Khóa luận hoàn thiện kế toán nhập khẩu hàng hoá và tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu tại Công ty cổ phần xuất nhập khẩu khoáng sản Minerxport

Trong giai đoạn hiện nay, xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới diễn ra ngày càng phổ biến và mạnh mẽ, hoạt động thương mại quốc tế trở thành một lĩnh vực quan trọng và không thể thiếu được trong hệ thống kinh tế đó. Đối với các đơn vị hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, yêu cầu về thông tin kinh tế nói chung và thông tin về nhập khẩu nói riêng trở nên hết sức cần thiết. Năm 2007 Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO thì hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng trở nên đa dạng, phức tạp và mang tính cạnh tranh gay gắt. Các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu phải thường xuyên đối mặt với sự biến động của môi trường kinh doanh trong nước và quốc tế. Để nâng cao hiệu quả kinh doanh trong quá trình hội nhập vào hệ thống kinh tế quốc tế và khu vực, các doanh nghiệp phải tăng cường khả năng quản lý và không ngừng hoàn thiện công tác kế toán. Với chức năng thông tin và giám sát tình hình kinh tế, tài chính của doanh nghiệp, kế toán góp một phần không nhỏ tới hiệu quả hoạt động kinh doanh. Dựa vào thông tin kế toán, nhà quản lý có thể nắm bắt được một cách chính xác, kịp thời tình hình kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó đưa ra các quyết định, chiến lược kinh doanh đúng đắn, phù hợp tạo điều kiện để doanh nghiệp phát triển. Thực tế, kế toán quá trình nhập khẩu hàng hoá và tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu tại các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu còn nhiều tồn tại cần khắc phục, nhiều doanh nghiệp chưa thực hiện đúng theo quy định của chế độ kế toán hiện hành.

doc104 trang | Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1152 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận hoàn thiện kế toán nhập khẩu hàng hoá và tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu tại Công ty cổ phần xuất nhập khẩu khoáng sản Minerxport, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu: Trong giai đoạn hiện nay, xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới diễn ra ngày càng phổ biến và mạnh mẽ, hoạt động thương mại quốc tế trở thành một lĩnh vực quan trọng và không thể thiếu được trong hệ thống kinh tế đó. Đối với các đơn vị hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, yêu cầu về thông tin kinh tế nói chung và thông tin về nhập khẩu nói riêng trở nên hết sức cần thiết. Năm 2007 Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO thì hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng trở nên đa dạng, phức tạp và mang tính cạnh tranh gay gắt. Các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu phải thường xuyên đối mặt với sự biến động của môi trường kinh doanh trong nước và quốc tế. Để nâng cao hiệu quả kinh doanh trong quá trình hội nhập vào hệ thống kinh tế quốc tế và khu vực, các doanh nghiệp phải tăng cường khả năng quản lý và không ngừng hoàn thiện công tác kế toán. Với chức năng thông tin và giám sát tình hình kinh tế, tài chính của doanh nghiệp, kế toán góp một phần