Một số vấn đề trong việc thừa nhận quyền lập di chúc chung của Vợ - Chồng

Nhiều luật gia ủng hộ cho quyền lập di chúc chung của vợ, chồng để định đoạt tài sản chung, thay vì mỗi bên chỉ được lập di chúc cá nhân. Vấn đề tưởng chừng như đơn giản và không có gì phải bàn cãi, vì quan điểm ấy không chỉ được bênh vực bởi luân lý mà còn được thừa nhận cả về mặt pháp lý. Nhưng qua công tác nghiên cứu, giảng dạy cũng như qua tiếp cận với thực tiễn pháp lý về di chúc chung của vợ, chồng đã cho thấy, đây là một vấn đề khá phức tạp mà luật hiện hành chưa qui định đầy đủ, rõ ràng. Các thiếu sót, bất cập của luật, đã dẫn tới hậu quả là, làm cho vấn đề này càng trở nên rắc rối thêm, thậm chí còn tạo ra nhiều mâu thuẫn so với các qui định khác có liên quan. Từ đó, đòi hỏi cần phải lật lại vấn đề: liệu Bộ luật Dân sự (BLDS) 2005 có nên tiếp tục thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ, chồng để định đoạt tài sản chun của họ hai không?

doc27 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1315 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số vấn đề trong việc thừa nhận quyền lập di chúc chung của Vợ - Chồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A . PHẦN MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Nhiều luật gia ủng hộ cho quyền lập di chúc chung của vợ, chồng để định đoạt tài sản chung, thay vì mỗi bên chỉ được lập di chúc cá nhân. Vấn đề tưởng chừng như đơn giản và không có gì phải bàn cãi, vì quan điểm ấy không chỉ được bênh vực bởi luân lý mà còn được thừa nhận cả về mặt pháp lý. Nhưng qua công tác nghiên cứu, giảng dạy cũng như qua tiếp cận với thực tiễn pháp lý về di chúc chung của vợ, chồng đã cho thấy, đây là một vấn đề khá phức tạp mà luật hiện hành chưa qui định đầy đủ, rõ ràng. Các thiếu sót, bất cập của luật, đã dẫn tới hậu quả là, làm cho vấn đề này càng trở nên rắc rối thêm, thậm chí còn tạo ra nhiều mâu thuẫn so với các qui định khác có liên quan. Từ đó, đòi hỏi cần phải lật lại vấn đề: liệu Bộ luật Dân sự (BLDS) 2005 có nên tiếp tục thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ, chồng để định đoạt tài sản chun của họ hai không? 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Việc nghiên cứu và viết báo cáo thực tập thực tế là một nhiệm vụ của sinh viên Luật năm thứ 4 trong chương trình đào tạo Đại học Luật. Qua đó, giúp cho sinh viên hình thành phương pháp nghiên cứu khoa học pháp lý, hệ thống hóa những kiến thức đã được truyền đạt của giảng viên qua những bài giảng, giáo trình và các tài liệu tham khảo khác. Đồng thời, việc nghiên cứu cũng sẽ giúp sinh viên có sự liên hệ giữa lý luận và thực tiễn nhằm thực hiện tốt phương pháp học tập “học phải đi đôi với hành” để nâng cao hiệu quả của việc học tập hiện tại cũng như quá trình làm việc sau này. Do tính đa dạng, phức tạp của vấn đề, cùng thời gian thực tập không được nhiều, nguồn tài liệu còn hạn chế…nên đề tài khó tránh khỏi những khiếm khuyết. Kính mong nhận được sự hướng dẫn, nhận xét của quý thầy cô, và sự đóng góp của các bạn lớp Luật K31 để đề tài này được hoàn chỉnh hơn. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Trong khuôn khổ một báo cáo thực tập và thời gian hạn chế, vì vậy không thể đi sâu vào nghiên cứu toàn bộ văn bản, các quy định của pháp luật về vấn đề này. Ở đây chỉ tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về vấn đề thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ - chồng được quy định trong bộ luật dân sự 2005.Do vậy, đề tài chỉ tập trung phân tích vấn đề nêu trên qua đó tìm ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các chế định của pháp luật xung quanh vấn đề thừa nhận quyền lập di chúc chung của vơ - chồng. 