Luận văn Lợi nhuận và các biện pháp nâng cao lợi nhuận tại Công ty Sơn Hùng

Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận được coi là tiêu chí quan trọng, là mục tiêu cuối cùng của mỗi doanh nghiệp đều phải hướng tới. Khi tiến hành bất cứ một hoạt động kinh doanh nào, người ta đều phải tính toán đến lợi nhuận mà mình có thể thu được từ hoạt động đó. Bởi dưới tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải lấy hiệu quả kinh tế làm mục tiêu hàng đầu. Sử dụng một cách tốt nhất các nguồn lực của mình, chú trọng hạch toán kinh tế đảm bảo nguyên tắc lấy thu bù chi và có lợi nhuận. Chỉ khi nào doanh nghiệp có lợi nhuận thì mới có điều kiện tích luỹ để tái sản xuất mở rộng, thực hiện các vấn đề phúc lợi đối với công nhân viên, và đối với xã hội. Từ đó nâng cao uy tín và thế lực của mình trên thương trường cũng như không ngừng đáp ứng nhu câù ngày càng cao của xã hội. Biết được tầm quan trọng của lợi nhuận, song làm thế nào để mang lại lợi nhuận và lợi nhuận cao lại là một bài toán khó. Do vậy, các biện pháp để nâng cao lợi nhuận trong doanh nghiệp luôn thu hút được sự quan tâm của nhiều người.

doc77 trang | Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1315 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Lợi nhuận và các biện pháp nâng cao lợi nhuận tại Công ty Sơn Hùng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận được coi là tiêu chí quan trọng, là mục tiêu cuối cùng của mỗi doanh nghiệp đều phải hướng tới. Khi tiến hành bất cứ một hoạt động kinh doanh nào, người ta đều phải tính toán đến lợi nhuận mà mình có thể thu được từ hoạt động đó. Bởi dưới tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải lấy hiệu quả kinh tế làm mục tiêu hàng đầu. Sử dụng một cách tốt nhất các nguồn lực của mình, chú trọng hạch toán kinh tế đảm bảo nguyên tắc lấy thu bù chi và có lợi nhuận. Chỉ khi nào doanh nghiệp có lợi nhuận thì mới có điều kiện tích luỹ để tái sản xuất mở rộng, thực hiện các vấn đề phúc lợi đối với công nhân viên, và đối với xã hội. Từ đó nâng cao uy tín và thế lực của mình trên thương trường cũng như không ngừng đáp ứng nhu câù ngày càng cao của xã hội. Biết được tầm quan trọng của lợi nhuận, song làm thế nào để mang lại lợi nhuận và lợi nhuận cao lại là một bài toán khó. Do vậy, các biện pháp để nâng cao lợi nhuận trong doanh nghiệp luôn thu hút được sự quan tâm của nhiều người. Nhận thức được tầm quan trọng của lợi nhuận đối với sự lớn mạnh của doanh nghiệp, trên cơ sở lý luận kết hợp với thực tiễn tìm hiểu tại Công ty Sơn Hùng, em đã chọn đề tài: “Lợi nhuận và các biện pháp nâng cao lợi nhuận tại Công ty Sơn Hùng” làm đề tài luận văn tốt nghiệp. Kết cấu luận văn:. Ngoài lời nói đầu, mục lục, danh mục, tài liệu tham khảo, kết luận, luận văn được trình bày 3 phần: Chương I: Lý luận chung về lợi nhuận và các biện pháp nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp. Chương II: Tình hình thực hiện và các giải pháp nâng cao lợi nhuận của Công ty Sơn Hùng. Chương III: Một số biện pháp đề xuất nhằm nâng cao lợi nhuận của Công ty Sơn Hùng. Bản luận văn này được hoàn thành với sự hướng dẫn tận tình của Cô giáo hướng dẫn trực tiếp và các thầy cô giáo trong bộ môn Tài chính, sự giúp đỡ chỉ bảo nhiệt tình của các cô chú phòng kế toán, ban giám đốc Công ty Sơn Hùng. Qua đây cho phép em được gửi tới các thầy cô giáo, các cô chú lời chúc sức khoẻ, lời cảm ơn chân thành nhất. CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỢI NHUẬN VÀ CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO LỢI NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP I. LỢI NHUẬN VAI TRÒ VÀ BẢN CHẤT CỦA LỢI NHUẬN. 