không nhỏ tới hiệu quả hoạt động kinh doanh. Dựa vào thông tin kế toán, nhà quản lý có thể nắm bắt được một cách chính xác, kịp thời tình hình kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó đưa ra các quyết định, chiến lược kinh doanh đúng đắn, phù hợp tạo điều kiện để doanh nghiệp phát triển. Thực tế, kế toán quá trình nhập khẩu hàng hoá và tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu tại các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu còn nhiều tồn tại cần khắc phục, nhiều doanh nghiệp chưa thực hiện đúng theo quy định của chế độ kế toán hiện hành. Trong thời gian thực tập, em đã đi sâu tìm hiểu hoạt động kinh doanh nhập khẩu nói chung và kế toán nghiệp vụ nhập khẩu nói riêng tại Công ty Cổ phần Xuất Nhập khẩu Khoáng sản. Nhận thức được tầm quan trọng của kế toán hàng nhập khẩu, qua quá trình học tập và tìm hiểu thực tế tại Công ty, em đã chọn đề tài "Hoàn thiện kế toán nhập khẩu hàng hoá và tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu tại Công ty Cổ phần Xuất Nhập khẩu Khoáng sản MINERXPORT". 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài: Đề tài đi sâu nghiên cứu thực trạng kế toán nhập khẩu hàng hoá tại Công ty Cổ phần Xuất Nhập khẩu Khoáng sản từ việc lập, luân chuyển chứng từ đến việc ghi sổ kế toán, tài khoản sử dụng và phương pháp kế toán các nghiệp vụ nhập khẩu và tiêu thụ hàng nhập khẩu. Tuy nhiên, việc nghiên cứu tìm hiểu của em còn nhiều hạn chế, các kiến nghị đưa ra mới chỉ dựa trên kiến thức cơ bản được học ở trường và những hiểu biết có được trong quá trình thực tập ở Công ty. 3. Kết cấu của đề tài: Đề tài luận văn của em ngoài mở đầu và kết luận, bao gồm có ba phần: Phần 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về kế toán nhập khẩu hàng hoá và tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu trong các doanh nghiệp kinh doanh thương mại. Phần 2: Thực trạng kế toán nhập khẩu hàng hoá và tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu tại Công ty Cổ phần Xuất Nhập khẩu Khoáng sản MINERXPORT. Phần 3: Hoàn thiện kế toán nhập khẩu hàng hoá và tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu tại Công ty Cổ phần Xuất Nhập khẩu Khoáng sản MINERXPORT. Phần 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về kế toán nhập khẩu hàng hoá và tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu trong các doanh nghiệp kinh doanh thương mại 1.1. Đặc điểm hoạt động nhập khẩu hàng hoá có ảnh hưởng đến kế toán nhập khẩu hàng hoá và tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động kinh doanh nhập khẩu Nhập khẩu nói chung là hoạt động kinh doanh ngoại thương mà quốc gia này mua hàng hoá, dịch vụ của quốc gia khác, cụ thể hoạt động nhập khẩu ở Việt Nam được hiểu là việc mua bán hàng hoá giữa thương nhân Việt Nam với thương nhân nước ngoài theo các hợp đồng ngoại thương. Sự khác biệt giữa hoạt động nhập khẩu với hoạt động kinh doanh hàng hoá trong nước thể hiện ở một số đặc điểm chủ yếu của hoạt động nhập khẩu như sau: - Đặc điểm về thời gian lưu chuyển hàng hoá nhập khẩu: Thời gian lưu chuyển hàng hoá nhập khẩu bao giờ cũng dài hơn so với thời gian lưu chuyển hàng hoá kinh doanh nội địa do các bên tham gia mua bán thường cách xa nhau về mặt địa lý, hoạt động mua bán trải qua nhiều giai đoạn… - Đặc điểm về hàng hoá kinh doanh nhập khẩu: Hoạt động nhập khẩu chủ yếu là mua những mặt hàng mà trong nước không có, chưa sản xuất được hoặc chưa đáp ứng được nhu cầu cả về số lượng, chất lượng và thị hiếu… - Đặc điểm về thời điểm giao nhận hàng và thời điểm thanh toán: Hàng nhập khẩu được ghi nhận từ ngày hàng được giao đến địa phận nước nhập và được phép thông quan. Thời điểm nhận hàng nhập khẩu và thời điểm thanh toán tiền hàng thường không trùng nhau mà có khoảng cách dài. - Đặc điểm về phương thức thanh toán: Trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu, phương thức thanh toán chủ yếu được sử dụng là thanh toán bằng thư tín dụng (letter of credit- L/C). Ngoài ra, doanh nghiệp còn có thể sử dụng các phương thức khác như: phương thức chuyển tiền (remittance), phương thức ghi sổ hay mở tài khoản (open account), phương thức nhờ thu (collection of payment)… - Đặc điểm về tập quán, pháp luật: hai bên mua bán có quốc tịch khác nhau, pháp luật khác nhau, tập quán kinh doanh khác nhau, do vậy các bên phải tuân thủ luật kinh doanh cũng như tập quán của từng nước và luật thương mại quốc tế. - Đặc điểm về tiền tệ: Mỗi quốc gia có đơn vị tiền tệ riêng, vì vậy khi thực hiện một hợp đồng kinh doanh nhập khẩu cả hai bên phải thống nhất là dùng đồng tiền nào là đồng tiền để thanh toán. 1.1.2. Đối tượng và điều kiện kinh doanh nhập khẩu hàng hoá Đối tượng hàng hoá được phép nhập khẩu là tất cả các mặt hàng không nằm trong doanh mục hàng hoá cấm nhập khẩu hoặc hàng hoá tạm ngừng nhập khẩu. Hàng hoá nhập khẩu không chỉ bao gồm các mặt hàng phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng hàng ngày mà còn là hàng công nghiệp, trang thiết bị, máy móc,… phục vụ cho các dự án, các chương trình phát triển sản xuất trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Ngoài những mặt hàng mà doanh nghiệp được tự do nhập khẩu còn có những mặt hàng nhập khẩu có điều kiện và những mặt hàng cấm nhập khẩu. Đối với hàng hoá nhập khẩu có điều kiện, doanh nghiệp chỉ được phép nhập khẩu theo hạn mức hoặc theo giấy phép của Bộ Thương mại hoặc cơ quan chủ quản. Doanh nghiệp có quyền kinh doanh nhập khẩu hàng hoá theo các ngành nghề kinh doanh đã ghi trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và đã đăng ký mã số tại Cục Hải quan tỉnh, thành phố theo quy định. Các doanh nghiệp đã đăng ký mã số kinh doanh nhập khẩu có quyền được uỷ thác nhập khẩu hoặc nhận uỷ thác nhập khẩu hàng hoá phù hợp với nội dung của giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. 1.1.3. Các phương thức kinh doanh hàng nhập khẩu ♦ Phương thức kinh doanh theo Nghị định thư: Đây là phương thức kinh doanh mà Chính phủ Việt Nam ký kết với chính phủ nước ngoài Nghị định thư về trao đổi hàng hoá, sau đó giao cho một doanh nghiệp nào đó thực hiện. Doanh nghiệp này chịu trách nhiệm thu mua hàng hoá giao cho nước ngoài hoặc tổ chức mua hàng hoá của nước ngoài với số ngoại tệ quy đổi ra đồng Việt Nam theo tỷ giá do Nhà nước quy định hoặc tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng. Nhà nước có thể trợ giúp cho doanh nghiệp về vốn, vật tư và các điều kiện cần thiết