Ôn thi đọc học - cao đẳng môn Vật lý - Phần tĩnh điện

Ngày 16 và 17 tháng 8 năm 1945 tại Tân Trào, Quốc dân đại hội đã triệu tập gồm có 60 đại biểu của các tổ chức đoàn thể cách mạng đã quyết định nhiều vấn đề quan trọng, lập ra Uỷ ban dân tộc giải phóng trung ương tức Chính phủ lâm thời. Vì vậy Quốc dân đại hội được coi là tiền thân của Quốc hội nước ta. Ngày 8 tháng 9 năm 1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 14 mở cuộc tổng tuyển cử tự do trong cả nước để bầu Quốc dân đại hội. Trong hoàn cảnh hiểm nghèo, trước nguy cơ mất nước nhưng ngày 06 tháng 01 năm 1946 nhân dân ta trong cả nước đã tiến hành cuộc Tổng tuyển cử tự do thắng lợi, bầu ra Quốc hội nước ta - Quốc hội đầu tiên nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

doc9 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1266 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ôn thi đọc học - cao đẳng môn Vật lý - Phần tĩnh điện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Mọi hoạt động của bộ máy nhà nước đều thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Trong đó, Quốc hội – cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, thể hiện ý chí và nguyện vọng của toàn thể nhân dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Kể từ năm 1946, Quốc hội đầu tiên nước ta ra đời cho đến nay, trước những thay đổi của đất nước, Quốc hội các khóa luôn hoạt động đạt hiệu quả cao nhất với một cơ cấu tổ chức phù hợp theo từng giai đoạn. Hiện nay, trước tình hình đổi mới và hội nhập của đất nước, vai trò của Quốc hội càng quan trọng hơn bao giờ. Chính vì vậy, việc hoàn thiện cơ cấu và hoạt động của Quốc hội là vô cùng bức thiết. Vấn đề này đã và đang được Nhà nước ta quan tâm và thực hiện các biện pháp đổi mới, hoàn thiện. Trong phạm vi bài tiểu luận này, cá nhân em xin được đưa ra một số những ý kiến về thực trạng cơ cấu tổ chức và hoạt động của Quốc hội trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời sẽ chỉ ra một số phương hướng hoàn thiện về cơ cấu tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Vì đây là bài tiểu luận cá nhân đầu tiên nên chắc chắn em không tránh khỏi những thiếu sót trong kiến thức và cách trình bày. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn! NỘI DUNG I. Khái quát về Quốc hội. 1. Sự ra đời của Quốc hội. Ngày 16 và 17 tháng 8 năm 1945 tại Tân Trào, Quốc dân đại hội đã triệu tập gồm có 60 đại biểu của các tổ chức đoàn thể cách mạng đã quyết định nhiều vấn đề quan trọng, lập ra Uỷ ban dân tộc giải phóng trung ương tức Chính phủ lâm thời. Vì vậy Quốc dân đại hội được coi là tiền thân của Quốc hội nước ta. Ngày 8 tháng 9 năm 1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 14 mở cuộc tổng tuyển cử tự do trong cả nước để bầu Quốc dân đại hội. Trong hoàn cảnh hiểm nghèo, trước nguy cơ mất nước nhưng ngày 06 tháng 01 năm 1946 nhân dân ta trong cả nước đã tiến hành cuộc Tổng tuyển cử tự do thắng lợi, bầu ra Quốc hội nước ta - Quốc hội đầu tiên nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vị trí, tính chất, chức năng của Quốc hội. a. Vị trí, tính chất. Vị trí tối cao của Quốc hội được Hiến pháp 1992 quy định rõ tại điều 83 (điều đầu tiên) của chương VI: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam...” Việc Hiến pháp quy định như vậy là nhằm mục đích thể hiện rõ bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân theo quan điểm tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin về một nhà nước kiểu mới, khác với các nhà nước tư sản. Quôc hội nước ta thực sự đaiị diện cho ý chí, lợi ích của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Đó là cơ quan đại biểu của nhân dân theo kiểu công xã Pari mà Các Mác coi là tập thể làm việc “vừa lập pháp, vừa hành pháp.” Quốc hội là một tổ chức chính quyền thể hiện rõ tính chất đại diện và tính