Hệ thông tin địa lý và khả năng ứng dụng vào khoa học xã hội nhân văn ở Việt Nam: hiện trạng và các thách thức

Hệ thông tin địa lý (HTTĐL) là một hệ thống thông tin có chức năng nhập, tổ chức dữ liệu không gian để phân tích và tổng hợp thành các thông tin trợ giúp việc ra quyết định của hầu hết các lĩnh vực hoạt động của xã hội. Công nghệ này ra đời từ đầu những năm 60 của thế kỷ XX, xuất phát từ các nhu cầu xử lý thông tin đơn giản hơn hiện nay rất nhiều. Ngày nay, dữ liệu địa lý chiếm tới 70-80% các dữ liệu sử dụng trong các hoạt động của xã hội loài người là các hoạt động có tính phức hợp (complexe) cao. Các hoạt động này đồng thời diễn ra trên không gian tự nhiên và không gian xã hội. Ở Việt Nam, các phương pháp pháp thống kê đã được sử dụng từ lâu và khá phổ biến trong các nghiên cứu xã hội học. Tuy nhiên, phần lớn các ứng dụng này lại chưa tính đếm đến quy mô không gian (dimension spatiale) và gặp rất nhiều hạn chế khi phải nghiên cứu quan hệ của các yếu tố xã hội nhân văn trong không gian. Trong khi đó, mọi hiện tượng, quá trình xã hội đều diễn ra trong một khung cảnh địa lý nhất định

pdf24 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1328 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hệ thông tin địa lý và khả năng ứng dụng vào khoa học xã hội nhân văn ở Việt Nam: hiện trạng và các thách thức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hệ thông tin địa lý và khả năng ứng dụng vào khoa học xã hội nhân văn ở Việt Nam: hiện trạng và các thách thức PHẠM Văn Cự - ĐH khoa học tự nhiên, ĐH Quốc gia Hà Nội Hệ thông tin địa lý (HTTĐL) là một hệ thống thông tin có chức năng nhập, tổ chức dữ liệu không gian để phân tích và tổng hợp thành các thông tin trợ giúp việc ra quyết định của hầu hết các lĩnh vực hoạt động của xã hội. Công nghệ này ra đời từ đầu những năm 60 của thế kỷ XX, xuất phát từ các nhu cầu xử lý thông tin đơn giản hơn hiện nay rất nhiều. Ngày nay, dữ liệu địa lý chiếm tới 70-80% các dữ liệu sử dụng trong các hoạt động của xã hội loài người là các hoạt động có tính phức hợp (complexe) cao. Các hoạt động này đồng thời diễn ra trên không gian tự nhiên và không gian xã hội. Ở Việt Nam, các phương pháp pháp thống kê đã được sử dụng từ lâu và khá phổ biến trong các nghiên cứu xã hội học. Tuy nhiên, phần lớn các ứng dụng này lại chưa tính đếm đến quy mô không gian (dimension spatiale) và gặp rất nhiều hạn chế khi phải nghiên cứu quan hệ của các yếu tố xã hội nhân văn trong không gian. Trong khi đó, mọi hiện tượng, quá trình xã hội đều diễn ra trong một khung cảnh địa lý nhất định. Một số vấn đề cơ bản về hệ thông tin địa lý (HTTĐL) HTTĐL được hiểu theo nhiều các khác nhau, tuy nhiên, đa số đã chấp nhập HTTĐL như một hệ thống có 4 hợp phần: Cơ sở dữ liệu, Cơ sở tri thức, Phần cứng và Phần mềm (Bourrough, 1986, Phạm Văn Cự, 1996, Phạm Văn Cự, 2000). Trong báo cáo này chúng tôi sẽ trình bày khái lược về từng hợp phần của HTTĐL với hy vọng sẽ cung cấp cho các chuyên gia y tế một