khác để doanh nghiệp thực hiện nhập khẩu một cách tốt nhất. Về thanh toán Nhà nước có thể cam kết thanh toán hoặc uỷ nhiệm cho doanh nghiệp trực tiếp thanh toán. ♦ Phương thức kinh doanh ngoài Nghị định thư: Đây là phương thức kinh doanh phổ biến ở các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thực hiện nhập khẩu những mặt hàng mà Nhà nước không cấm, chủ động về hàng hoá, giá cả thị trường trong phạm vi chính sách cho phép và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước. 1.1.4. Các phương thức nhập khẩu hàng hoá Các doanh nghiệp có đầy đủ điều kiện kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá có thể thực hiện nhập khẩu theo các phương thức sau: ♦ Phương thức nhập khẩu trực tiếp: Nhập khẩu trực tiếp là quá trình doanh nghiệp trực tiếp ký kết hợp đồng nội với khách hàng nội để xác định nhu cầu về hàng hoá cần cung cấp, sau đó doanh nghiệp tiến hành tham khảo thị trường nước ngoài, tìm ra nguồn hàng phù hợp và ký kết hợp đồng ngoại để nhập hàng về giao cho khách hàng nội. Trên cơ sở hàng hoá thực tế nhập về kế toán xác định giá nhập và giá bán để chuyển cho khách hàng nội. Phương thức này được áp dụng đối với các doanh nghiệp kinh doanh được Nhà nước cấp giấy phép kinh doanh nhập khẩu, doanh nghiệp sẽ trực tiếp tổ chức đàm phán, ký kết hợp đồng với nhà cung cấp nước ngoài, trực tiếp nhận hàng và thanh toán tiền hàng. Các doanh nghiệp tiến hành nhập khẩu trực tiếp trên cơ sở tự cân đối về tài chính, có quyền tìm kiếm bạn hàng, định đoạt giá cả, lựa chọn phương thức thanh toán và thị trường, xác định phạm vi kinh doanh nhưng trong khuôn khổ chính sách quản lý xuất nhập khẩu của Nhà nước. Phương thức nhập khẩu này thường được tiến hành khi doanh nghiệp thực sự am hiểu về thị trường cũng như mặt hàng nhập khẩu. ♦ Phương thức nhập khẩu uỷ thác: Nhập khẩu uỷ thác là quá trình Công ty thực hiện cung cấp dịch vụ nhập khẩu cho khách hàng có yêu cầu, trong hình thức nhập khẩu này Công ty tiến hành nhập một số mặt hàng nhất định với danh nghĩa của mình nhưng bằng chi phí của bên giao uỷ thác. Căn cứ trên hợp đồng uỷ thác nhập khẩu, Công ty đứng ra trực tiếp thực hiện đàm phán, ký kết hợp đồng, tổ chức tiếp nhận hàng nhập khẩu, thanh toán với nhà cung cấp nước ngoài tiền. Kết thúc hợp đồng uỷ thác, đơn vị nhận được một khoản hoa hồng gọi là hoa hồng uỷ thác nhập khẩu. Số hoa hồng uỷ thác này được tính theo thoả thuận trên trị giá lô hàng nhập và được ghi trong hợp đồng uỷ thác, hoa hồng uỷ thác mà Công ty được hưởng là đối tượng chịu thuế GTGT. Việc lựa chọn hình thức nhập khẩu tuỳ thuộc vào điều kiện quy định và khả năng tài chính của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần phải lựa chọn hình thức kinh doanh hàng hoá xuất nhập khẩu thích hợp nhằm đem lại hiệu quả kinh doanh cao, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, phương thức nhập khẩu trực tiếp có lợi hơn vì doanh nghiệp có điều kiện nắm bắt thông tin và tình hình thị trường dễ dàng, chính xác, mở rộng quan hệ và uy tín. 1.1.5. Các phương thức thanh toán sử dụng trong hoạt động nhập khẩu Trong hoạt động kinh doanh ngoại thương, nói đến phương thức thanh toán là nói đến việc người bán dùng cách nào để thu được tiền