4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài Với phương châm nghiên cứu đề tài một cách toàn diện, có hệ thống, chúng ta luôn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Đặt sự vật, hiện tượng trong một trạng thái động theo mối quan hệ biện chứng để từ đó phân tích đánh giá vấn đề một cách khách quan trong tinh thần thấm nhuần các đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Từ đối tượng nghiên cứu đã trình bày ở trên nên phương pháp nghien cứu đươc áp dung trong quá trình nghiên cứu là : Phương pháp tổng hợp – liệt kê Phương pháp phân tích – so sánh Phương pháp chứng minh 5. Bố cục của đề tài A.Phần mở đầu B.Phần nội dung Chương 1 Cơ sở lý luận về một số vấn đề về việc thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ - chồng 1.1.Một số vấn đề về việc lập di chúc chung của vợ chồng 1.1.1.Các văn bản pháp luật hiện hành liên quan 1.1.2.Di chúc và di chúc chung của vợ - chồng Chương 2 Một số vấn đề trong việc thừa nhận quyền lập di chúc chung của vơ - chồng 2.1.Lịch sử vấn đề và nhữn thiếu sót, bất cập trong các qui định của pháp luật hiện hành về di chúc chung của vợ - chồng 2.1.1.Sơ lược lịch sử vấn đề 2.1.2.Quyền lập di chúc chung của vợ - chồng và nguyên tắc tự nguyện cá nhân trong việc lập di chúc 2.1.3.Nội dung và mục đích của di chúc chung của vợ - chồng 2.1.4.Hình thức của di chúc chung của vơ - chồng 2.1.5.Quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung 2.1.6.Hiệu lực của di chúc chung của vợ - chồng 2.1.7.Vấn đề chấm dứt sự tồn tại của di chúc chung 2.2.Một số giải pháp và kiến nghị 2.2.1.Có nên tiếp tục thừa nhận di chúc chung của vơ - chồng 2.2.2.Trường hợp không thể bãi bỏ các qui định về di chúc chung trong luật thực định, thì cần có những thay đổi toàn diện về vấn đề này trong bộ luật dân sự 2005. C.Kết luận Tài liệu tham khảo B. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ VIỆC THỪA NHẬN QUYỀN LẬP DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ - CHỒNG 1.1. Một số vấn đề chung về di chúc chung của Vợ - Chồng 1.1.1. Các văn bản pháp luật hiện hành liên quan -BLDS 2005 -Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 -Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 1.1.2. Một số khái niệm - Di chúc Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết (Điều 646 BLDS 2005). Di chúc là sự bày tỏ ý chí của một người khi còn sống định đoạt tài sản của mình, để chuyển toàn bộ hoặc một phần tàỉ sản của người đó cho một hay nhiều người thừa kế sau khi người đó chết. Sự bày tỏ ý chí này được biểu hiện hoăc bằng giấy tờ (di chúc viết), hoặc bằng lời nói miệng (di chúc miệng), thường là lời dặn dò, lời trăng trối khi hấp hối. Hành vi bày tỏ ý chí này bằng giấy tờ, hoặc lời nói miệng gọi là lập di chúc. Di chúc là hành vi pháp lý đơn phương. Tức là chỉ có sự thể hiện ý chí của một bên la người lập di chúc. Một di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:        Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;         Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật -Di chúc chung của vợ_chồng Vợ, chồng có thê lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung (điều 663 BLDS 2005) Thông thường di chúc do một cá nhân lập để định đoạt tài sản của bản thân mình