số khái niệm cơ bản về HTTĐL, qua đó tìm tiếng nói chung giữa các chuyên gia công nghệ và các chuyên gia y tế cho các ứng dụng của HTTĐL. Về dữ liệu của HTTĐL Hiện nay, trên thế giới người ta đã chấp nhận một cách rộng rãi vai trò của HTTĐL trong trợ giúp quyết định do các chức năng hiệu quả của nó trong xử lý các thông tin không gian. Khái niệm thông tin, dữ liệu không gian dùng để chỉ mọi thông tin, dữ liệu gắn với các đối tượng, hiện tượng và hoạt động của xã hội trên Trái Đất và trong không gian hiểu theo nghĩa rộng (Bourough, 1986). Nếu như lúc mới ra đời, các thông tin đầu vào của HTTĐL thuần túy là thông tin bản đồ thì ngày nay mọi thông tin gắn với tọa độ địa lý hoặc tọa độ của lưới chiếu bản đồ hoặc gắn với các đối tượng đã có toạ độ đều có thể là đầu vào của hệ thống. Các đối tượng có tọa độ có thể là một điểm (ví dụ: điểm lấy mẫu ngoài thực địa, nguồn ô nhiễm, điểm dân cư, địa điểm thải rác của một bệnh viện v.v.), có thể là một tuyến (ví dụ: trục giao thông, kênh dẫn nước, đường ống dẫn nước sinh hoạt, mạng lưới sông suối v.v.), có thể là một vùng (ví dụ: một đơn vị hành chính cấp thôn bản, xã, huyện, tỉnh thành, quốc gia, khu vực, một khu dân cư, một khu chế xuất v.v.). Các đối tượng có tọa độ thường được biểu diễn trên máy tính dưới hai dạng đồ họa cơ bản: dạng vector (điểm, đường, vùng) và dạng các điểm ảnh (raster), trong đó vector là dạng dữ liệu thường hay dùng hơn cả, đặc biệt là để thể hiện các dữ liệu bản đồ. Các dữ liệu đồ họa này bao giờ cũng được mô tả bởi một hoặc nhiều thuộc tính. Các dữ liệu thuộc tính luôn được gắn với dữ liệu đồ hoạ thông qua tọa độ của dữ liệu đồ họa và vì vậy nó đảm bảo chỉ mô tả đối tượng liên quan. Các dữ liệu thuộc tính thường được tổ chức thành các bảng có cấu trúc quan hệ (Relational Structure) và có thể có khuôn dạng ký tự (Character), không dạng số (Numeric) và khuôn dạng chữ số (Alphanumeric). Trong nhiều trường hợp, đối tượng đồ họa cũng có thể được mô tả bởi các dữ liệu đa phương tiện (Multimedia) như hình ảnh, Video hoặc âm thanh. Ví dụ, trong lĩnh vực xã hội học, dữ liệu thuộc tính có thể là thông tin về tỷ lệ hộ nghèo tính theo xã, số lượng người được hưởng nước sạch tính theo xã, theo huyện hoặc theo quốc gia, có thể là thu nhập tính theo đầu người trên một huyện, có thể là tỷ lệ dân cư bị tác động của thu hồi đất nông nghiệp để phục vụ đô thị hóa v.v. và v.v… Ngoài cấu trúc quan hệ ra, các dữ liệu có thể được lưu trữ theo một số cấu trúc khác như cấu trúc mạng (Network Structure) và gần đây là cấu trúc đối tượng (Object Oriented Structure). Mỗi cấu trúc có những lợi thế riêng và phù hợp với các ứng dụng khác nhau. Tuy nhiên, các dữ liệu vector đều được quản lý bằng quan hệ của chúng trong không gian (Topology) thông qua toạ độ (Bourrough. P. A., 1986). Về cơ bản có hai loại dữ liệu: Dữ liệu nền và các dữ liệu chuyên ngành. Dữ liệu nền được hiểu một cách rộng rãi là các dữ liệu về địa hình, hình thể hoặc các đơn vị hành chính của khu vực nghiên