Nguyên nhân và biện pháp xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng qua Báo cáo kiểm toán của kiểm toán nhà nước

Dòng vốn từ các tổ chức tín dụng (TCTD) cho vay đối với các tổ chức, cá nhân được ví như huyết mạch của nền kinh tế thì nợ xấu luôn được ví như “cục máu đông” có thể gây tắc nghẽn hoạt động của hệ thống TCTD và cản trở sự phát triển của nền kinh tế. Tỷ lệ nợ xấu của các TCTD hiện tại tương đối cao, nợ tiềm ẩn có thể phát sinh thành nợ xấu lớn. Trước thách thức của việc nợ xấu ngày càng gia tăng, Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã triển khai một loạt các biện pháp để xử lý nợ xấu nhằm khai thông những cục máu đông của nền kinh tế, nhưng việc xử lý nợ xấu thời gian qua còn nhiều khó khăn, xử lý chưa nhiều, nhiều khoản nợ xấu xử lý chỉ là hình thức, chưa triệt để và hiệu quả, trong việc xử lý còn xuất hiện nhiều sự bất cập thể hiện qua các vướng mắc, khó khăn từ cơ chế, chính sách pháp luật và thực tế thực hiện.

pdf5 trang | Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 457 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguyên nhân và biện pháp xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng qua Báo cáo kiểm toán của kiểm toán nhà nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
12 Minh baïch hoùa hoaït ñoäng taøi chính tín duïng - nôï xaáu vaø sôû höõu cheùo NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 116 - tháng 6/2017 NGUyEÂN NHAÂN VAØ bIEÄN PHAÙP xÖû lyÙ NÔÏ xAáU CUûA CAÙC TOÅ CHÖÙC TÍN dUÏNG QUA bAÙO CAÙO KIEÅM TOAÙN CUûA KIEÅM TOAÙN NHAØ NÖÔÙC TS. LÊ THẾ Sáu* *Kiểm toán nhà nước chuyên ngành VII Dòng vốn từ các tổ chức tín dụng (TCTD) cho vay đối với các tổ chức, cá nhân được ví như huyết mạch của nền kinh tế thì nợ xấu luôn được ví như “cục máu đông” có thể gây tắc nghẽn hoạt động của hệ thống TCTD và cản trở sự phát triển của nền kinh tế. Tỷ lệ nợ xấu của các TCTD hiện tại tương đối cao, nợ tiềm ẩn có thể phát sinh thành nợ xấu lớn. Trước thách thức của việc nợ xấu ngày càng gia tăng, Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã triển khai một loạt các biện pháp để xử lý nợ xấu nhằm khai thông những cục máu đông của nền kinh tế, nhưng việc xử lý nợ xấu thời gian qua còn nhiều khó khăn, xử lý chưa nhiều, nhiều khoản nợ xấu xử lý chỉ là hình thức, chưa triệt để và hiệu quả, trong việc xử lý còn xuất hiện nhiều sự bất cập thể hiện qua các vướng mắc, khó khăn từ cơ chế, chính sách pháp luật và thực tế thực hiện. Từ khóa: nợ xấu Reasons and solutions to handle bad debt of the credit institutions through SAV’S auditing report Capital flows from credit institutions to organizations and individuals are considered as the lifeblood of the economy. Bad debts are always like “blood clots” that can obstruct the operation of credit institutions and obstruct the development of the economy. The current bad debt ratio of the existing credit institutions is relatively high. Potential debt can arise as bad debts. In the face of the challenge of increasing bad debt, the Party, State and Government have implemented a series of measures to deal with bad loans aimed at clearing the blood clots of the economy. In recent years, many difficulties have been dealt with, many bad debts have been handled in an inefficient and effective manner, tracing from mechanisms, policies and practices. key word: bad debt 1. Thực trạng tình hình nợ xấu của TCTD trong thời gian vừa qua Theo số liệu của Báo cáo kiểm toán của