chất quần chúng. Các đại biểu Quốc hội là những công nhân, nông dân, trí thức và những người lao động ưu tú thuộc mọi dân tộc trong cả nước được nhân dân tín nhiệm bầu ra và chịu trách nhiệm trước quần chúng nhân dân, họ có mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng, nắm vững tâm tư, nguyện vọng của quần chúng. Dó đó quyết định mọi vấn đề được sát và hợp với quần chúng đồng thời có điều kiên thuận lợi để vận động quần chúng thi hành tốt các quy định của Nhà nước. Nhiệm kỳ của Quốc hội là 5 năm, việc tuyển cử các đại biểu Quốc hội mới bảo đảm cho nhân dân có thể lựa chọn và bổ sung những đại diện mới vào cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của mình. Quốc hội có quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước và của nhân dân như thông qua Hiến pháp, các đạo luật, quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, mục tiêu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm những viên chức cao cấp nhất của bộ máy nhà nước; giám sát tối cao hoạt động của các cơ quan nhà nước; Quốc hội biểu hiện tập trung ý chí và quyền lực của nhân dân trong phạm vi cả nước. b. Chức năng của Quốc hội. Với vị trí và tính chất như trên, Quốc hội mang chủ quyền Nhà nước và chủ quyền nhân dân. Mọi quyền lực nhà nước tập trung thống nhất vào Quốc hội. Mọi công việc quan trọng của đất nước và của nhân dân có ý nghĩa toàn quốc đều do Quốc hội quyết định. Với tinh thần nói trên, Điều 83 Hiến pháp năm 1992 đã quy định chức năng của Quốc hội bao gồm những phương diện lớn sau đây: Ở nước ta, quyền lập hiến cũng như quyền lập pháp đều thuộc về Quốc hội. Quốc hội giữ quyền làm hiến pháp thì cũng có quyền sửa đổi hiến pháp; Quốc hội có quyền làm luật thì cũng có quyền sửa đổi luật. Để đảm bảo cho hoạt động này của Quốc hội được tiến hành được tiến hành thuận lợi và có hiệu quả, pháp lệnh đã quy định cụ thể trong hiến pháp 1992 và Luật tổ chức Quốc hội: Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Thứ hai, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Quốc hội có quyền quyết định những mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội; những vấn đề quốc kế dân sinh; những vấn đề đối nội, đối ngoại và quốc phòng, an ninh của đất nước: Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ mấy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân. Quốc hội còn có nhiệm vụ và quyền hạn quan trọng là quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp kí; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế khác đã được kí kết hoặc gia nhập theo đề nghị của Chủ tịch nước. Thứ ba, Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước. Sự giám sát của Quốc hội là sự giám sát cao nhất. Quốc hội thực hiện quyền giám sát nhằm đảm bảo cho những quy định của Hiến pháp, pháp luật được thi hành triệt để, nghiêm minh và thống nhất. Quốc hội giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước nhằm đảm bảo cho các cơ quan này hoàn thành nhiệm vụ, quyền hạn đã được quy định, làm cho bộ máy nhà nước ta hoạt động nhịp nhàng, có hiệu lực, không chồng chéo, chống các biểu hiện tham nhũng, quan lieu, hách dịch và cửa quyền. II. Thực trạng cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội theo pháp luật hiện hành. 1.Quy định của pháp luật về cơ cấu tổ chức và hoạt động của Quốc hội. a. Cơ cấu tổ chức. Ở Việt Nam, Quốc hội được tổ chức theo cơ cấu một viện. Việc lựa chọn này nhằm mục đích bảo đảm để Quốc hội là nơi tập trung, thống nhất ý chí, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, đảm bảo tính thực quyền. Quốc hội nước ta được xác định là mô hình Quốc hội tập quyền. Về cơ cấu đại biểu Quốc hội thì số đại biểu Quốc hội được tính trên cơ sở dân số của cả nước và được chia theo các đơn vị hành chính. Về ban lãnh đạo, theo Hiến pháp 1992 thì Ủy ban thường vụ Quốc