hàng bán ra và người mua dùng cách nào để trả tiền hàng mua vào. Tuỳ vào điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp mà họ có thể lựa chọn các phương thức thanh toán khác nhau. Các phương thức thanh toán thường dùng trong hợp đồng mua bán ngoại thương gồm: ♦ Phương thức chuyển tiền (Remitance): Đây là phương thức mà trong đó khách hàng yêu cầu ngân hàng của mình chuyển một số tiền nhất định cho người khác (người hưởng lợi) ở một địa điểm nhất định bằng phương tiện chuyển tiền do khách hàng yêu cầu. Trình tự thanh toán theo phương thức này như sau:  Sơ đồ 1.1: Trình tự thanh toán theo phương thức chuyển tiền (1) Ký kết hợp đồng thương mại giữa các bên (2) Người trả tiền viết đơn yêu cầu ngân hàng chuyển tiền tiến hành chuyển tiền bằng thư hoặc bằng điện trong đó ghi rõ nội dung theo quy định cùng với uỷ nhiệm chi (nếu có tài khoản mở tại ngân hàng) (3) Ngân hàng thực hiện chuyển tiền ra nước ngoài qua ngân hàng đại lý (3a), đồng thời gửi giấy báo Nợ, giấy báo đã thanh toán cho người trả tiền (3b). (4) Ngân hàng đại lý chuyển tiền cho người hưởng lợi hoặc gửi giấy báo Có cho người hưởng lợi. ♦ Phương thức ghi sổ hay phương thức mở tài khoản (open account): Theo phương thức này, người bán mở một tài khoản hoặc một quyển sổ để ghi nợ cho người mua sau khi người bán đã hoàn thành việc giao hàng hoá hay dịch vụ. Định kỳ (tháng, quý, năm, …) người mua trả tiền cho người bán. Đặc điểm của phương thức này là không có sự tham gia của ngân hàng với chức năng mở tài khoản và thực hiện thanh toán. Trình tự thanh toán theo phương thức này như sau:  Sơ đồ 1.2: Trình tự thanh toán theo phương thức ghi sổ hay phương thức mở tài khoản (1) Người bán giao hàng hoá, dịch vụ và gửi chứng từ cho người mua (2) Người bán báo Nợ trực tiếp tới người mua (3) Người mua dùng phương thức chuyển tiền để trả tiền cho người bán khi đến định kỳ thanh toán. ♦ Phương thức thanh toán nhờ thu (Collection of payment): Đây là phương thức thanh toán mà trong đó người bán sau khi đã hoàn thành giao hàng hoặc cung cấp dịch vụ cho người mua sẽ tiến hành uỷ thác cho ngân hàng mình thu nợ số tiền ở người mua trên cơ sở hối phiếu do người bán lập ra. Thanh toán theo phương thức nhờ thu bao gồm hai trường hợp: - Nhờ thu phiếu trơn (clean collection): Là phương thức thanh toán mà trong đó người bán uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở người mua căn cứ vào hối phiếu do mình lập ra, còn chứng từ hàng hoá thì gửi thẳng cho người mua không qua ngân hàng. Trình tự thanh toán theo phương thức nhờ thu phiếu trơn như sau:  Sơ đồ 1.3: Trình tự thanh toán theo phương thức nhờ thu phiếu trơn (1) Người bán sau khi gửi hàng và các chứng từ hàng hoá cho người mua, lập một hối phiếu và uỷ thác cho ngân hàng của mình thu tiền hộ (2) Ngân hàng phục vụ bên bán gửi thư uỷ nhiệm kèm hối phiếu cho ngân hàng đại lý của mình ở nước ngoài nhờ thu tiền (3) Ngân hàng đại lý yêu cầu người mua trả tiền hối phiếu (4) Người mua trả tiền ngay hoặc chấp nhận trả tiền hối phiếu (5) Ngân hàng đại lý chuyển tiền thu được cho ngân hàng phục vụ người bán (6) Ngân hàng phục vụ người bán thanh toán tiền hàng cho người bán. Trường hợp người mua chấp nhận hối phiếu thì ngân