1. Khái niệm lợi nhuận. Để tồn tại và phát triển nền sản xuất xã hội đòi hỏi phải tồn tại và phát triển các doanh nghiệp. Muốn tồn tại và phát triển doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường buộc các doanh nghiệp phải làm ăn có hiệu quả và mang lại lợi nhuận. Lợi nhuận được coi là mục tiêu kinh tế tối quan trọng, là điều kiện sống còn của doanh nghiệp. Có thể trong một thời kỳ nào đó mục tiêu lợi nhuận không được đặt lên hàng đầu của doanh nghiệp, song nếu xem xét về lâu dài thì mục đích cuối cùng của hoạt động trong doanh nghiệp là đi tìm kiếm lợi nhuận. Lợi nhuận càng cao thì doanh nghiệp sẽ ngày càng mở rộng được quy mô và phát triển vững chắc hơn. Ngày nay nhu cầu của con người ngày càng cao, do vậy sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp cung ứng ra thị trường đòi hỏi phải có chất lượng cao. Trong khi đó các doanh nghiệp bỏ tiền vốn công sức vào quá trình sản xuất kinh doanh, họ muốn bỏ ra chi phí thấp nhất nhưng phải thu được sản phẩm có chất lượng cao để bán ra với mức giá cao, sau khi trừ đi chi phí còn một khoản chênh lệch là lợi nhuận, khoản chênh lệch này sẽ giúp họ không chỉ tái sản xuất giản đơn mà còn tái sản xuất mở rộng, không ngừng tích lũy phát triển tái sản xuất, củng cố và nâng cao vị trí của mình trên thương trường, từ đó doanh nghiệp ngày càng thoả mãn tối ưu nhu cầu tiêu dùng của con người. Vậy lợi nhuận là gì? Một cách khái quát có thể hiểu lợi nhuận là phần chênh lệch giữa thu nhập phát sinh và chi phí phát sinh để tạo ra thu nhập trong một thời kỳ nào đó. Lợi nhuận = å thu nhập - å chi phí Trong đó lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh là khoản chênh lệch giữa doanh thu hoạt động sản xuất kinh doanh trừ đi giá thành toàn bộ của hàng hoá, dịch vụ đã tiêu thụ và những khoản thu theo quy định của nhà nước. Tuy nhiên dưới tác động của cơ chế thị trường, doanh nghiệp không phải chỉ hoạt động sản xuất kinh doanh. Để tồn tại, phát triển và tận dụng hết các nguồn lực của mình, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng thêm lợi nhuận cho doanh nghiệp, doanh nghiệp còn phải ra sức phát triển các hoạt động tài chính, hoạt động khác nhằm thu hút được lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận bất thường. Tương tự như lợi nhuận hoạt động kinh doanh, lợi nhuận từ hai hoạt động này cũng bằng thu nhập hoạt động tài chính (bất thường) trừ đi chi phí hoạt động tài chính (bất thường). Lợi nhuận được coi là chỉ tiêu quan trọng nhất và là chỉ tiêu phản ánh kết quả tài chính cuối cùng của các hoạt động trong doanh nghiệp. Nó là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp đánh giá hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp. 2. Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận. Cùng với sự ra đời của nền kinh tế hàng hoá, hàng hoá được đem ra mua bán trao đổi thì khái niệm lợi nhuận cũng xuất hiện. Theo thời gian và sự phát triển của nền kinh tế lợi nhuận luôn là đề tài gây tranh cãi của rất nhiều trường phái, nhiều nhà lý luận kinh tế. Tiêu biểu cho trường phái kinh tế học cổ điển, Adam Smith là người đầu tiêu có công nghiên cứu khá toàn diện về bản chất nguồn gốc của lợi nhuânj. Ông xuất phát từ quan điểm giá trị trao đổi của hàng hoá là do lao động sản xuất ra hàng hoá đó quyết định từ đó đặt nền tảng cho các lý thuyết về kinh tế thị trường. Ông đã bác bỏ quan điểm cho rằng giá trị trao đổi được quyết định bởi tính hữu ích của hàng hoá. Ông khẳng định giá trị hàng hoá quyết định giá trị trao đổi,trong cấu thành giá trị có tiền lương, địa tô và lợi nhuận. Theo A.Smith lợi nhuận của các nhà tư bản tạo ra trong quá trình sản xuất là biểu hiện khác của giá trị thặng dư do người lao động tạo ra. Ông đưa