hội là ban lãnh đạo của Quốc hội. Về các cơ quan khác của Quốc hội cũng như các nước, Quốc hội nước ta thành lập ra các Ủy ban để giúp Quốc hội thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trên các lĩnh vực hoạt động cụ thể. Về phương thức hoạt động. Quốc hội nước ta hoạt động chủ yếu thông qua các hình thức sau: - Kỳ họp và các phiên họp Quốc hội. - Hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội. - Hoạt động của đoàn đại biểu Quốc hội. - Hoạt động của văn phòng Quốc hội. - Hoạt động của các đại biểu Quốc hội. 2. Thực trạng cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội theo Hiến pháp 1992 cho tới nay- Những đổi mới và tồn tại của Quốc hội trong hiến pháp 1992 so với các hiến pháp trước. a. Những đổi mới và tồn tại về cơ cấu tổ chức của Quốc hội. Những đổi mới. Hiến pháp 1992 quy định rõ ràng hơn về nhiệm vụ, quyền hạn, đề cao vai trò của đại biểu Quốc hội nhằm nâng cao năng lực hoạt động của đại biểu Quốc hội nói riêng và Quốc hội nói chung. Đối với các cơ quan khác của Quốc hội, Hiến pháp 1992 cơ bản vẫn giữ nguyên quy định về việc thành lập Hội đồng dân tộc và các Ủy ban Quốc hội và các cơ quan. Nhìn chung không có gì thay đổi lớn so với Hiến pháp 1980. - Hiến pháp 1992 đã phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thường trực với chế định chủ tịch nước. - Hiến pháp 1992 chú ý tăng cường các chuyên gia pháp luật, kinh tế phù hợp với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội trong cơ cấu đại biểu Quốc hội. - Số thành viên của đoàn Đại biểu Quốc hội được nâng lên rõ rệt về cả mặt số lượng và chất lượng. Những hạn chế và tồn tại. - Tuy đã có cố gắng trong công tác tăng cường chất lượng Đại biểu Quốc hội nhưng thực tiễn những khóa gần đây cho thấy, công tác chuẩn bị nhân sự, người ra ứng cử vẫn còn nặng về cơ cấu, tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội của một số đại biểu còn chưa cao. - Qua hoạt động thực tiễn của Quốc hội các khóa gần đây, cũng có ý kiến cho rằng số lượng thành viên Ủy ban thường vụ Quốc hội còn ít. Một số Phó chủ tịch và đa số các thành viên Thường vụ Quốc hội phải kiêm nhiệm nhiều chức vụ và nhiệm khác nhau nên hiệu quả hoạt động chưa cao. - Bộ máy giúp việc của Quốc hội được chuyên môn hóa cao. Về mặt tổ chức, quan hệ tổ chức của các bộ phận phục vụ Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội chưa được làm rõ, làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Nguyên nhân có những hạn chế trên. - Quá trình bầu cử chưa đạt được hiệu quả cao. Các bước tiến hành đề cử, ứng cử chưa bảo đảm dân chủ, khách quan, tạo điều kiện và cơ hội cho cử tri lựa chọn. - Nhiệm vụ và quyền hạn của ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội chưa được phân định rõ ràng. Trong khi số ủy viên còn ít nên việc kiêm nhiệm nhiều nhiều vụ, chức vụ tạo nên việc hoạt động không hiệu quả. - Bộ máy giúp việc của Quốc hội chưa đủ sức gánh vác trách nhiệm tham mưu về những vấn đề chuyên sâu và còn lệ thuộc về mặt tổ chức trong quan hệ với văn phòng Quốc hội. b. Những đổi mới và tồn tại về phương thức hoạt động của Quốc hội. Những đổi mới. - Hoạt động lập pháp của Quốc hội sôi nổi và chất lượng hơn. Quốc hội ban hành kịp thời các đạo luật tạo hành lang pháp lý để thực hiện chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường. - Quy trình xây dựng pháp luật được quan tâm, cải tiến. Việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân và các ngành, các cấp được coi trọng và từng bước đổi mới. Kịp thời phát hiện những vấn đề bức xúc của đời sống nhân dân để giải quyết kịp thời. - Về hoạt động giám sát tối cao đã tích cực cải tiến. Tại các kì họp Quốc hội thì báo cáo của Chính phủ, Chủ tịch nước… được báo cáo thường xuyên. Những tồn tại. - Nhiều văn bản luật, pháp lệnh chưa mang tính khả thi, chưa đi vào thực tiễn. - Quá