sau khi chết, đây là hành vi pháp lý đơn phương và được thực hiện theo quyết định của từng cá nhân.Tuy nhiên, BLDS 2005 cũng như luật Hôn nhân va gia đình 2000 lại có qui định một trường hợp ngoại lệ, vợ chồng có thể lập di chúc chung để định đoat tài sản chung của vợ, chồng. Theo qui định tại điều 27 luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 “Tài sản chung của vợ, chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, khinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ, chồng trong thời kì hôn nhân; tài sản mà vợ, chồng được thừa kế chung hoặc tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ, chồng thoả thuận là tài sản chung”. Trên cơ sở xác định tài sản chung của vợ, chồng là tài sản sở hữu chung hợp nhất việc chiếm hữu, sử dụng định đoạt tài sản chung phải dựa trên sự nhất trí của vợ - chồng. Do đó, vợ - chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung. Tuy nhiên việc lập di chúc chung cũng phải dựa trên cơ sở tự nguyện, thống nhất ý chí của cả vợ, chồng. Nếu vợ - chồng không tống nhất được ý chí chung , thì họ vẫn có thể lập di chúc riêng. Mỗi người được quyền lập di chúc để định đoạt một nữa khối tài sản chung hợp nhất của vợ, chồng và những tài sản thuộc sở hữu riêng của người đó. 1.1.3. Các trường hợp được công nhận là vợ - Chồng theo pháp luật hiện hành Căn cứ nghị quyết 35/2000/QH10 về thi hành luật hôn nhân gia đình năm 2000 các trường hợp sau được công nhận là vợ, chồng: a) Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 01 năm 1987, ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Tòa án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000;  b) Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03 tháng 01 năm 1987 đến ngày 01 tháng 01 năm 2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực cho đến ngày 01 tháng 01 năm 2003; trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hôn, nhưng có yêu cầu ly hôn thì Tòa án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết. Từ sau ngày 01 tháng 01 năm 2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng; c) Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 3 của Nghị quyết này, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng; nếu có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì Tòa án áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết. 1.1.4. Chủ thể và các trường hợp được lập di chúc Lập di chúc là việc một người định đoạt chuyển quyền sở hữu tài sản (quyền sở hữu tài sản) của mình cho người khác sau khi mình chết. Như vậy trước tiên, người lập di chúc phải là chủ sở hữu tài sản (người sử dụng tài sản). Tiếp đến, người lập di chúc phải có khả năng thể hiện rõ ý chí của mình trong việc định đoạt tài sản của mình. Theo quy định tại Điều 647 Bộ luật  Dân Sự (BLDS 2005), chủ thể co quyền lập di chúc bao gồm những người sau đây:          Người đã thành niên có quyền lập di chúc, trừ trường hợp người đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnhkhác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình( khoản 1). Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có thể lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý( khoản 2). Quy định tại điều 647 BLDS 2005 đã làm sáng tỏ một số điều kiện và cũng là căn cứ để xác định chủ thể lập di chúc. Nhìn chung, chủ thể lập di chúc là người định đoạt tài sản của mình thông qua hành vi pháp lý đơn phương của họ. Vì vậy điều kiện về độ tuổi và năng lực trí tuệ của cá nhân người lập di chúc là điều kiện tiên quyết trong việc xác định di chúc có giá trị pháp lý hay không có giá trị pháp lý. CHƯƠNG 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG VIỆC THỪA NHẬN QUYỀN LẬP DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ - CHỒNG 2.1.Lịch sử vấn đề và những thiếu sót, bất cập trong các qui định của pháp luật hiện hành về di chúc chung của vợ - chồng 2.1.1. Sơ lược lịch sử vấn đề Xem xét trong Bộ luật Hồng Đức và Luật Gia Long thì không thấy có qui định về vấn đề này. Đối chiếu với Luật La Mã cũng như Bộ luật Dân sự Cộng hòa Pháp thì thấy họ cũng không thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ – chồng 1. Tuy vậy, việc lập di chúc chung của vợ - chồng lại được thừa nhận trong tục lệ của ta từ lâu. Theo Giáo sư Vũ Văn Mẫu, thực tiễn tục lệ của Việt Nam trong các xã hội trước đây cho thấy, di chúc chung của vợ, chồng là hình thức di chúc thông dụng và việc vợ - chồng cùng nhau lập di chúc chung, là hiện tượng phổ biến thời bấy giờ 2. Quan niệm truyền thống của người Việt Nam vốn rất coi trọng đạo nghĩa vợ - chồng và luôn muốn củng cố tình thương yêu, đoàn kết trong gia đình, nên cũng khuyến khích việc vợ, chồng cùng nhau lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung, và coi đó như là một biểu hiện cao đẹp của sự đoàn kết, yêu thương giữa vợ - chồng. Luật thực định thời cận đại cũng đã bắt đầu ủng hộ giải pháp mang tính luân lý đó. Nghiên cứu các Bộ Dân luật của các chế độ trước, thì thấy các Bộ Dân luật Bắc và Dân luật Trung đều thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ - chồng 3. Bộ Dân luật Sài Gòn 1972 cũng cho phép vợ - chồng cùng lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung4. Pháp luật hiện hành của Nhà nước ta cũng thừa nhận vợ, chồng có quyền lập di chúc chung. Thông tư 81-TANDTC ngày 24/71981 đã từng nhắc đến di chúc chung của vợ, chồng. Pháp lệnh Thừa kế 1990 tuy không trực tiếp qui định về di chúc chung của vợ, chồng, nhưng cũng gián tiếp thừa nhận hiệu lực của di chúc chung5. Vấn đề di chúc chung của vợ, chồng được qui định khá rõ trong BLDS 1995 và BLDS 2005 6. Các qui định này trong BLDS 2005 đã có nhiều sửa đổi so với qui định của BLDS 1995 7. Mặc dù vậy, việc qui định về di chúc chung trong BLDS 2005 vẫn còn nhiều điểm thiếu sót, bất cập và chưa phù hợp với thực tế. Có thể nói, pháp luật cận đại và luật hiện hành Việt Nam thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ - chồng là thể hiện nguyên tắc củng cố tình thương yêu, đoàn kết trong gia đình, nhưng như vậy sẽ gây ra sự mâu thuẫn với các quy định khác về di chúc làm nảy sinh nhiều bất cập không thể giải quyết được, thậm chí, còn làm phá vỡ tính hệ thống của chế định quyền thừa kế. 2.1.2. Quyền lập di chúc chung của vợ - chồng và nguyên tắc tự nguyện cá nhân trong việc lập di chúc Điều 646 Bộ luật Dân sự (BLDS) 2005 qui định rõ: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển dịch tài sản của mình cho người khác sau khi chết”. Theo đó, di chúc được xem là phương tiện pháp lý để cá nhân định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Di chúc không thể là giao dịch dành cho mọi chủ thể hay một cộng đồng chủ thể. Mặt khác, vấn đề thừa kế di sản là vấn đề pháp lý liên quan tới thân trạng và quyền lợi vật chất của một cá nhân, được tiến hành sau khi cá nhân chết. Như vậy, Điều 663 qui định di chúc chung của vợ, chồng đã tạo ra sự mâu thuẫn so với Điều 646 nói trên. Mặt khác, việc thừa nhận di chúc