Luận án Nâng cao năng lực của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Cùng với quá trình đổi mới nền kinh tế của đất nước, nước ta đã đạt được những thành tựu thành quả to lớn: các ngành công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao như công nghệ thông tin, chế tạo máy; ngành nông nghiệp từng bước máy móc hoá đã làm cho năng suất lao động cải thiện rõ rệt đưa nước ta xuất khẩu gạo đứng thứ 2 thế giới, hàng hoá trên thị trường ngày càng phong phú và đa dạng, nhiều doanh nghiệp mới thành lập và nhiều tập đoàn đầu tư lớn đã xuất hiện tại Việt Nam, đời sống dân ta ngày càng nâng cao. Sự tăng trưởng kinh tế đòi hỏi ngày càng nhiều vốn đầu tư. Một trong những kênh huy động vốn đầu tư thông dụng trên thế giới là thị trường chứng khoán. Nhận thức được tầm quan trọng của thị trường chứng khoán, với nhiều nổ lực, ngày 20/07/2000 thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời. Từ ngày thành lập đến nay, thị trường chứng khoán Việt Nam đã có 11 năm hoạt động và phát triển. Tuy nhiên đó không phải là thời gian dài đủ để cho các yếu tố thị trường và nhà đầu tư hoàn thiện. Xét riêng về nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam còn nhiều vấn đề cần khắc phục để nâng cao năng lực đầu tư, giảm thiểu rủi ro không đáng có trong quá trình đầu tư chứng khoán. Vì lý do đó, tôi chọn đề tài “Nâng cao năng lực của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam”, đề tài này đặt ra 3 mục tiêu nghiên cứu: Một, nghiên cứu một cách có hệ thống thị trường chứng khoán và nhà đầu tư chứng khoán cá nhân tại Việt Nam, Hai, đánh giá hiện trạng nhà đầu tư chứng khoán Việt Nam và đối tượng trọng điểm quan tâm là nhà đầu tư cá nhân, Ba, đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam,

doc57 trang | Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1321 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nâng cao năng lực của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài Cùng với quá trình đổi mới nền kinh tế của đất nước, nước ta đã đạt được những thành tựu thành quả to lớn: các ngành công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao như công nghệ thông tin, chế tạo máy; ngành nông nghiệp từng bước máy móc hoá đã làm cho năng suất lao động cải thiện rõ rệt đưa nước ta xuất khẩu gạo đứng thứ 2 thế giới, hàng hoá trên thị trường ngày càng phong phú và đa dạng, nhiều doanh nghiệp mới thành lập và nhiều tập đoàn đầu tư lớn đã xuất hiện tại Việt Nam, đời sống dân ta ngày càng nâng cao. Sự tăng trưởng kinh tế đòi hỏi ngày càng nhiều vốn đầu tư. Một trong những kênh huy động vốn đầu tư thông dụng trên thế giới là thị trường chứng khoán. Nhận thức được tầm quan trọng của thị trường chứng khoán, với nhiều nổ lực, ngày 20/07/2000 thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời. Từ ngày thành lập đến nay, thị trường chứng khoán Việt Nam đã có 11 năm hoạt động và phát triển. Tuy nhiên đó không phải là thời gian dài đủ để cho các yếu tố thị trường và nhà đầu tư hoàn thiện. Xét riêng về nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam còn nhiều vấn đề cần khắc phục để nâng cao năng lực đầu tư, giảm thiểu rủi ro không đáng có trong quá trình đầu tư chứng khoán. Vì lý do đó, tôi chọn đề tài “Nâng cao năng lực của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam”, đề tài này đặt ra 3 mục tiêu nghiên cứu: Một, nghiên cứu một cách có hệ thống thị trường chứng khoán và nhà đầu tư chứng khoán cá nhân tại Việt Nam, Hai, đánh giá hiện trạng nhà đầu tư chứng khoán Việt Nam và đối tượng trọng điểm quan tâm là nhà đầu tư cá nhân, Ba, đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam, Đối tượng, phạm vi nghiên cứu: Đối tượng được nghiên cứu trong đề tài này là năng lực của nhà đầu tư cá nhân trong phạm vi thị trường chứng khoán Việt Nam. 3. Phương pháp nghiên cứu: dùng phương pháp khảo sát, phương pháp hệ thống, phương pháp lịch sử, phương pháp biện chứng .. 