KTNN cho thấy nợ xấu của hệ thống các TCTD trong những năm vừa qua đã hình thành, tăng nhanh và ở mức rất lớn mặc dù các TCTD, NHNN và Chính phủ đã thực hiện rất nhiều giải pháp để xử lý nợ xấu, hạn chế phòng ngừa nợ xấu, cụ thể: - Tại thời điểm cuối năm 2015 nếu tính đầy đủ nợ xấu sẽ vào khoảng 476.860 tỷ đồng tương đương tỷ lệ 8,85%, bao gồm: nợ xấu nội bảng là 131,8 nghìn tỷ đồng, nợ xấu tồn đọng tại VaMC 197,316 nghìn tỷ đồng, nợ xấu được cơ cấu lại 107 nghìn tỷ đồng, các khoản nợ xấu chưa chuyển theo kết luận thanh tra 40,746 nghìn tỷ đồng; - Tại thời điểm cuối năm 2016, nếu tính đầy đủ nợ xấu sẽ vào khoảng là 600,01 nghìn tỷ đồng so 13NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 116 - tháng 6/2017 với 5.949,5 nghìn tỷ đồng tổng dư nợ cho vay, đầu tư đối với nền kinh tế chiếm tỷ lệ 10,08% tổng dư nợ cho vay. Cụ thể, nợ xấu nội bảng là 150.124,4 tỷ đồng, nợ xấu VaMC đã mua nhưng chưa xử lý là 195,75 nghìn tỷ đồng; nợ xấu được cơ cấu lại là 136,8 nghìn tỷ đồng; trái phiếu doanh nghiệp tiềm ẩn trở thành nợ xấu là 23,76 nghìn tỷ đồng; các khoản khác phải thu 49,53 nghìn tỷ đồng; lãi phải thu bất hợp lý phải thoái 44,04 nghìn tỷ đồng. 2. Nguyên nhân nợ xấu của các TCTD thời gian qua Việc nợ xấu phát sinh lớn và tăng nhanh như vậy có nhiều nguyên nhân, một số nguyên nhân chính như: xuất phát từ phía người vay vốn, từ phía ngân hàngvà từ những bất ổn của nền kinh tế: Thứ nhất, Từ sự bất ổn của nền kinh tế, cụ thể: những năm vừa qua xuất phát chính từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, nền kinh tế thế giới bắt đầu khủng hoảng, với tín dụng dưới chuẩn ở Mỹ và sau đó là nợ công ở khu vực đồng tiền chung Châu Âu. Cùng với những yếu kém được tích tụ qua nhiều năm trong nội tại của nền kinh tế, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu suy giảm, đặc biệt là lạm phát tăng cao, sản xuất kinh doanh đình trệ (lạm phát năm 2010 là 11,75%; năm 2011 là 18,58%); lãi suất ngân hàng tăng cao nhanh chóng (năm 2011 lãi suất cho vay VNĐ khoảng 17-20%/năm, thậm chí trên mức 37%/năm), thanh khoản và khả năng sinh lời của hệ thống ngân hàng suy giảm dẫn đến có nhiều doanh nghiệp phải giải thể, ngừng hoạt động (năm 2011: 54.114 doanh nghiệp; năm 2012: 54.261 doanh nghiệp; chỉ số hàng tồn kho tăng cao trên 20%/năm trong giai đoạn 2011-2012) cũng đã tạo ra nợ xấu. Thứ hai, Do sở hữu của nhóm cổ đông chi phối, sở hữu chéo giữa ngân hàng với doanh nghiệp tại Việt Nam trong những năm gần đây làm cho quan hệ cho vay trở nên rất phức tạp, cụ thể: Nhiều công ty không thuộc lĩnh vực tài chính nhưng lại đầu tư dài hạn với vai trò nhà sáng lập, nhà đầu tư chiến lược trong các ngân hàng dẫn đến tình trạng một số ngân hàng thu xếp vốn cho những dự án đầu tư chưa minh bạch. Việc sở hữu chéo này đã dẫn đến tình trạng các ngân hàng tạo điều kiện để cho các doanh nghiệp sở hữu ngân hàng có thể dễ dàng vay được vốn, hoặc dễ dàng cho các công ty con của các doanh nghiệp có vốn sở hữu tại ngân hàng vay vốn. Việc cho vay dễ dàng, thiếu kiểm soát cộng với việc thẩm định vốn vay thiếu cẩn trọng tất yếu sẽ dẫn đến nợ xấu. Đây 14 Minh baïch hoùa hoaït ñoäng taøi chính tín duïng - nôï xaáu vaø sôû höõu cheùo NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 116 - tháng 6/2017 chính là nguyên nhân gây ra tình trạng bất ổn nhất trong hệ thống ngân hàng và dẫn đến tình trạng nợ xấu đặc biệt tăng cao. Nổi bật là các khoản nợ xấu lên đến hàng chục nghìn tỷ đồng liên quan đến các vụ án trọng