cứu. Dữ liệu chuyên đề là các dữ liệu do các chuyên ngành cung cấp về điều kiện tự nhiên, thống kê về kinh tế, xã hội, y tế, giáo dục, 88 Khóa học Tam Đảo 2008 thương mại, hạ tầng cơ sở v.v. của khu vực nghiên cứu. Cả dữ liệu nền và dữ liệu chuyên đề đều có thể ở dạng đồ hoạ và dạng thuộc tính. Hình 1 minh họa cho quan hệ giữa dữ liệu đồ họa với các thuộc tính trên không gian có toạ độ. Về cơ sở dữ liệu của (CSDL) HTTĐL Cũng như trong bất cứ hệ thông tin nào khác, (CSDL) của HTTĐL là tập hợp một cách có cấu trúc, có hệ thống các dữ liệu (như đã mô tả ở trên) nhằm một mục đích trợ giúp quyết định được định sẵn (Parent, D. and R. Church, 1988). Lấy ví dụ, trong các ứng dụng của ngành y tế, CSDL mà chúng ta xây dựng phải phải nhằm vào trợ giúp các quyết định của ngành y tế. Các quyết định mà ngành y tế đưa ra luôn gắn với hàng loạt các vấn đề khác của xã hội; hoặc nó chịu ảnh hưởng của các vấn đề này hoặc nó sẽ ảnh hưởng đến các vấn đề này hoặc có quan hệ ảnh qua lại giữa quyết định của ngành với các vấn đề này. Vì lý do như thế mà cơ sở dữ liệu của một HTTĐL sử dụng trong từng ngành chỉ chứa các thông tin mà ngành đó quan tâm trong mối liên quan với một số lĩnh vực khác. Các mối liên quan đó đã phải được định nghĩa trước trong giai đoạn thiết kế. Việc định nghĩa các mối liên hệ như thế nào sẽ được trình bày sau đây, ở phần Cơ sở tri thức của hệ thống. Các nguồn dữ liệu Dữ liệu sử dụng trong các HTTĐL, như đã nêu ở phần trên, thuộc hai nhóm chính: dữ liệu nền và dữ liệu chuyên đề. Các dữ liệu nền địa hình thuộc quyền quản lý và cung cấp của Tổng cục địa chính, các dữ liệu về ranh giới hành chính thuộc quyền quản lý của Ban Tổ chức chính phủ hoặc Ban Tổ chức chính quyền các tỉnh. Các dữ liệu chuyên đề do các cơ quan chuyên môn cung cấp. Có những thông tin được giải đoán từ ảnh máy bay, ảnh vệ tinh cũng thường là một nguồn dữ liệu cho HTTĐL. Các loại dữ liệu nói trên sẽ được nhập vào CSDL theo nhiều cách khác nhau với các khuôn dạng như đã mô tả ở phần trên. (xem Hình 1) Các chức năng của HTTĐL và khả năng ứng dụng trong y tế Như đã được thừa nhận rộng rãi (Trích dẫn), HTTĐL có chức chức năng sau: (1)Nhập và quản lý các dữ liệu, (2)Tra cứu dữ liệu, (3)Phân tích và Tích hợp dữ liệu, (4)Hiển thị và xuất dữ liệu. - Chức năng nhập và quản lý dữ liêu: Đối với dữ liệu đồ họa, có thể nhập bằng bàn số. Đó là phương pháp dùng con chuột để vẽ lại các đối tượng đồ họa trên mặt một thiết bị được gọi bàn số. Tuy nhiên, trong vài năm gần đây người ta đã chuyển sang nhập dữ liệu bằng phương pháp vector hóa. Đó là, sử dụng các chương trình chuyển đối tượng đồ hoạ được quét bằng máy quét (scanner) dưới dạng ảnh (raster) thành các vector. Đối với các dữ liệu thống kê, con đường nhập duy nhất là sử dụng chức năng của phần mềm HTTĐL hoặc sử dụng một số phần mềm quản trị CSDL như Excel, DBase, Lotus v.v. để nhập dữ liệu. Các dữ liệu, một khi đã được nhập, sẽ được hệ thống quản lý theo một trong các cấu trúc như đã nêu ở phần