ra định nghĩa “Lợi nhuận là khoản khấu trừ thứ 2 vào sản phẩm của lao động” (khoản khấu trừ thứ nhất là địa tô, tức là tiền cho việc sử dụng đất). A.Smith còn cho rằng không chỉ có lao động nông nghiệp mà cả lao động công nghiệp cũng tạo ra lợi nhuận, tư bản cho vay nhận được lợi tức cho vay, tư bản ngân hàng nhận được lợi nhuận ngân hàng khi kinh doanh nghiệp vụ ngân hàng... đó là biểu hiện khác của lợi nhuận tạo ra trong quá trình sản xuất kinh doanh. Sau A.Smith, David Ricardo và những người kế tục đã xây dựng học thuyết của mình trên cơ sở những tiền đề và phát triển của A.Smith, D.Ricardo cũng dựa vào giá trị lao động để phân tích nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận trong sản xuất kinh doanh tư bản chủ nghĩa. D.Ricardo khẳng định lao động là nguồn gốc của giá trị, giá trị hàng hoá, sản phẩm lao động được phân thành các nguồn thu nhập – tiền lương, địa tô và lợi nhuận. Cũng như A.Smith, D.Ricardo cho rằng phần giá trị do công nhân tạo ra lớn hơn tiền công mà họ lĩnh, tức là trong giá trị mới sáng tạo ra từ lao động có thặng dư là giá trị do công nhân làm ra đã không được trả công. Từ đó ông kết luận “Lợi nhuận chính là phần lao động thừa ra ngoài tiền lương lợi nhuận là lao động không được trả công của công nhân”. Khác biệt với các học thuyết giá trị lao động ở trên là lý luận “Tính hữu dụng” của J.Batixay cho rằng hoạt động sản xuất tạo ra tính hữu dụng hay giá trị sử dụng lại truyền giá trị cho các vật phẩm. Giá trị trở thành thước đo tính hữu dụng có nghĩa là ông đã đồng nhất giá trị và giá trị sử dụng. Ông cho rằng không những lao động tạo ra giá trị mà tư bản cũng tạo ra giá trị. Để thực hiện quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa có 3 yếu tố tham gia: Lao động, tư bản, ruộng đất. Mỗi yếu tố đều có “công phục vụ” mà cái gì tạo ra phục vụ đều là sản xuất. Đây là tiền đề quan trọng mà J.Batixay đề ra trong nguyên tắc phân phối thu nhập trong xã hội tư bản: + Công nhân làm thuê nhận được tiền công từ sản phẩm lao động. + Chủ ruộng đất nhận được lợi nhuận từ việc nhượng quyền sử dụng cho các tư bản công nghiệp. + Chủ tư bản nhận được lợi nhuận từ các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Theo J.Batixay về bản chất lợi nhuận là tiền thưởng thích đáng cho việc đầu tư tư bản vào kinh doanh, là một hình thức tiền công đặc biệt mà nhà tư bản tự trả cho mình. Quan điểm này của J.Batixay rất gần với quan điểm “mọi lao động đều được trả công sòng phẳng” của kinh tế tư bản hiện đại. Các quan điểm trên đều được xem xét để làm tiền đề cho xây dựng lý luận lợi nhuận, tuỳ thuộc vào đẳng cấp của mỗi người trong xã hội mà sẽ có các quan điểm đúng, sai đồng ý hoặc không đồng ý với các quan điểm của các nhà kinh tế học đã đưa ra. Song có lẽ quan điểm được nhiều người ủng hộ nhất và có tính thuyết phục nhất đó là quan điểm về lợi nhuận của Các Mác. Kế thừa những nguyên lý đúng đắn khoa học của những nhà lý luận tiền bối. Các Mác đã nghiên cứu một cách toàn diện triệt để về nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận trong kinh doanh tư bản chủ nghĩa. Dựa trên lý luận giá trị lao động, Các Mác đã phát hiện và vạch rõ toàn bộ quá trình sản xuất giá trị thặng dư dưới chủ nghĩa tư bản, điều mà các nhà tiền bối của ông chưa làm được. Các Mác khẳng định: về nguồn gốc lợi nhuận là do lao động làm thuê tạo ra, về bản chất lợi nhuận là hình thái biểu hiện của giá trị thặng dư, là kết quả của lao động không được trả công. Để vạch rõ sự hình thành lợi nhuận trong sản xuất kinh doanh tư bản chủ nghĩa Các Mác đã bắt đầu từ chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa. Để sản xuất ra hàng hoá có giá trị là c +v + m; trong