điểm của các ngân hàng như nhóm nợ xấu của 06 Công ty liên quan đến ông Nguyễn Đức Kiên tại Ngân hàng aCB, nhóm khách hàng Thiên Thanh tại Ngân hàng Xây dựng, các khoản nợ của ông Tạ Bá Long, Đoàn Văn an tại GP Bank... Thứ ba, Do tình hình hoạt động của ngân hàng còn nhiều yếu kém như: Ngân hàng quá đề cao chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận, tăng trưởng tín dụng nóng; các ngân hàng đua nhau mở rộng mạng lưới chi nhánh, điểm giao dịch, cạnh tranh chiếm thị trường, sẵn sàng áp dụng mọi hình thức kinh doanh để tận thu trong khi còn nhiều hạn chế về năng lực quản lý, điều hành, điều kiện cấp tín dụng lỏng lẻo và quy trình kinh doanh quản lý tín dụng chưa chặt chẽ. Bên cạnh đội ngũ cán bộ yếu kém, hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ để phòng, chống các hành vi vi phạm trong hoạt động tín dụng tại một số ngân hàng còn kém hiệu quả, chưa đáp ứng được yêu cầu phòng ngừa, phát hiện và xử lý từ đó tạo ra kẽ hở về cơ chế, chính sách để những người làm việc trong ngân hàng lợi dụng thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Thứ tư, Xuất phát từ phía khách hàng vay vốn như: Khách hàng cố tình chiếm dụng vốn của ngân hàng như khách hàng cung cấp thông tin sai lệch trên hồ sơ vay vốn, làm sai lệch về tình hình tài chính, tính khả thi của việc sử dụng vốn vay và khả năng trả nợ; cố tình gian lận liên quan đến giá trị tài sản thế chấp bao gồm nâng giá trị tài sản thế chấp và thế chấp cùng một tài sản tại nhiều ngân hàng; làm giả một số giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản... Ngoài ra còn trường hợp khách hàng kinh doanh thua lỗ nên mất khả năng trả nợ do khách hàng có trình độ yếu kém trong dự đoán các vấn đề kinh tế, yếu kém trong năng lực quản lý, sản phẩm chất lượng thấp không bán được dẫn đến không trả được nợ của ngân hàng. Thứ năm, Quy định pháp luật nhằm hạn chế, giải quyết tình trạng nợ xấu đã có nhưng chưa rõ ràng, chưa hợp lý. Có thể thấy rằng, pháp luật hiện hành đã có những khung pháp lý cơ bản trong việc hạn chế cũng như giải quyết nợ xấu của các TCTD như: quy định về phân loại nợ; quy định về xử lý tài sản đảm bảo nợ; quy định về quyền khởi kiện yêu cầu các tổ chức cá nhân hoàn trả vốn vay; quy định về hoạt động mua bán nợ Tuy nhiên, thực tế đã cho thấy, quy định khi đi vào thực tế còn có điểm chưa phù hợp, bị lợi dụng và không phát huy được hiệu quả trong việc giải quyết nợ xấu, dẫn đến tình trạng nợ xấu không được cải thiện mà còn có xu hướng tăng lên. Có thể kể đến những hạn chế như: - Về quy định phân loại nợ và quy định về cơ cấu lại nợ: Quy định phân loại nợ xấu những năm vừa qua còn những điểm chưa rõ ràng, đó là NHNN vẫn đang cho phép các ngân hàng được lựa chọn 1 trong 2 phương pháp phân loại nợ (định tính hoặc định lượng) tùy theo khả năng và điều kiện thực hiện của từng ngân hàng khiến cho các ngân hàng vẫn có thể che giấu được tình trạng nợ xấu của mình; nhiều ngân hàng đã lợi dụng quy định về điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ để phản ánh sai lệch chất lượng tín dụng, biến nợ xấu thành nợ đủ tiêu chuẩn, cố tình đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng theo chiều hướng tích cực và có khả năng trả nợ tốt sau khi điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ để giữ nguyên nhóm nợ của khách hàng. - Về hệ thống quy định pháp luật để vận hành thị trường mua bán nợ còn chưa đầy đủ: Quyền và trách nhiệm của người mua nợ, người bán nợ, người xử lý nợ chưa được