hàng giữ hối phiếu hoặc chuyển lại cho người bán, khi đến hạn thanh toán, ngân hàng sẽ đòi tiền ở người mua và thực hiện chuyển tiền thu được cho người bán. - Nhờ thu kèm chứng từ: Là phương thức thanh toán mà trong đó người bán uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở người mua căn cứ vào hối phiếu và bộ chứng từ hàng hoá gửi kèm theo với điều kiện là nếu người mua trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền hối phiếu thì ngân hàng mới trao bộ chứng từ hàng hoá cho người mua để nhận hàng. Trình tự thanh toán theo phương thức nhờ thu kèm chứng từ như sau: Sơ đồ 1.4: Trình tự thanh toán theo phương thức nhờ thu kèm chứng từ (1) Người bán tiến hành giao hàng, lập bộ chứng từ thanh toán và hối phiếu nhờ ngân hàng thu hộ tiền ở người mua bằng thư uỷ nhiệm (2) Ngân hàng phục vụ bên bán sẽ chuyển hối phiếu và bộ chứng từ thanh toán đến cho ngân hàng đại lý (3) Ngân hàng đại lý yêu cầu người mua trả tiền hoặc chấp nhận hối phiếu (4) Ngân hàng đại lý thu tiền ở người mua (4a) và trả cho người mua bộ chứng từ để đi nhận hàng (4b) (5) Ngân hàng đại lý chuyển tiền thu được cho ngân hàng phục vụ bên bán (6) Ngân hàng phục vụ bên bán thanh toán tiền hàng cho người bán. Như vậy, trong phương thức nhờ thu kèm chứng từ, ngân hàng ngoài việc thu hộ tiền cho người bán còn khống chế chứng từ hàng hoá đối với người mua. Đây là sự khác nhau cơ bản giữa phương thức nhờ thu kèm chứng từ và nhờ thu phiếu trơn. Với cách khống chế chứng từ này quyền lợi của người bán được bảo đảm hơn. ♦ Phương thức thanh toán bằng thư tín dụng (Letter of credit- L/C): Thanh toán bằng thư tín dụng (L/C) là sự thoả thuận mà trong đó ngân hàng mở thư tín dụng (Là ngân hàng đại diện cho người nhập khẩu, thực hiện cấp tín dụng cho người nhập khẩu) theo yêu cầu của khách hàng (Người mở thư tín dụng) sẽ trả một số tiền nhất định cho người cung cấp hàng nhập khẩu (Người hưởng lợi số tiền của thư tín dụng) hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những quy định để nhập khẩu trong thư tín dụng. Trình tự thanh toán theo hình thức thư tín dụng như sau: Sơ đồ 1.5: Trình tự thanh toán theo phương thức thư tín dụng (1) Người NK nộp đơn xin mở L/C cho ngân hàng của mình yêu cầu mở L/C (2) Căn cứ vào yêu cầu và đơn xin mở L/C, ngân hàng mở L/C sẽ lập một thư tín dụng và thông qua ngân hàng đại lý của mình ở nước xuất khẩu thông báo về việc mở L/C đó cho nhà cung cấp. (3) Ngân hàng thông báo sẽ báo cho nhà cung cấp về toàn bộ nội dung của thư tín dụng và khi nhận được bản gốc L/C thì chuyển ngay cho nhà cung cấp. (4) Nhà cung cấp nếu chấp nhận L/C thì tiến hành giao hàng, nếu không thì sẽ đề nghị ngân hàng mở L/C sửa đổi, bổ sung thư tín dụng cho phù hợp. (5) Sau khi giao hàng, nhà cung cấp lập bộ chứng từ thanh toán xuất trình ngân hàng thông báo (6) Ngân hàng thông báo chuyển bộ chứng từ này sang ngân hàng mở L/C để xin thanh toán (7) Ngân hàng mở thư tín dụng kiểm tra bộ chứng từ thanh toán, nếu thấy phù hợp với thư tín dụng thì tiến hành chuyển tiền sang ngân hàng thông báo để trả cho nhà cung cấp. Ngược lại nếu thấy không phù hợp với thư tín dụng thì sẽ từ chối thanh toán, trả lại toàn bộ chứng từ cho nhà cung cấp. (8) Khi nhận được