chung của vợ chồng sẽ dẫn đến các vấn đề pháp lý phức tạp khác rất khó xử lý về mặt kỹ thuật pháp lý. Ví dụ như xác định thời điểm có hiệu lực của di chúc chung, việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung, chấm dứt di chúc chung… Tuy vậy, nếu thiên về nguyên tắc củng cố tình thương yêu và đoàn kết trong gia đình, thì việc qui định về di chúc chung của vợ, chồng là điều cần thiết. Cũng cần phải nói thêm là, trong quan điểm của tục lệ và pháp luật của các chế độ trước, việc thừa nhận quyền lập di chúc chung không chỉ để củng cố tình thương yêu đoàn kết trong gia đình, mà việc lập di chúc chung, trước hết, là nhằm tạo ra giải pháp phòng ngừa, tạo ra sự chế ước đối với người chủ gia đình, theo quan điểm phụ hệ, để bảo vệ quyền thừa kế của những người thân thích khác trong gia đình. 2.1.3. Nội dung và mục đích của di chúc chung của vợ - chồng 2.1.3.1. Di chúc chung chỉ dùng để định đoạt tài sản chung của vợ chồng Điều 663 BLDS 2005 qui định: “Vợ, chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung”. Theo đó, nội dung và mục đích của di chúc chung là để định đoạt tài sản chung của vợ, chồng. Sẽ đơn giản, nếu vợ, chồng chỉ có tài sản chung. Nhưng sẽ phức tạp, nếu vợ, chồng vừa có tài sản chung, vừa có tài sản riêng, mà họ lại muốn định đoạt cả hai loại tài sản này trong cùng một di chúc. Trong trường hợp đó, sẽ có nhiều vấn đề pháp lý đặt ra rất khó xử lý, như: vấn đề hiệu lực của di chúc chung sẽ được xác định như thế nào; phần di chúc định đoạt tài sản riêng có phải là một di chúc riêng; sau khi một bên vợ hoặc chồng chết, thì phần di chúc liên quan tới tài sản riêng của họ có hiệu lực hay chưa… Đây là những vấn đề pháp lý phức tạp mà BLDS 2005 chưa tiên liệu được. Như vậy, nếu qui định trên được thực hiện đúng, thì vợ, chồng không thể dùng di chúc chung để định đoạt tài sản riêng của mình. Điều này sẽ dẫn tới hai hệ quả là: -Khi vợ, chồng muốn lập di chúc chung thì di chúc đó chỉ được định đoạt tài sản chung. Nếu vợ, chồng muốn định đoạt phần tài sản riêng, thì họ phải lập một tờ di chúc khác. Sẽ phức tạp nếu một người có nhiều sản nghiệp khác nhau (tài sản riêng hoặc tài sản với vợ hay chồng hợp pháp khác). Điều này sẽ gây ra trở ngại tâm lý không nhỏ khi người ta muốn lập di chúc chung, vì như thế sẽ tạo ra thêm nhiều khó khăn cho các bên liên quan, như phải lập nhiều tờ di chúc khác nhau, thay vì chỉ cần duy nhất một tờ di chúc. - Nếu trong di chúc chung vợ - chồng định đoạt cả tài sản chung và tài sản riêng thì di chúc đó sẽ phát sinh hiệu lực vào hai thời điểm khác nhau. Điều này dẫn tới việc, chỉ dựa vào một tờ di chúc, 5 Điều 23 khoản 1 Pháp lệnh Thừa kế 1990: “Trong trường hợp di chúc lập chung, mà có người chết trước, thì chỉ phần di chúc liên quan đến phần tài sản của người chết trước có hiệu lực”. người ta phải chia thừa kế nhiều lần trên cùng sản nghiệp của một người. Từ đó sẽ phát sinh nhiều vấn đề khác, như việc xác định người thừa kế bắt buộc, người thừa kế thế vị; sự ra đời của những người mới nằm trong hàng thừa kế, sau khi một bên vợ hoặc chồng chết mà di chúc chung vẫn chưa phát sinh hiệu lực; cơ sở để xác định giá trị một suất di sản bắt buộc… là những vấn đề pháp lý không dễ dàng giải quyết. 