quy định rõ ràng; chủ thể tham gia thị trường mua bán nợ đang bị hạn chế; việc định giá khoản nợ đến nay chưa có quy định cụ thể, cơ sở xác định giá trị của khoản nợ rất phức tạp. - Về vướng mắc khi xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ: Để bán được tài sản bảo đảm thì trước hết cần phải thu giữ được tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, việc thu giữ tài sản bảo đảm trong thực tế là hết 15NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 116 - tháng 6/2017 Xử lý nợ xấu Xử lý nợ xấu (tỷ đồng) Tổng số kH trả nợ TCTD nhận TSBĐ thay cho nghĩa vụ trả nợ Bán phát mại TSBĐ để thu hồi nợ Sử dụng DPRR Chuyển nợ xấu thành vốn góp Bán nợ Hình thức khác Bên thứ 3 trả nợ Tổng số Bán cho VAMC Năm 2012 74.676 25.322 0 4.077 35.176 0 0 3.743 0 6.358 Năm 2013 87.976 15.944 0 2.533 30.387 0 0 36.150 29.578 2.962 Năm 2014 143.549 21.610 199 3.374 30.556 0 437 83.448 79.612 3.926 Năm 2015 186.894 29.069 1.656 3.931 35.433 136 690 96.607 95.049 19.372 Trong tất cả các biện pháp nêu trên, việc xử lý nợ xấu bằng biện pháp bán nợ cho VaMC chiếm tỷ lệ cao nhất. Sau 4 năm đi vào hoạt động, tính đến 31/12/2016 tổng dư nợ xấu đã mua và được VaMC quản lý là 235.872 tỷ đồng với mệnh giá trái phiếu đã phát hành (bằng với giá mua nợ) là 207.685 tỷ đồng và lũy kế từ khi thành lập đến 31/12/2016, VaMC đã thu hồi được 50.165 tỷ đồng nợ xấu, trong đó bao gồm: bán lại nợ cho TCTD số tiền 8.083 tỷ đồng; bán TSĐB số tiền 12.219 tỷ đồng; khách hàng tự trả nợ số tiền 29.863 tỷ đồng; tổng số nợ xấu được điều chỉnh lãi suất là 1.981 tỷ đồng; nợ xấu được cơ cấu lại thời hạn trả nợ là 907 tỷ đồng; nợ xấu được miễn giảm lãi là 2.137 tỷ đồng. Tuy nhiên thực tế cho thấy trong tổng số thu hồi nợ cũng như cơ cấu nợ, hầu hết VaMC ủy quyền cho các TCTD bán nợ xử lý, thu hồi, một phần khách hàng tự trả cho các TCTD. Năm 2016 VaMC chỉ thực hiện phối hợp với TCTD bán TSĐB thu hồi số tiền 603 tỷ đồng. Như vậy, VaMC chỉ hoàn thành nhiệm vụ mua nợ xấu bằng trái phiếu đặc biệt theo kế hoạch được NHNN phê duyệt, góp phần ổn định hệ thống các TCTD còn các nhiệm vụ khác như mua nợ theo giá thị trường, xử lý các khoản nợ đã mua... theo quy định tại khoản 1, điều 12 Nghị định số 53/2013/NĐ-CP ngày 18/5/2013, VaMC sức khó khăn, chưa có cơ chế nào để bắt buộc được chủ tài sản phải bàn giao tài sản bảo đảm. Nếu chủ tài sản không tự nguyện bàn giao thì bắt buộc phải yêu cầu tòa án giải quyết theo Điều 301 Luật Dân sự 2015, nên việc xử lý sẽ mất rất nhiều thời gian và công sức; trường hợp khách hàng đồng ý bàn giao tài sản để đấu giá thì lại gặp khó khăn khi xác định giá khởi điểm bán đấu giá. 3. Biện pháp xử lý nợ xấu thời gian qua Để xử lý tình hình nợ xấu và phòng ngừa hạn chế nợ xấu gia tăng tại các TCTD, Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã đề ra nhiều giải pháp xử lý nợ xấu được cụ thể hóa tại Đề án “Xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng” và Đề án “Thành lập Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam” do Thủ tướng Chính phủ ban hành kèm theo quyết định số 843/QĐ-CP ngày 31/05/2013. Ngoài ra, nhiều biện pháp xử lý nợ xấu đã được các TCTD thực hiện như: Khách hàng trả nợ; bán, phát mại tài sản để thu hồi nợ; xử lý bằng nguồn dự phòng rủi ro; bán nợ xấu (trong đó có bán nợ cho Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VaMC) để các TCTD bán lại nợ xấu cho VaMC và nhận lại bằng Trái phiếu đặc biệt) Cụ thể kết quả xử lý nợ xấu đạt được như sau: 16 Minh