4. Kết cấu của đề tài: Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và phần phụ lục, đề tài được xây dựng theo kết cấu truyền thống 3 chương: Chương 1. Tổng quan về nhà đầu tư chứng khoán cá nhân tại Việt Nam. Chương 2. Những thăng trầm của nhà đầu tư chứng khoán cá nhân tại Việt Nam Chương 3. Các đề xuất nâng cao năng lực của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam, CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ NHÀ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 1.1. Lịch sử hình thành TTCK của các nước trên thế giới Thị trường chứng khoán được xem là đặc trưng cơ bản, là biểu tượng của nền kinh tế hiện đại. Người ta có thể đo lường và dự tính sự phát triển kinh tế qua diễn biến trên thị trường chứng khoán. Là một bộ phận cấu thành của thị trưòng tài chính, thị trường chứng khoán đươc hiểu một cách chung nhất, là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi các chứng khoán – các hàng hoá và dịch vụ tài chính giữa các chủ thể tham gia. Việc mua bán trao đổi này được thực hiện theo những quy tắc nhất định. Vào cuối thế kỷ XV, tại những thành phố trung tâm mua bán ở phương Tây, các thương gia đã thống nhất gọi nơi trao đổi, thương lượng mua bán là “thị trường”, để thuận tiện hơn cho việc làm ăn, và đặt ra quy ước trong việc trao đổi hàng hoá. Phiên chợ đầu tiên được diễn ra vào năm 1453 tại một lữ quán của gia đình Vanber ở Bruges (nước Bỉ), tại đó có một bảng hiệu hình 3 túi da với một từ “Brourse” (tiếng Pháp) nghĩa là “Mậu dịch thị trường” hay còn gọi là “Sở giao dịch”. Năm 1547, thành phố ở Bruges (Bỉ) mất đi sự phồn thịnh do eo biển Even bị lấp cát nên mậu dịch thị trường ở đây bị sụp đổ và được chuyễn qua thị trấn Auvers (Bỉ), ở đây thị trường phát triển rất nhanh. Vào giữa thế kỷ XVI, đại thần Anh quốc đã đến quan sát và sau đó về thiết lập một thị trường mậu dịch tại London (nước Anh), sau này được gọi là Sở giao dịch. Tại Pháp, Đức và các nước Bắc Âu, thị trường cũng được thành lập tương tự. Sự phát triển của thị trường ngày càng mạnh cả về lượng lẫn về chất, cùng với số thành viên tham gia đông đảo, vì vậy theo tính chất tự nhiên nó lại được phân ra nhiều thị trường khác nhau như: thị trường giao dịch hàng hoá, thị trường hối đoái, thị trường chứng khoán…với đặc tính riêng của từng thị trường thuận lợi cho giao dịch của người tham gia trong đó. Quá trình các giao dịch chứng khoán diễn ra và hình thành như vậy một cách tự phát tương tự như ở Pháp, Hà Lan, các nước Bắc Âu, Tây Âu, Bắc Mỹ. Các phương thức giao dịch ban đầu được diễn ra ngoài trời với những ký hiệu giao dịch bằng tay và có thư ký nhận lệnh của khách hàng. Đến năm 1921, ở Mỹ, “thị trường” giao dịch “ở trong nhà”, Sở Giao dịch Chứng khoán được chính thức thành lập. Hiện nay trước xu thế kinh tế quốc tế và khu vực với sự ra đời của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), của Liên minh Châu Âu, của các khối thị trường chung, đòi hỏi các quốc gia thúc đẩy phát triển kinh tế với tốc độ và hiệu quả cao. Thực tế phát triển kinh tế ở các quốc gia trên thế giới đã khẳng định vai trò quan trọng của thị trường chứng khoán trong phát triển kinh tế. 1.2 Vai trò của TTCK đối với nền kinh tế Thứ nhất, là nơi huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế, dòng tiền nhàn rỗi của các nhà đầu tư mua chứng khoán sẽ được đưa vào vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội. Thị trường chứng khoán đã có những tác động quan trọng cho sự phát triển nền kinh tế quốc dân, và giúp chính phủ và chính quyền địa phương huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội. Thứ hai, cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng, đây là một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường khác nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có sự lựa chọn thích hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình. Thứ ba, thị trường tạo tính thanh khoản cho chứng khoán, có thị trường chứng khoán thì các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán sỡ hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác, khả năng thanh khoản là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán với nhà đầu tư. Thị trường chứng khoán càng năng động và có hiệu quả thì càng có khả năng nâng cao tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường. Thứ tư, thị trường là nơi đánh giá hoạt động của doanh nghiệp một cách tổng hợp và chính xác, thị trường chứng khoán giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của các doanh nghiệp nhanh chóng và thuận tiện, từ đó tạo ra một môi trường lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, sử dụng khoa học kỹ thuật mới lam tăng năng suất lao động, tạo thêm việc làm cho xã hội. Thứ năm, thị trường tạo môi trường giúp chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô, các chỉ báo của thị trường chứng khoán phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác. Giá chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư chứng khoán đang tăng lên, nền kinh tế tăng trưởng; và ngược lại thì giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế thị trường chứng khoán được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tế, và là công cụ quan trọng giúp chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô, chính phủ có thể mua bán trái phiếu chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, chính phủ cũng có thể sử dụng chính sách, biện pháp tác động vào thị trường chứng khoán nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế. Ngoài những tác động tích cực trên, thị trường chứng khoán cũng có những tiêu cực nhất định. Như ở các thị trường chứng khoán mới nổi, thông tin được chuyển tải đến các nhà đầu tư không đầy đủ và không giống nhau, hiện tượng đầu cơ, hiện tượng xung đột quyền lực làm thiệt hại cho các cổ đông thiểu số, việc mua bán nội gián, thao túng thị trường làm nản lòng nhà đầu tư và như vậy giá chứng khoán không phản ánh giá trị thực và sẽ làm méo mó định hướng phát triển của nền kinh tế. Như vậy, nhiệm vụ của các nhà quản lý thị trường là giảm thiểu các tiêu cực nhằm bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư và đảm bảo tính hiệu quả của thị trường. Như vậy, vai trò của thị trường chứng khoán được thể hiện trên nhiều khía cạnh khác nhau. Song sự tích cực hay tiêu cực của thị trường chứng khoán có thực sự được phát huy hay hạn chế sẽ phụ thuộc đáng kể vào các chủ thể tham gia vào thị trường và sự quản lý của Nhà nước. 1.3. Sơ lược về Thị trường chứng khoán Việt Nam 1.3.1. Ủy ban chứng khoán Nhà nước Uỷ ban chứng khoán Nhà nước Việt Nam, được thành lập theo Nghị định 75/1996/NĐ-CP, là cơ quan thuộc chính phủ thực hiện chức năng tổ chức và quản lý Nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán, thông qua các nhiệm vụ và quyền hạn sau: - Soạn thảo văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán để trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định và tổ chức hướng dẫn thực hiện các văn bản đó. - Chủ trì và phối hợp các Bộ, ngành có liên quan tổ chức xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam. - Cấp, đình chỉ hoặc thu hồi giấy phép hoạt động đối với công ty kinh doanh chứng khoán và các đối tượng khác trên thị trường chứng khoán. - Trình Thủ tướng chính phủ quyết định thành lập, đình chỉ hoạt động hoặc giải thể Sở giao dịch chứng khoán. - Kiểm tra, giám sát hoạt động của Sở giao dịch chứng khoán và các tổ chức có liên quan đến việc phát hành, kinh doanh dịch vụ chứng khoán. - Ban hành các quy định về niêm yết, thông báo phát hành thông tin về giao dịch, mua bán chứng khoán, thoả thuận với Bộ tài chính để quy định phí, lệ phí lien quan đế việc phát hành và kinh doanh chứng khoán… 1.3.2. Sở Giao dịch Chứng khoán Hiện nay, Ủy ban chứng khoán nhà nước Việt Nam chỉ mới thành lập 2 Sở giao dịch chứng khoán đó là: 1.3.2.1. Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (Hose) Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh (TTGDCK TP.HCM) được thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg  ngày 11/07/1998 và chính thức đi vào hoạt động thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/7/2000, đến năm 2010, đổi thành Sở giao dịch TP HCM, đã đánh dấu một sự kiện quan trọng  trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Sự ra đời của TTGDCK TP.HCM có ý nghĩa rất lớn trong việc tạo ra một kênh huy động và luân chuyển vốn mới phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, là sản phẩm của nền chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng và nhà nước ta. Là đơn vị sự nghiệp có thu, có tư cách pháp nhân, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng, kinh phí hoạt động do ngân  sách nhà nước cấp, Trung tâm được Chính phủ giao một số chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn quản lý điều hành hệ thống giao dịch chứng khoán tập trung tại Việt Nam. Đó là: tổ chức, quản lý, điều hành việc mua bán chứng khoán; quản lý điều hành hệ thống giao dịch; thực hiện hoạt động quản lý niêm yết, công bố thông tin, giám sát giao dịch, hoạt động đăng ký, lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán và một số hoạt động khác. Để thực hiện tốt các chức năng. Trung tâm có cơ cấu tổ chức khá chặt chẽ, bao gồm: một Giám đốc và hai Phó giám đốc, trong đó có một Phó giám đốc thường trực và 9 phòng ban. Có thể nói, tại thời điểm ra đời, TTGDCK TP.HCM gặp rất nhiều khó khăn như: hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung chưa được hoàn thiện, các văn bản điều chỉnh hoạt động trên thị trường chứng khoán còn nhiều bất cập, chồng chéo, chưa thống nhất...., đội ngũ cán bộ quản lý điều hành chưa có kinh nghiệm thực tiễn, sự hiểu biết của công chúng về đầu tư chứng khoán và TTCK còn nhiều hạn chế. Thêm vào đó, TTGDCK khai trương và chính thức đi vào hoạt động trong bối cảnh đất nước chưa thoát khỏi ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, tiền tệ khu vực, mức đầu tư cho nền kinh tế giảm sút, nhu cầu huy động vốn của các doanh nghiệp chưa cao, thu nhập bình quân đầu người còn quá thấp...Tuy vậy, sự quan tâm rất lớn của Chính phủ, các Bộ ngành, đặc biệt là sự chỉ đạo kịp thời, hiệu quả của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN), qua hơn 4 năm hoạt động TTGDCK TP.Hồ Chí Minh đã phát triển thành Sở giao dịch chứng khoán TP HCM (SGDCK TP HCM), về nhiều mặt, thực hiện tốt vai trò tổ chức và vận hành các hoạt động giao dịch chứng khoán trên thị trường tập trung thông suốt, an toàn và hiệu quả. Địa chỉ website của SGDCK Tp.HCM: 1.3.2.2. Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (Hnx) Ngày 11 tháng 07 năm 1998, Chính phủ ra Quyết định số 127/1998/QÐ-TTg thành lập hai Trung tâm giao dịch chứng khoán trực thuộc Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Theo đó, Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội, là đơn vị sự nghiệp có thu, có tư cách pháp nhân, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng, kinh phí hoạt động do ngân sách Nhà nước cấp. Biên chế của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội thuộc biên chế của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước. TTGDCK Hà Nội có các nhiệm vụ chủ yếu sau: - Tổ chức, quản lý, điều hành việc mua bán chứng khoán; - Quản lý, điều hành hệ thống giao dịch chứng khoán; - Cung cấp các dịch vụ hỗ trợ việc mua bán chứng khoán, dịch vụ lưu ký chứng khoán; - Thực hiện đăng ký chứng khoán. Ngày 8.3.2005 TTGDCK Hà Nội chính thức khai trương hoạt động, đánh dấu một bước phát triển mới của thị trường chứng khoán Việt Nam, hiện nay đã trở thành Sở Giao Dịch Chứng khoán Hà Nội (SGDCK Hà Nội) Website của SGDCK Hà Nội 1.3.3. Các công ty chứng khoán Công ty chứng khoán là một định chế tài chính trung gian thực hiện các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán. Tính đến thời điểm hiện tại, toàn thị trường đang có 105 công ty chứng khoán đang hoạt động như Công ty chứng khoán Sài Gòn (SSI), Bảo Việt (BVSC), Thăng Long (TLSC), VNdirect (VND), Kim Long (KLS), CK Việt Tin (CTS), Rồng Việt (VDSC)… Trong đó, quy mô hoạt động của các công ty mạnh về các lĩnh vực như tư vấn, đầu tư, tự doanh, margin… Cùng với đó là đội ngũ làm việc chuyên nghiệp, am hiểu thị trường ngày càng tăng về lượng cũng như về chất. Cơ cấu tổ chức: Cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán phụ thuộc vào loại hình nghiệp vụ chứng khoán mà công ty thực hiện cũng như qui mô hoạt động kinh doanh chứng khoán của nó: - Phòng môi giới, - Phòng tự doanh, - Phòng bảo lãnh phát hành, - Phòng quản lý danh mục đầu tư, - Phòng tư vấn tài chính đầu tư, - Phòng ký quỹ, 1.3.4 Các chủ thể tham gia thị trường Chứng khoán Chủ thể phát hành: bao gồm Chính phủ, các doanh nghiệp và các tổ chức khác theo quy định của pháp luật. Từ lúc bắt đầu thành lập thị trường giao dịch, chỉ có 2 cổ phiếu được niêm yết và giao dịch là REE và SAM với tổng giá trị 270 tỷ đồng. Chủ thể đầu tư: gồm có nhà đầu tư cá nhân (cá nhân và hộ gia đình) và các tổ chức đầu tư. Các chủ thể trung gian: là các tổ chức liên quan đến hoạt động của thị trường như Sở Giao dịch chứng khoán, thanh lý bù trừ và lưu ký chứng khoán, hiệp hội các nhà đầu tư… Có vai trò quan trọng trong việc đưa các nguồn cung và nguồn cầu chứng khoán khác nhau thông qua các hoạt động kinh doanh, môi giới, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư, quản lý quỹ, giao dịch mua bán chịu chứng khoán…Các trung gian này có thể hoạt động với tư cách thể nhân hoặc một pháp nhân. Người quản lý, giám sát hoạt động của thị trường chứng khoán là Ủy Ban chứng khoán, thường được tổ chức theo hình thức là một cơ quan chuyên trách, có vị trí pháp lý độc lập, thành viên là những quan chức của Bộ Tài chính, Ngân hàng trung ương, Bộ thương mại, Bộ Tư pháp, đại diện Sở giao dịch chứng khoán… 1.4 Nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam Chủ thể đầu tư bao gồm có nhà đầu tư (cá nhân và hộ gia đình) và các tổ chức đầu tư. Các nhà đầu tư cá nhân được định nghĩa là những người có dòng tiền nhàn rỗi mà không được sử dụng mang lại hiệu quả như mong muốn, họ luôn tìm kiếm những kênh đầu tư mang lại lợi nhuận cao nhất. Họ có thể là nhân viên, nội trợ, doanh nhân, nông dân, mà cũng có thể là sinh viên,… Điều quan trọng là họ quan tâm và muốn đầu tư vào thị trường chứng khoán. Các tổ chức đầu tư chính là tổ chức tài chính phi ngân hàng nhận tiền từ một lượng lớn nhà đầu tư cá nhân để tiến hành đầu tư vào các tài sản tài chính. Tuy nhiên, xét khía cạnh nhà đầu tư cá nhân, muốn đầu tư vào thị trường chứng khoán thì cần phải thỏa mãn được các yêu cầu tối thiểu như sau: 1.4.1 Kiến thức thị trường chứng khoán Đó là kiến thức về Chỉ số VN – index, cách thức giao dịch, mô hình hoạt động, đăng ký, lưu ký, các bản cáo bạch, báo cáo tài chính, chỉ số đánh giá….. của thị trường chứng khoán 1.4.1.1 Chỉ số chứng khoán Việt Nam VN – index: Chỉ số thị trường chứng khoán Việt Nam là chỉ số phản ánh mức giá trên thị trường trong một ngày cụ thể so với mức giá tại thời điểm gốc. Chỉ số được cấu thành bởi hai yếu tố là loại chứng khoán trọng số và giá của từng chứng khoán cấu thành. Chỉ số VN-index, HNx-index là chỉ số cho đại diện các cổ phiếu được niêm yết trên Hose và Hnx, các nhà đầu tư không cần phải biết cách tính các chỉ số mà chỉ cần hiểu được ý nghĩa của các chỉ số đó để sử dụng trong các quyết định đầu tư của mình, chẳng hạn như khi chỉ số VN – index tăng liên tục qua một số phiên giao dịch có thể gợi ý cho các nhà đầu tư nên mua vào; khi VN – index có xu hướng giảm thì nhà đầu tư nên chốt lời hoặc cắt lỗ,… 1.4.1.2 Giao dịch trên thị trường CK: Việc hiểu được giao dịch trên thị trường như các loại lệnh giao dịch, đơn vị giao dịch, đơn vị yết giá, biên độ giao dịch sẽ giúp cho các nhà đầu tư không những tránh phải viết sai nội dung trong lệnh, đỡ mất thời gian viết lại các lệnh giao dịch sai mà còn giúp nhà đầu tư đặt lệnh kịp lúc kịp thời trong một thời điểm…. 1.4.1.2.1 Các loại lệnh giao dịch: Giao dịch thực tế trên thị trường Chứng khoán Việt Nam phần lớn các lệnh giao dịch được nhà đầu tư sử dụng là lệnh giới hạn và lệnh thị trường. Lệnh ưu tiên (ATO, ATC) là loại lệnh được sử dụng rất phổ biến trong các giao dịch chứng khoán tương ứng phiên 1 và 3 của Hose. Khi sử dụng lệnh này, nhà đầu tư sẵn sàng chấp nhận mua hoặc bán theo mức giá của thị trường hiện tại và lệnh của nhà đầu tư luôn được thực hiện. Lệnh giới hạn (Limit order) là loại lệnh giao dịch trong đó người đặt lệnh đưa ra mức giá mua hay bán có thể chấp nhận đựoc. Lệnh dừng (Stop order) là loại lệnh đặc biệt để đảm bảo cho các nhà đầu tư có thể thu lợi nhuận tại một mức độ nhất định (bảo vệ lợi nhuận) và phòng chống rủi ro trong trường hợp giá chứng khoán chuyển động theo chiều hướng ngược lại. Lệnh sửa đổi là lệnh do nhà đầu tư đưa vào hệ thống để sửa đổi một số nội dung vào lệnh gốc đã đặt trước đó (giá, khối lượng, mua hay bán). Lệnh sửa đổi chỉ được chấp nhận khi lệnh gốc chưa được thực hiện, Lệnh huỷ bỏ (Cancel order) là lệnh do nhà đầu tư đưa vào hệ thống để huỷ bỏ lệnh đặt trước đó. Lệnh huỷ bỏ chỉ được chấp nhận khi lệnh gốc chưa được thực hiện 1.4.1.2.2 Đơn vị giao dịch: Các sở giao dịch thường có quy định về khối lượng giao dịch tối thiểu của một lệnh giao dịch gọi là lô (lot) chứng khoán. Đơn vị giao dịch là một trong những yếu tố có thể tác động đến cung - cầu trong giao dịch chứng khoán. Tại sàn Hose, đơn vị giao dịch thấp nhất là 1 lot = 10 Cp, Hnx 1 lot đơn vị là 100 Cp. Ngoài ra còn có giao dịch thỏa thuận với mỗi giao dịch thấp nhất là 20.000 Cp 1.4.1.2.3 Đơn vị yết giá: Đơn vị yết giá (quotation unit) là bước giá tối thiểu (tick side) trong giao dịch chứng khoán. Đơn vị yết giá là yếu tố có tác đông đến tính thanh khoản của chứng khoán cũng như hiệu quả đầu tư của nhà đầu tư. 1.4.1.2.4 Biên độ giao dịch: Hầu hết các sở giao dịch trên thế giới đều có những công cụ nhằm ngăn chặn những biến động bất thường của giá chứng khoán trong ngày giao dịch. Theo đó, lệnh giao dịch của nhà đầu tư khi đặt phải nằm trong khoảng biên độ cho phép: giới hạn trên (giá trần – ceiling) và giới hạn dưới (giá sàn – floor). Nó có thể đảm bảo tính ổn định của thị trường, góp phần củng cố lòng tin của công chứng đầu tư vào thị trường chứng khoán. Hose là 5%, Hnx là 7% 1.4.1.3 Hệ thống hoạt động công bố thông tin thị trường: Hoạt động công bố thông tin thị trưòng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNOP Bao cao nang cao hieu qua dau tu chung khoan Viet Nam.doc
  • docLỜI CAM ĐOAN+cam on+nhan xet cua GVHD.doc
  • docMỤC LỤC, danh muc danh muc viet tat.doc
  • docTrang ba tot nghiep.doc
Tài liệu liên quan