trên và dự vào hai yếu tố quan trọng là toạ độ và quan hệ không gian của dữ liệu. Thông thường, các dữ liệu được tổ chức thành nhiều lớp, mỗi lớp lại được quản lý bởi toạ độ, quan hệ không gian và được mô tả bởi một bảng thuộc tính. Nhờ có sự quản lý như vậy mà hệ thống mới hoạt đảm đương được các chức năng phân tích và tích hợp thông tin. Hình 1: Mô hình một lớp dữ liệu trong HTTĐL Hình 1: Mô hình mӝt lӟp dӳ liӋu trong HTTĈL Các chͱc năng cͯa HTTĈL và kh̫ năng ͱng dͭng trong y t͇ Nhѭ ÿã ÿѭӧc thӯa nhұn rӝng rãi (Trích dүn), HTTĈL có chӭc chӭc năng sau: (1)Nhұp và quҧn lý các dӳ liӋu, (2)Tra cӭu dӳ liӋu, (3)Phân tích và Tích hӧp dӳ liӋu, (4)HiӇn thӏ và xuҩt dӳ liӋu. 9 Chͱc năng nh̵p và qu̫n lý dͷ liêu: Ĉӕi vӟi dӳ liӋu ÿӗ hoҥ, có thӇ nhұp bҵng bàn sӕ. Ĉó là phѭѫng pháp dùng con chuӝt ÿӇ vӁ lҥi các ÿӕi tѭӧng ÿӗ hoҥ trên mһt mӝt thiӃt bӏ ÿѭӧc gӑi bàn sӕ. Tuy nhiên, trong vài năm gҫn ÿây ngѭӡi ta ÿã chuyӇn sang nhұp dӳ liӋu bҵng phѭѫng pháp vector hoá. Ĉó là, sӱ dөng các chѭѫng trình chuyӇn ÿӕi tѭӧng ÿӗ hoҥ ÿѭӧc quét bҵng máy quét (scanner) dѭӟi dҥng ҧnh (raster) thành các vector. Ĉӕi vӟi các dӳ liӋu thӕng kê, con ÿѭӡng nhұp duy nhҩt là sӱ dөng chӭc năng cӫa phҫn mӅm HTTĈL hoһc sӱ dөng mӝt sӕ phҫn mӅm quҧn trӏ CSDL nhѭ Excel, DBase, Lotus v.v. ÿӇ nhұp dӳ liӋu. Các dӳ liӋu, mӝt khi ÿã ÿѭӧc nhұp, sӁ ÿѭӧc hӋ thӕng quҧn lý theo mӝt trong các cҩu trúc nhѭ ÿã nêu ӣ phҫn trên và dӵ vào hai yӃu tӕ quan trӑng là toҥ ÿӝ và quan hӋ không gian cӫa dӳ liӋu. Thông thѭӡng, các dӳ liӋu ÿѭӧc tә chӭc thành nhiӅu lӟp, mӛi lӟp lҥi ÿѭӧc quҧn lý bӣi toҥ ÿӝ, quan hӋ không gian và ÿѭӧc mô tҧ bӣi mӝt bҧng thuӝc tính. Nhӡ có sӵ quҧn lý nhѭ vұy mà hӋ thӕng mӟi hoҥt ÿҧm ÿѭѫng ÿѭӧc các chӭc năng phân tích và tích hӧp thông tin. 9 Chͱc năng tra cͱu: Ĉây là mӝt chӭc năng rҩt hay ÿѭӧc sӱ dөng và thѭӡng là ӣ giai ÿoҥn khӣi ÿҫu mӛi khi chúng ta vào hӋ thӕng. Các câu hӓi ÿѫn giҧn nhҩt nhѭ: có gì, ӣ ÿâu, có bao nhiêu v.v... lҥi có thӇ trӣ nên quan trӑng trong trѭӡng hӧp cҫn có báo cáo tәng kiӇm kê vӅ mӝt vҩn ÿӅ gì ÿó. Trong thí dө nêu trong hình 1, hӋ thӕng sӁ giúp chúng lҩy thông tin tӯ các bҧng ra ÿӇ trҧ lӡi nhóm câu hӓi này. Trong tra cӭu thông tin cӫa HTTĈL ngѭӡi rҩt hay dùng mӝt loҥi ngôn ngӳ tra cӭu dӵa vào cҩu trúc dӳ liӋu - SQL (Structure Query Language) kӃt hӧp vӟi viӋc xác ÿӏnh vӏ trí trong không gian cӫa các ÿӕi tѭӧng cҫn tra cӭu. Ӣ mӭc ÿӝ này, các câu hӓi có thӇ phӭc tҥp hѫn rҩt nhiӅu vì nó ÿòi hӓi câu trҧ lӡi phҧi ÿáp ӭng ÿӗng thӡi mӝt sӕ tiêu chí. Chҷng hҥn, hãy chӍ ra các xã có tӹ lӋ hӝ du canh dѭӟi mӭc quy ÿӏnh tҥi thӡi ÿiӇm Y và có mұt ÿӝ dân sӕ X nào ÿó ÿӇ tìm tìm hiӇu xem có phҧi tҥi sӭc ép dân sӕ nên hoҥt ÿӝng du canh vүn tiӃp diӉn hay không hay vì lý do gì khác v.v. Mӝt thí dө khác ÿiӇn hình cho viӋc kӃt hӧp các ÿiӅu kiӋn mô tҧ bҧng thuӝc tính và quan hӋ không gian là viӋc tra cӭu Y X 9 Xã B ӣ ÿâu? 9 Xã B có các ÿһc ÿiӇm thӕng kê vӅ dân tӝc hӑc nhѭ thӃ nào? 9 Tѭѫng tӵ nhѭ vұy vӟi các xã khác? 89Hệ thống thông tin địa lý - Chức