đó c là tư bản bất biến, là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức nguyên nhiên vật liệu, máy móc thiết bị, v là tư bản khả biến là bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động và m là giá trị thặng dư, là giá trị do người lao động tạo ra không được trả công, nhà tư bản chỉ phải bỏ ra lương tư bản c + v; c + v được gọi là chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa (ký hiệu là K) khi đưa ra hàng hoá trao đổi trên thị trường thì theo quy luật giá trị, giá bán nhất trí với giá trị của hàng hoá là C+V+m. Do vậy nhà tư bản thu được một khoản tiền lớn hơn chi phí mà họ đã bỏ ra. Số chênh lệch này được gọi là lợi nhuận ký hiệu là P. Giá trị hàng hoá có thể viết lại thành K+P. Như vậy dường như lợi nhuận là do tư bản ứng trước sinh ra nhưng thực chất nó chỉ là một hình thaí biểu hiện của giá trị thặng dư mà thôi. Dưới tác động của quy luật cung cầu giá bán không phải luôn bằng giá trị mà nó dao động xung quanh gí trị, do vậy mà lợi nhuận không phải lúc nào cũng bằng giá trị thặng dư. Tư bản hoạt động trong lĩnh vực thương nghiệp thuần tuý mặc dù không tạo ra giá trị và giá trị thặng dư nhưng vẫn thu được lợi nhuận. Sở dĩ tư bản thương nghiệp vẫn thu được lợi nhuận là vì tư bản công nghiệp nhường cho tư bản thương nghiệp một phần giá trị thặng dư tạo ra trong quá trình sản xuất kinh doanh để tư bản thương nghiệp thực hiện giá trị hàng hoá cho tư bản công nghiệp. Do vậy nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận thương nghiệp cũng từ giá trị thặng dư mà ra. Tóm lại: - Lợi nhuận là phạm trù kinh tế của nền kinh tế hàng hoá nói chung, một nền kinh tế mà trong quan hệ sản xuất của nó nội tại các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. - Lợi nhuận của sản xuất và kinh doanh là hìn thái biểu hiện của giá trị thặng dư. Trong nền sản xuất xã hội có sự đối lập giữa chủ doanh nghiệp và người làm thuê, lợi nhuận thể hiện mâu thuẫn về quyền lợi kinh tế, biểu hiện quan hệ bóc lột, nô dịch. - Lợi nhuận của hoạt động sản xuất kinh doanh có quan hệ chặt chẽ với tiền công trả cho việc thuê lao động. Với tư cách là một yêu tố chi phí, tiền công có xu hướng vận động ngược chiều với lợi nhuận, năng suất lao động tăng lên thì tiền công giảm xuống. Trên đây là các quan điểm về nguồn gốc lợi nhuận của các nhà kinh tế học cổ điển, hiện nay theo sự phát triển của nền kinh tế những quan điểm này vẫn được coi là tiền đề để xây dựng khái niệm lợi nhuận. Song để phù hợp với với xu thế phát triển của nền kinh tế thì ngày nay người ta đánh giá lợi nhuận thông qua phần thu nhập (hoặc là doanh thu thuần) và chi phí bỏ ra để mang lại thu nhập. Điều này về nền móng vẫn dựa vào các quan điểm như trên nhưng cách gọi và cách xác định có những sự thay đổi để phù hợp hơn. Thật vậy, lợi nhuận chính là khoản chênh lệch giữa thu nhập và chi phí. Lợi nhuận = Doanh thu- chi phí Doanh thu được hiểu là giá trị hàng hoá dịch vụ tiêu thụ trong một thời kỳ nhất định. Chi phí kinh doanh là tất cả các phí tổn mà doanh nghiệp phải bỏ ra để đạt được doanh thu trong một thời kỳ xác định nào đó. Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận cao hơn là khát vọng và mục tiêu mong đợi nhất của các doanh nghiệp. Để đạt được lợi nhuận cao các doanh nghiệp luôn phấn đấu tối đa hoá lợi nhuận và tối thiểu hoá chi phí. Song trong nền kinh tế thị trường, dưới sự cạnh tranh khốc liệt của các đối thủ, việc tối đa hoá lợi nhuận, tối thiểu hoá chi phí dường như là một bài toán khó đối với tất cả các doanh nghiệp, bất kỳ doanh nghiệp nào sản xuất đều phải giải bài toán này, song để tìm được đáp án tối ưu thì thật không dễ và cũng không nhiều doanh nghiệp làm được điều