tiền do ngân hàng mở L/C chuyển đến, ngân hàng thông báo sẽ thực hiện trả số tiền nhận được cho nhà cung cấp (9) Ngân hàng mở L/C thu tiền của người nhập khẩu và chuyển chứng từ hàng hoá cho người nhập khẩu. (10) Người nhập khẩu kiểm tra chứng từ, nếu thấy phù hợp với thư tín dụng thì phải thanh toán tiền mua hàng cho ngân hàng mở L/C, nếu không thấy phù hợp thì có quyền từ chối trả tiền. 1.1.6. Các chứng từ sử dụng chủ yếu trong quá trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu hàng hoá Để đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ giữa bên mua và bên bán thì việc thực hiện một hợp đồng nhập khẩu cần dựa vào các chứng từ chủ yếu sau: - Hoá đơn thương mại (Commercial Invoice): Là chứng từ cơ bản trong các chứng từ hàng hoá. Hoá đơn do người bán lập sau khi đã gửi hàng, yêu cầu người mua trả tiền theo tổng số hàng đã được ghi trên hoá đơn. - Giấy chứng nhận phẩm chất (Certificate of quanlity): Là chứng từ xác nhận chất lượng hàng hoá. Người cấp giấy chứng nhận phẩm chất có thể là người sản xuất, cũng có thể là cơ quan chuyên môn như: Cục kiểm nghiệm hàng hoá xuất nhập khẩu hay Công ty giám định. - Bảng kê chi tiết (Specification): Là chứng từ trong đó thống kê cụ thể tất cả các loại hàng và các mặt hàng của lô hàng trên hoá đơn hoặc hợp đồng. - Phiếu đóng gói (Packing list): Là một chứng từ hàng hoá do nhà cung cấp lập ra để liệt kê những mặt hàng, những loại hàng được đóng gói trong một kiện hàng nhất định. - Giấy chứng nhận xuất xứ (Certificate of origin): Là chứng từ do Phòng Thương mại của nước xuất khẩu cấp cho nhà cung cấp xác nhận nơi sản xuất hoặc nguồn gốc của hàng hoá. - Giấy chứng nhận số lượng (Certificate of quantity): Là chứng từ xác định số lượng hàng hoá mà người bán giao cho người mua. Giấy này có thể do Cục kiểm nghiệm phẩm chất hàng hoá xuất nhập khẩu hoặc Công ty giám định cấp hoặc do đơn vị xuất khẩu lập và được Công ty giám định hay Hải quan kiểm nghiệm và xác nhận. - Vận đơn (Bill of loading): Là chứng từ chuyên chở hàng hoá do người vận chuyển cấp cho chủ hàng nhằm xác định quan hệ pháp lý giữa người vận chuyển với chủ hàng. -Bảo hiểm đơn (Insurance Policy): Là chứng từ do Công ty bảo hiểm cấp cho người được bảo hiểm. Bảo hiểm đơn có tác dụng xác nhận đã ký kết một hợp đồng bảo hiểm và các điều khoản của hợp đồng đó, xác nhận việc trả phí bảo hiểm, đó là chứng từ cần thiết để khiếu nại Công ty bảo hiểm và để nhận tiền bồi thường bảo hiểm khi người mua bảo hiểm gặp rủi ro. - Hoá đơn Hải quan: Hoá đơn này thuận tiện cho việc thống kê của Hải quan nước nhập khẩu, thuận tiện cho việc xác định nguồn gốc xuất xứ của hàng hoá. Hoá đơn Hải quan còn được dùng để ngăn chặn thủ đoạn bán phá giá, mặt khác nó còn xác định chính xác giá của hàng hoá nhằm ngăn chặn việc thương nhân báo giá giả để trốn thuế. 1.1.7. Đặc điểm tính giá hàng nhập khẩu Giá thực tế khi mua và giá xuất khi bán của hàng nhập khẩu được xác định cụ thể như sau: ♦ Xác định giá thực tế của hàng nhập khẩu: Hàng hoá nhập khẩu theo quy định được tính theo giá thực tế tương tự như hàng hoá kinh doanh nội địa. Giá thực tế của hàng mua vào tuỳ thuộc vào phương pháp tính thuế GTGT mà doanh nghiệp áp dụn
Tài liệu liên quan