năng tra cứu: Đây là một chức năng rất hay được sử dụng và thường là ở giai đoạn khởi đầu mỗi khi chúng ta vào hệ thống. Các câu hỏi đơn giản nhất như: có gì, ở đâu, có bao nhiêu v.v... lại có thể trở nên quan trọng trong trường hợp cần có báo cáo tổng kiểm kê về một vấn đề gì đó. Trong ví dụ nêu trong hình 1, hệ thống sẽ giúp chúng lấy thông tin từ các bảng ra để trả lời nhóm câu hỏi này. Trong tra cứu thông tin của HTTĐL người ta rất hay dùng một loại ngôn ngữ tra cứu dựa vào cấu trúc dữ liệu - SQL (Structure Query Language) kết hợp với việc xác định vị trí trong không gian của các đối tượng cần tra cứu. Ở mức độ này, các câu hỏi có thể phức tạp hơn rất nhiều vì nó đòi hỏi câu trả lời phải đáp ứng đồng thời một số tiêu chí. Chẳng hạn, hãy chỉ ra các xã có tỷ lệ hộ du canh dưới mức quy định tại thời điểm Y và có mật độ dân số X nào đó để tìm tìm hiểu xem có phải tại sức ép dân số nên hoạt động du canh vẫn tiếp diễn hay không hay vì lý do gì khác v.v. Một ví dụ khác điển hình cho việc kết hợp các điều kiện mô tả bảng thuộc tính và quan hệ không gian là việc tra cứu con đường ngắn nhất để đến một trạm y tế nhằm đánh giá khả năng tiếp cận dịch vụ của các hộ dân miền núi. Trong các ví dụ trên, có thể thấy, HTTĐL có thể thực hiện việc tra cứu dựa vào các dữ liệu thuộc tính hiện có trên CSDL trong không gian và cả trong thời gian. - Chức năng phân tích và tích hợp thông tin: Đây là chức năng quan trọng nhất của HTTĐL và làm cho nó khác với các Hệ thành lập bản đồ tự động, nghĩa là chuyên về sử dụng CSDL không gian để xây dựng các bản đồ trên máy tính. Chức năng này giúp chúng ta tìm hiểu, đánh giá mối quan hệ của các đối tượng, hiện tượng, quá trình thông qua các công thức tính toán số học (+, -, x, /, , ≥, ≤ v.v…), các hàm lượng giác và đặc biệt là các hàm lôgic như : Faulse, True (Có, Không), If, Then, Else (nghĩa là: Nếu thỏa mãn điều kiện đặt ra thì.., Nếu không thoả mãn điều kiện đặt ra thì …) và các hàm Lô gic nhị phân (Boolean) để đánh giá quan hệ giữa các đối tượng (AND, OR, NOT, XOR). Đặc biệt, HTTĐL sẽ giúp chúng ta thể hiện tư duy của nhà chuyên môn trong mô phỏng các diễn biến có thể có trong tự nhiên và trong xã hội trên nền CSDL đã xây dựng. Các mô phỏng này sẽ được thể hiện dưới dạng các kịch bản (scenario) và rất hay được sử dụng trong dự báo diễn biến các hiện tượng, quá trình và đặc biệt là trong công tác quy hoạch. Như đã trình bày ở phần trên, các dữ liệu không gian được cấu trúc thành nhiều lớp trong CSDL và mỗi lớp dùng để mô tả một bộ phận của thực tế khu vực ta quan tâm. Trong mỗi lớp chúng ta lại có các thuộc tính khác nhau. Chức năng phân tích và tích hợp vì vậy thường được tiến hành ở hai mức: - Mức bên trong từng lớp: tại mức này, người ta xét quan hệ giữa các thuộc tính của chính lớp đó với nhau. Ví dụ: Lấy số lượng trẻ em được tiêm phòng của xã chia cho dân số của xã ta sẽ được một thuộc tính thứ ba cho xã là tỷ lệ trẻ em tiêm phòng tính theo xã. Tại mức này, người ta cũng có