này. Như chúng ta biết quy luật cung cầu thị trường khi giá cả làm cho lượng cung và lượng cầu bằng nhau thì thị trường bán hết hàng hay thị trường ở trạng thái cân bằng. Nếu có một sự thay đổi về cung sẽ dẫn đến thay đổi về cầu và ngược lại, từ đó kéo theo giá cả thay đổi và sẽ có sự thay đổi về doanh thu, thông thường các doanh nghiệp luôn mong có lợi nhuận cao bằng cách mở rộng quy mô kinh doanh, tăng doanh thu. Nhưng doanh thu tăng thì kéo theo chi phí tăng, nếu chi phí tăng chậm hơn doanh thu thì lợi nhuận sẽ tăng, doanh nghiệp đạt được mục tiêu đề ra. Do vậy giữa vấn đề tăng lợi nhuận và tăng doanh thu khôn đồng nghĩa với nhau, khi tăng doanh thu để đạt được cao thì các doanh nghiệp phải lựa chọn kỹ thuật các yếu tố đầu vào, và tính toán sao cho chi phí tăng chậm hơn doanh thu. Và chỉ khi nào doanh thu đạt được lớn hơn chi phí bỏ ra thì doanh nghiệp mới có thể tiếp tục sản xuất kinh doanh, nếu không doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất thậm chí ngừng hoặc đóng cửa hoàn toàn. Ta có sơ đồ tóm tắt như sau : Chi phí sản xuất kinh doanh (yếu tố đầu vào) DN quyết định mức sản lượng cần sản xuất cho thị trường Doanh thu (đầu ra) Chi phí cố định Chi phí biến đổi Lợi nhuận Giá thành sản phẩm hàng hoá dịch vụ Sản lượng DN cung cấp cho thị trường Thị trường các yếu tố sản xuất kinh doanh (lao động, vốn) DN quyết định tiếp tục sản xuất kinh doanh, giảm sản lượng hoặc đóng cửa Nhu cầu của thị trường đối với sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ của DN Việc mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, phát triển thị trường được coi là một nhiệm vụ hết sức quan trọng của doanh nghiệp, nó giúp cho doanh nghiệp có thể đứng vững trong nền kinh tế thị trường dưới sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp khá. Nhưng thực tế thì việc tăng sản lượng, tăng doanh thu đồng nghĩa với việc tăng chi phí đầu vào. Đây dường như là một mâu thuẫn lớn đối với các doanh nghiệp trong quá trình tìm kiếm lợi nhuận. Vấn đề đặt ra là phải tăng thêm bao nhiêu đầu vào, nói cách khác là sản xuất thêm sản lượng bao nhiêu để đạt được lợi nhuận tối đa. Khi mức sản lượng tăng lên một lượng nhất định, doanh thu tăng thêm, doanh nghiệp phải chi thêm một lượng chi phí. Lượng doanh thu tăng thêm khi tăng một đơn vị sản lượng đó gọi là doanh thu biên; chi phí cho một đơn vị sản lượng tăng thêm được gọi là chi phí biên. Doanh thu biên và chi phí biên phụ thuộc vào nhiều yếu tố như các quy luật của thị trường. Kỹ thuật và quy trình công nghệ được sử dụng trong doanh nghiệp, năng suất lao động. Doanh thu biên và chi phí biên có sự thay đổi theo thời gian, lĩnh vực kinh doanh và loại thị trường của các doanh nghiệp. MR, MC MC E Q O Sản lượng MR Lãi Lỗ Đồ thị sau sẽ mô tả mức sản lượng tối ưu mà doanh nghiệp cần đạt được thông qua việc nghiên cứu doanh thu biên và chi phí biên. MC: đường chi phí biên MR: đường doanh thu biên Đồ thị cho thấy MR là một đường dốc xuống, MC là đường ban đầu đi xuống sau đó đi lên liên tục. MR cắt MC tại Q*, lúc này sản lượng đạt được Q* là sản lượng tối ưu, mức sản lượng này làm cho doanh nghiệp tối đa hoá lợi nhuận. Ở mức sản lượng Q MC (chi phí biên) doanh nghiệp nên tăng sản lượng từ Q đến Q* để tránh bỏ sót lợi nhuận. Ở mức sản lượng Q>Q* thì MC >MR khi đó tăng thêm một đơn vị sản lượng sẽ làm cho chi phí tăng thêm cao hơn doanh thu tăng thêm, doanh nghiệp bị lỗ để đảm bảo có lợi nhuận doanh nghiệp cần phải thu hẹp quy mô sản xuất để đạt sản lượng tại Q* (mức sản lượng tối ưu) mang lại lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp. Ngoài ra trên thị trường còn có một số yếu tố khác cũng chi phối đến doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp như cung cầu, thị trường các yếu tố đầu vào. MR, MC Q1 O Sản lượng Q* MC E’ E MR MR’ MR, MC Q1 O Sản lượng Q* E E’’ Trường hợp a): khi thị trường kham hiếm hàng hoá, cầu thị trường đối với sản phẩm của doanh nghiệp tăng lên và giá sản phẩm mà nó dự tính bán ra cũng tăng, đường cầu dịch chuyển và do đó đường MR cũng dịch lên trên đến MT’. Tại đây doanh nghiệp có thể sản xuất ở mức sản lượng Q1, Q1>Q*. Nhu cầu cao hơn đã kích thích doanh nghiệp tăng sản lượng Q* đến Q1 để không bỏ lỡ cơ hội tăng doanh thu và tăng lợi nhuận. Trường hợp b): Trường hợp này các yếu tố sản xuất tăng giá (giá đầu vào tăng). Tại mỗi mức sản lượng, chi phí biên sẽ tăng thêm đường MC bị đẩy lên thành MC’. Nếu tiếp tục sản xuất ở mức sản lượng của Q* thì MC> MR, doanh thu biên không đủ bù đắp chi phí biên, để đảm bảo tối đa hoá lợi nhuận doanh nghiệp cần phải sản xuất ở E’’, tại đó sản lượng tối ưu là Q2, Q2<* 3. Vai trò của lợi nhuận Hiện nay lợi nhuận được coi là một yếu tố quyết định sự sống còn của doanh nghiệp. Sở dĩ như vậy vì trong nền kinh tế thị trường với cơ chế hạch toán, kinh tế độc lập lời ăn, lỗ chịu, để đảm bảo có tái sản xuất và tái sản xuất mở rộng các doanh nghiệp buộc phải làm ăn có lãi (lợi nhuận) thì mới thực hiện được điều này, mới tồn tại và đứng vững được. Khi nhìn nhận đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp chỉ tiêu đầu tiền cần phải quan tâm đó là lợi nhuận, lợi nhuận cao chứng tỏ doanh nghiệp đó hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả tốt và ngược lại. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được thể hiện trên 3 phạm vi chính: Mức nộp ngân sách nhà nước, đảm bảo đời sống cán bộ công nhân viên và mở rộng sản xuất kinh doanh. Như vậy một chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả hoạt đông của doanh nghiệp đó là tiền lương, tiền lương là thu nhập của cán bộ công nhân viên, nhưng nó lại là chi phí của doanh nghiệp. Mục đích của doanh nghiệp là tăng lợi nhuận và giảm chi phí, mục đích của người lao động là thu nhập cao. Phải chăng có sự mâu thuẫn giữa lợi nhuận của doanh nghiệp với thu nhập của người lao động. Điều này không phải hoàn toàn như vậy bởi khi doanh nghiệp bỏ tiền ra thuê sức lao động là thực hiện đầu tư vào sản xuất kinh doanh nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Chi phí thuê sức lao động sẽ được bù đắp ở kết quả lao động, năng suất lao động được cải thiện là điều kiện để doanh nghiệp tăng lợi nhuận. Người lao động nhận được tiền công vừa đảm bảo cho nhu cầu vật chất cần thiết cho cuộc sống vừa thực hiện tái sản xuất mở rộng sức lao động. Khi doanh nghiệp có lợi nhuận, nó sẽ là nguồn tích lũy quan trọng để doanh nghiệp bổ xung vốn cố định và vốn lưu động, tạo điều kiện để mở rộng sản xuất kinh doanh, để bù đắp những thiệt hại rủi ro trong kinh doanh bởi có lợi nhuận mới có thể trích lập các quỹ như: quỹ đầu tư phát triển sản xuất, quỹ dự phòng tài chính, quỹ dự phòng mất việc làm, quỹ khen thưởng, phúc lợi... sử dụng các quỹ này doanh nghiệp có thể đáp ứng được các đòi hỏi của việc mở rộng sản xuất kinh doanh như mua sắm thêm máy móc thiết bị, khuyến khích cải tiến đổi mới quy trình công nghệ và cũng chính từ các quỹ này doanh nghiệp không ngừng nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên về mọi mặt, góp phần kích thích người lao động gắn bó với doanh nghiệp, tận tâm tận lực để thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Đồng thời, lợi nhuận khẳng định vị trí của doanh nghiệp trên thương trường. Doanh nghiệp có lợi nhuận chứng tỏ doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, sử dụng vốn kinh doanh hợp lý, trình độ