2.1.3.2. Việc thừa kế lẫn nhau giữa vợ - chồng BLDS 2005 không qui định rõ những trường hợp bị cấm đoán khi lập di chúc chung. Điều này sẽ tạo nên những tình huống pháp lý rất khó xử, như việc hai bên lập di chúc để thừa kế lẫn nhau, thì di chúc đó có hiệu lực hay không? Di chúc vốn là một loại giao dịch pháp lý đơn phương và không mang tính chất đền bù. Việc cho phép vợ, chồng khi lập di chúc chung để thừa kế lẫn nhau, đã biến loại giao dịch này thành giao dịch pháp lý song phương và mang tính chất có đền bù, làm thay đổi bản chất pháp lý của di chúc. Pháp luật của các chế độ trước tuy có thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ chồng, nhưng luôn cấm vợ, chồng lập di chúc chung để thừa kế lẫn nhau. Điều 572 Bộ Dân luật Sài Gòn qui định: “… hai người không thể cùng làm chung một chúc thư… lưỡng tương đắc lợi” (tức thừa kế lẫn nhau - Tác giả chú thích). Việc pháp luật hiện hành không cấm đoán vợ, chồng lập di chúc chung thừa kế lẫn nhau, chẳng những sẽ không đạt được mục đích tăng cường tình thương yêu, đoàn kết trong gia đình, mà có thể còn gây nên nhiều hệ luỵ không thể lường trước được, như: sự thông đồng giữa vợ, chồng lập di chúc giả tạo để che đậy những hành vi trái pháp luật; hoặc làm gia tăng nguy cơ khiến các bên phản bội, lừa dối, giả mạo di chúc, hoặc thậm chí, tạo cơ hội cho các bên thực hiện âm mưu xấu nhằm trục lợi bất chính di sản của nhau. 2.1.3.3. Xâm phạm đến quyền lợi của những người thừa kế bắt buộc Vấn đề thừa kế bắt buộc đối với di sản của cá nhân được qui định rõ tại Điều 699 BLDS 2005. Theo đó, những người thuộc diện thừa kế bắt buộc (cha, mẹ, vợ hoặc chồng, con chưa thành niên và con đã thành niên mà không có khả năng lao động) có quyền được hưởng 2/3 một suất thừa kế theo pháp luật, nếu họ không được hưởng hoặc thực tế được hưởng ít hơn 2/3 của một suất thừa kế theo pháp luật. Tình huống đặt ra là, di chúc chung chỉ để lại thừa kế cho một số người mà không dành phần di sản cho những người thừa kế bắt buộc kể trên và cũng không dành phần di sản cho một bên vợ hoặc chồng, thì những người đó có được chia thừa kế bắt buộc không? Nếu họ vận dụng qui định tại Điều 699 để xin được hưởng thừa kế bắt buộc thì giải quyết thế nào. Ví dụ: ông A và bà B cùng lập di chúc chung để lại toàn bộ tài sản cho người con cả là C. Di chúc chung của ông A và bà B đã xâm phạm tới quyền được hưởng di sản bắt buộc của các con chưa thành niên khác của ông A và bà B, cũng như của cha, mẹ ông A và cha, mẹ bà B. Vậy, di chúc này có bị vô hiệu một phần không, những người thừa kế bắt buộc này có được khởi kiện đòi chia thừa kế của A, B hay không… là những vấn đề chưa được BLDS 2005 làm rõ, nên chắc chắn sẽ dẫn tới nhiều vướng mắc trong việc thực thi pháp luật. Không loại trừ trường hợp người vợ hay người chồng còn sống, vì lý do nào đó, đã khởi kiện đòi hưởng thừa kế bắt buộc từ phần di sản của người kia trong di chúc chung thì cũng sẽ không có cơ sở pháp lý để giải quyết. 2.1.4. Hình thức của di chúc chung của vợ - chồng Di chúc cá nhân được lập theo 1 trong 2 hình thức là di miệng và di chúc viết, theo những thủ tục rất chặt chẽ. Dường như ý chí của nhà làm luật muốn di chúc chung sẽ được lập theo những hình thức tương tự như di chúc cá nhân. Nhưng thực tiễn cho thấy, các hình thức và thủ tục để lập di chúc cá nhân không phải lúc nào cũng có thể áp dụng phù hợp cho di chúc chung của vợ, chồng. 2.1.4.1. Vợ, chồng có thể cùng nhau lập di chúc chung bằng miệng? Theo Điều 651, việc lập di chúc miệng chỉ dành cho cá nhân: “Trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng”. Do đó, vợ chồng không thể cùng nhau lập di chúc vì một số lý do: Một là, muốn lập di chúc chung, vợ - chồng phải
Tài liệu liên quan