thể phân tích cùng lúc nhiều thuộc tính của lớp thông tin. - Mức giữa các lớp thông tin: HTTĐL sẽ thực hiện một cách tương tự các phép phân tích, tích hợp thông tin đối với các lớp thông tin khác nhau để cho ra các kết quả. Trong văn liệu, cách làm này thường được gọi là chồng xếp các lớp thông tin (Map Overlaying). Lấy một ví dụ ở miền núi: chúng ta có thể sử dụng một lớp thông tin địa hình, một lớp thông tin vị trí các trạm y tế xã để đánh giá khả năng tiếp cận các cơ sở y tế xã của dân cư trong các xã có điều kiện địa hình khác nhau. Kết quả của phép phân tích này lại có thể đem chồng xếp với lớp thông tin bản đồ giao thông để đánh giá vai trò của giao thông miền núi đối với công tác chăm sóc sức khỏe v.v… Một cách tóm tắt qua các ví dụ nêu trên chúng ta cũng đã thấy vai trò quan trọng của ý tưởng chuyên môn trong các bài toán ứng dụng HTTĐL vào từng lĩnh vực chuyên môn. Các ý tưởng này có thể được biểu diễn một cách tổng quát như sau (Pham Van Cu et al. 2000): Ý tưởng chuyên ngành = ƒ(yếu tố1, yếu tố2, yếu tố3…….. yếu tốn) Trong công thức nói trên, số lượng các yếu tố và quan hệ giữa chúng sẽ do các nhà chuyên môn xác đinh chứ không phải do các chuyên gia về HTTĐL xác định. Chúng tôi sẽ đi sâu vào vấn đề này ở phần xây dựng Cơ sở tri thức dưới đây. - Chức năng hiển thị và xuất thông tin: là chức năng cho phép trình bày dữ liệu hoặc kết quả phân tích, tích hợp thông tin chủ yếu dưới dạng các bản đồ và các bảng thuộc tính đi kèm. Phương tiện chủ yếu để hiển thị thông tin là màn hình máy tính, các máy in màu. Các thông tin của HTTĐL ngày nay còn được hiển thị trên Internet nhờ các phần mềm kết nối các trang Web với CSDL của HTTĐL. Thông tin sản xuất ra từ HTTĐL hoàn toàn có thể được chuyển giao cho người sử dụng cũng qua Internet. Trên thế giới hiện tồn tại hàng ngàn trang Web trong lĩnh vực HTTĐL và rất nhiều trang dành cho chủ đề y tế. Xây dựng các bài toán ứng dụng hay xây dựng cơ sở tri thức (CSTT) của HTTĐL Theo ý kiến của nhiều chuyên gia, đây là phần quan trọng bậc nhất của các HTTĐL, trong đó có các HTTTĐL của lĩnh vực y tế. Tuy nhiên, qua theo dõi sự phát triển ứng dụng HTTĐL trên thế giới chúng tôi thấy có sự thay đổi nhận thức về vai trò của các hợp phần của HTTĐL qua từng thời kỳ, đặc biệt tại các nước đang phát triển (Dangermond, J.,1986). Ở Việt Nam trước đây, khi nói đến ứng dụng HTTĐL, người ta thường nghĩ đến trang bị các phần mềm của 90 Khóa học Tam Đảo 2008 HTTĐL hơn là nghĩ đến các hợp phần khác. Giai đoạn tiếp theo, đa phần người sử dụng lại coi trọng dữ liệu hơn cả và trong trường hợp đó, người ta đầu tư rất nhiều cho việc nhập dữ liệu. Ngay cả lúc đó, các dữ liệu được nhập vào chủ yếu là các bản đồ và các dữ liệu thuộc tính ít được coi trọng. Phải chờ đến khi nhận ra rằng các ứng dụng của HTTĐL phụ thuộc rất nhiều và các kiến thức chuyên môn đa ngành, liên ngành thì người ta mới coi trọng việc xây dựng các CSTT. Vậy CSTT trong HTTĐL là gì và vai trò của nó đối với hệ thống như thế