavez tiến hành cuộc đảo chính bất thành nhằm lật đổ ông vào năm 2002. Cảnh báo Mỹ đừng có can thiệp vào công việc nội bộ của Venezuela cũng như các nước trong khu vực nếu không ông sẽ đáp trả lại bằng việc cắt nguồn dầu mỏ đang bán sang Mỹ. Yêu cầu Mỹ không coi khu vực Mỹ Latinh là khu vực “sân sau” lệ thuộc vào Mỹ như trước kia mà đòi bình đẳng độc lập tự chủ trong các mối quan hệ. Lên án chủ nghĩa tự do mới do Mỹ khởi xướng vì cho rằng đó là nguyên nhân chính gây ra sự chênh lệch giàu nghèo và tình trạng bất bình đẳng xã hội ngày càng tăng ở trong nước và khu vực. Ông cũng vạch rõ sự độc quyền truyền thông của phương Bắc đặc biệt Mỹ là một công cụ rõ ràng của sự thống trị, vì thông qua đó những thông tin, những giá trị và mô thức tiêu dùng xa lạ với thực tế của Mỹ La Tinh được phổ biến rộng rãi. Và để chống lại sự độc quyền này Venezuela đã liên kết với các nước trong khu vực lập ra một kênh truyền hình phương Nam là TELEUR trong đó Venezuela đóng cổ phần lớn nhất 31%. Không chỉ có thế ông Chavez đã từng làm bẽ mặt Washington khi từ chối hợp tác với Mỹ trong cuộc chiến chống ma túy tại Colombia. Ông cũng không có ý định nối lại tình hữu nghị với chính quyền hiện tại của Tổng thống Bush. Mặc dù Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã nỗ lực hết sức để nối lại quan hệ sau chiến thắng của ông Chavez trong cuộc bỏ biếu tín nhiệm năm 2003 nhưng ông vẫn lãnh đạm. Ông coi các đề nghị ngoại giao của Washington là “giả dối”. Ông nói: “Thỉnh thoảng họ lại ngỏ ý dàn hòa với chúng ta. Tuy nhiên luôn có sợi dây gắn kèm và chúng ta một quốc gia có chủ quyền không thể chấp nhận các điều kiện đó”. Ông Chavez không muốn là một nhà lãnh đạo ngoan ngoãn phục tùng giới kinh tế và chính trị Hoa Kỳ. Mục tiêu cuối cùng là độc lập hoàn toàn về kinh tế chính trị với Mỹ. Bất chấp sự phản đối của chính quyền Bush, Venezuela vẫn thực hiện kế hoạch hiện đại hoá quân đội bằng việc mua 100.000 súng Kalashinikov và hàng chục trực thăng quân sự của Nga, hay thoả thuận mua 2tỷ USD thiết bị quân sự của Tây Ban Nha. Hơn thế nữa tổng thống Chavez từng bước thiết lập quan hệ với một số nước không ưa Mỹ như Belarus, Iran. Ông Chavez đã liên tục có những chuyến công du tới những quốc gia “lạ lùng” nhất thế giới là Iran, Cuba- những nước bấy lâu nay Washington luôn có thái độ hằn học. Ông cũng bày tỏ thái độ ủng hộ chương trình hạt nhân vì mục đích hòa bình của Iran. Cùng với nhiều nước trong khu vực lên tiếng yêu cầu Mỹ xóa bỏ bao vây cấm vận Cuba. Ông nỗ lực xây dựng một liên minh kiềm chế ảnh hưởng của Mỹ trong đó Venezuela đóng vai trò “đầu tàu” và hai thành viên khác là Bolivar và CuBa. Liên minh này không chỉ xung đột với Mỹ về lập trường chính trị mà còn nhằm ngăn chăn kế hoạch thành lập khu vực mậu dịch tự do toàn châu Mỹ mà chính quyền Washington đang theo đuổi. Liên minh cánh tả giữa Cuba, Venezuela và Bolivia đang được xem là đối trọng của Khu vực tự do thương mại châu Mỹ do Hoa Kỳ đạo diễn. Hội nhập khu vực Mỹ Latinh luôn là vấn đề được ông Chavez coi là mấu chốt trong chính sách ngoại giao của mình. Ngày 4/7/2006 vừa qua, Venezuela đã chính thức trở thành thành viên đầy đủ của khối Thị trường chung Nam Mỹ Mercosur. Là Tổng thống có tư tưởng dân tộc và khu vực ông Chavez luôn tích cực thúc đẩy liên kết khu vực Nam Mỹ, tăng cường hợp tác để chống lại sức ép của Mỹ và tư bản nước ngoài. Nếu trước kia ở thế kỷ XIX Simon Bolivar có khát vọng giải phóng toàn bộ Mỹ La Tinh khỏi ách thống trị của thực dân Tây Ban Nha thì nay trong thế kỉ XXI Tổng thống Chavez – vị Tổng thống đi theo tư tưởng của Bolivar cũng có khát vọng Venezuela và khu vực Nam Mỹ thoát khỏi ảnh hưởng của Mỹ. 3. Cải cách xã hội Trong chiến dịch tranh cử, Tổng thống ông Chavez đã đưa ra một chương trình cải cách toàn diện trong đó đặc biệt quan tâm đến các hoạt động cải cách xã hội. Đây là lĩnh vực được tiến hành cải cách nhiều nhất và rộng rãi nhất. Nhiều