baïch hoùa hoaït ñoäng taøi chính tín duïng - nôï xaáu vaø sôû höõu cheùo NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 116 - tháng 6/2017 chưa thực hiện hoặc thực hiện được rất ít theo chức năng nhiệm vụ được giao. Theo NHNN thì nguyên nhân là do một số cơ chế, chính sách tối thiểu bảo đảm cho VaMC được hoạt động an toàn, hiệu quả vẫn chưa hoàn chỉnh. VaMC chưa có các cơ chế, chính sách, quy định pháp lý mang tính đặc thù, đặc biệt để xử lý nhanh nợ và tài sản bảo đảm của khoản nợ đã mua... đang ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của VaMC, đặc biệt là việc mua bán nợ theo cơ chế thị trường và xử lý các khoản nợ xấu đã mua. Tuy nhiên thực tế cho thấy khả năng xử lý của VaMC còn chưa đáp ứng được yêu cầu vì bị hạn chế rất nhiều về các nguồn lực và việc nắm bắt thông tin các khoản nợ. Hiện tại số lượng nợ xấu đã mua là rất lớn nhưng việc VaMC nắm rõ tình trạng các khoản nợ cũng như tài sản đảm bảo thực chất còn hạn chế, các khoản nợ có thể xử lý để thu hồi nợ đều được các TCTD mua lại từ VaMC để tự xử lý. Hiện tại việc xử lý nợ xấu do các TCTD tự thực hiện vẫn đang hiệu quả hơn do TCTD nắm bắt được thực trạng khoản nợ, tài sản đảm bảo, có nguồn lực con người và gắn lợi ích trực tiếp của các TCTD. 4. Các giải pháp hạn chế phòng ngừa nợ xấu Hiệu quả trong công tác xử lý nợ xấu thời gian vừa qua cho thấy còn nhiều sự bất cập mà chưa thể xử lý được nhanh và thực chất, một phần nguyên nhân chủ yếu là xuất phát từ các khó khăn, vướng mắc của cơ chế, chính sách và pháp luật. Việc phòng ngừa và hạn chế nợ xấu có ý nghĩa hết sức quan trọng, quan trọng hơn việc xử lý nợ xấu thế nào cho nhanh và hiệu quả. Qua bức tranh nợ xấu, các biện pháp xử lý nợ xấu trong thời gian vừa qua cho thấy, để hạn chế, phòng ngừa nợ xấu có thể phát sinh tăng nhanh, ở mức cao như vừa qua cần có những giải pháp có tính lâu dài, đồng bộ, hiệu quả và thiết thực, thể hiện qua các mặt như sau: (i) Về mặt điều hành nền kinh tế: Chính phủ thực hiện điều hành chủ động, linh hoạt các chính sách để phát triển nền kinh tế; kịp thời ứng phó có hiệu quả đối với các bất ổn và ảnh hưởng xấu của các yếu tố trong và ngoài nước đến nền kinh tế; tạo mọi điều kiện thuận lợi, bình đẳng về mặt pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh. (ii) Về hoàn thiện khung pháp lý: - Khắc phục ngay các lỗ hổng pháp lý dẫn đến các nguy cơ hình thành nợ xấu như tình trạng sở hữu chéo, đầu tư chéo; thao túng, chi phối ngân hàng của một nhóm cổ đông, cổ đông lớn để cho vay sân sau dẫn đến các TCTD hoạt động kém hiệu quả và mất khả năng chi trả. - Hạn chế và ngăn ngừa các Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước đầu tư ngoài lĩnh vực hoạt động chính tràn lan, thiếu sự kiểm soát, trong khi kinh nghiệm trong quản trị điều hành cũng như hiểu biết về các lĩnh vực đầu tư như tài chính, bảo hiểm, chứng khoán, vàng còn hạn chế. (iii) Tăng cường quản lý nhà nước: Tăng cường chức năng giám sát, kiểm tra, thanh tra của các cơ quan quản lý nhà nước đảm bảo hiệu quả và hiệu lực đối với hoạt động của các TCTD. (iv) Nâng cao năng lực hoạt động của TCTD: - TCTD cần phải kiểm soát và nâng cao được chất lượng tín dụng, hạn chế việc cho vay đầu tư vào những lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro như bất động sản, chứng khoán. - Các TCTD phải nâng cao chất lượng thẩm định, xét duyệt cho vay đảm bảo chặt chẽ, tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại năm 2015, 2016.
Tài liệu liên quan