nào? Thực chất đây là việc kết hợp ba mảng chuyên môn: Quản lý, Các chuyên ngành ứng dụng và Công nghệ thông tin để xây dựng dụng thiết kế cho HTTTĐL theo ý tưởng ban đầu của giới quản lý, nghĩa là căn cứ vào mục tiêu ứng dụng để quyết định chủng loại các dữ liệu cần thu thập, cấu trúc CSDL cần xây dựng. Căn cứ vào yêu cầu của giới quản lý, các nhà chuyên môn trong chuyên ngành sẽ là người cung cấp kiến thức về mối quan hệ của các đối tượng, hiện tượng, quá trình sẽ được mô tả bằng các dữ liệu không gian. Các chuyên gia về HTĐL và về công nghệ thông tin sẽ là người trợ giúp các nhà chuyên môn thực hiện bài toán của họ trên hệ thống dưới dạng các hàm chuyên gia. Như đã trình bày, điều quan trọng là phải có được định nghĩa một cách có cơ sở khoa học cho các mối quan hệ giữa các đối tượng, quá trình và hiện tượng mà chúng ta nghiên cứu thì mới có thể sử dụng các hàm toán học để xây dựng được các mô hình phân tích trên HTTĐL. Nói nôm na, trong HTTĐL thì vai trò của con người là quan trọng bậc nhất và chỉ có chấp nhận như vậy thì HTTĐL mới được xây dựng và khai thác đúng nghĩa. Vấn đề phần cứng, phần mềm của HTTĐL Đây là hai hợp phần còn lại của HTTĐL mà chúng tôi gộp lại trong phần trình bày với suy nghĩ cho rằng về bản chất phần cứng và phần mềm chỉ là phương tiện vật lý để thực hiện các thao tác trên HTTĐL. Mặt khác, với sự giảm giá liên tục như hiện nay của các máy tính cá nhân và các thiết bị ngoại vi như máy in, máy quét, thiết bị lưu trữ thì tỷ trọng tài chính đầu tư cho phần cứng không còn là vấn đề. Phần mềm HTTĐL hiện nay đang trở nên ngày càng đa dạng nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng ở nhiều mức độ khác nhau. Tuy nhiên, các chức năng tối thiểu của chúng thưòng rất giống nhau va quan trọng hơn cả là chúng cùng có vai trò giúp các chuyên gia thực hiện các thao tác dữ liệu như đã nêu ở phần trên. Có thể khẳng định rằng không có bất cứ phần mềm nào là vạn năng cả. Tuỳ thuộc vào định hướng ứng dụng của thị trường mà các hãng sản xuất sẽ đưa ra các thiết kế khác nhau, chức năng mở rộng khác nhau. Chính vì vậy các người sử dụng cũng thường căn cứ vào nhu cầu của mình mà đưa ra các giải pháp lực chọn khác nhau. Một cách tổng quát có thể hình dung các hợp phần của HTTĐL như trình bày trên hình 2. Một số ví dụ về ứng dụng HTTĐL và ngành y tế ở Việt Nam Ví dụ 1: Đánh giá ảnh hưởng của yếu tố địa hình đến công tác chăm sóc sức khoẻ tại miền núi tỉnh Bắc Kạn (Cao Kim Yến, 2002) Để có được dữ liệu về số lượt người đi khám chữa bệnh và sinh đẻ tại trạm xá xã, nhóm nghiên cứu đã tiến hành điều tra tại năm xã nghiên cứu thuộc tỉnh Bắc Kạn: Khang Ninh, Địa Linh, Chợ Rã, Thượng Giáo và Nam Mẫu. Các dữ liệu này đã được nhập vào một Cơ sở dữ liệu của HTTĐL dưới dạng các bảng thuộc tính gắn với các đơn vị không gian (Bản đồ hành chính cấp xã) cơ bản là xã. Đây là các xã có đặc điểm dân tọc học tương tự như nhau với 75,5% dân số là người Tày, 14,8% là ngưòi Kinh, 5,2% là người Dao, các nhóm còn lại