trình thảo luận và thông qua luật, pháp lệnh còn chưa kịp thời, tốn nhều thời gian. Kĩ thuật lập pháp còn nặng về sự đảm bảo quản lí của nhà nước. Việc ban hành pháp luật đôi khi còn bị động do phía các bộ ngành trình luật… - Hoạt động giám sát của Quốc hội còn chưa hiệu quả và đôi khi chưa nghiêm túc. Nguyên nhân của những tồn tại. - Nhu cầu ban hành pháp luật lớn, khẩn trương, bức xúc, trong khi mỗi năm Quốc hội chỉ họp có hai kì. - Công sức, thời gian, tài chính cho hoạt động xây dựng pháp luật còn chưa nhiều. - Sự phối hợp giữa các bộ, ngành với Quốc hội trong nhiều hoạt động còn chưa chặt chẽ. - Các chuyên gia thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, thẩm định, rà soát văn bản quy phạm pháp luật hiện nay còn mỏng; kinh nghiệm, trình độ còn có phần hạn chế. III. Phương hướng và giải pháp đổi mới cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội. Phương hướng và giải pháp đổi mới cơ cấu tổ chức. a. Tiếp tục làm rõ cơ sở lí luận về thực tiễn và sự phân công chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trong cơ cấu tổ chức Quốc hội. Đầu tiên, cũng là khâu quan trọng nhất, nhà nước ta phải có sự phân công nhiệm vụ và quyền hạn rõ ràng cho các ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, ủy viên thường trực trực Quốc hội, tránh việc chồng chéo công việc tạo nên sự không hiệu quả trong công việc. Việc xác lập cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, bộ, ngành với Quốc hội; giữa các Ủy ban của Quốc hội sẽ tạo ra một cơ cấu tổ chức coa hiệu quả và khoa học hơn. Nhà nước cần quan tâm, nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành những quy định liên quan đến tổ chức và hoạt động của Quốc hội. b. Thành lập mới và tách một số Ủy ban của Quốc hội theo từng lĩnh vực hoạt động chuyên sâu, bảo đảm để các cơ quan này thực hiện tốt việc tham mưu, giúp Quốc hội thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình. Để Quốc hội thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình tốt hơn, Quốc hội nên kiện toàn và củng cố tổ chức nhân sự các cơ quan của mình. Ngoài ra, Quốc hội cũng cần thành lập mới một số cơ quan của Quốc hội. (Tách hoặc lập thêm một số Ủy ban). + Thành lập Ủy ban công tác dân nguyện: giúp Quốc hội tổng hợp, phân tích tâm tư nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân; tham mưu đề suất ch Quốc hội… + Thành lập Ủy ban tổ chức nhà nước để giúp Quốc hội trong việc xây dựng, thiết kế mô hình tổ chức Nhà nước. Thứ hai, việc nâng cao cả về số lượng và chất lượng Đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách cũng đang là một trong những giải pháp cần làm để Quốc hội thực hiện tốt quyền hạn và nhiệm vụ của mình. c. Tiếp tục đổi mới cơ cấu tổ chức và phương thức lựa chọn Đại biểu quốc hội trong điều kiện Quốc hội hoạt động không thường xuyên. d. Đổi mới chế độ bầu cử và phương thức lựa chọn Đại biểu Quốc hội, kết hợp đúng đắn giữa cơ cấu và tiêu chuẩn Đại biểu Quốc hội. Thứ nhất, trong quá tình chọn lựa Đại biểu Quốc hội, chúng ta cần có những biện pháp và cách thức đảm bảo sự khách quan. Thứ hai, tạo điều kiện để công dân có đủ tiêu chuẩn ứng cử ra ứng cử và trúng cử vào Đại biểu Quốc hội. Điều này sẽ giúp Quốc hội có đội ngũ cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ tốt. Thứ ba, chúng ta nên tạo ra hoạt động vận động bầu cử phù hợp với nền dân chủ và truyền thống văn hóa dân tộc. đ. Tăng cường số lượng và chất lượng Đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách ở các cơ quan của Quốc hội và ở Đoàn Đại biểu Quốc hội. Để thực hiện tốt yêu cầu này cần thực hiện: Cần quy định rõ ràng các tiêu chuẩn của những người ứng cử đại biểu Quốc hội. Sau đó, việc tăng cường số lượng và nâng cao chất lượng hoạt động của đại biểu Quốc hội chuyên trách, chúng ta cũng nên thực hiện trong thời gian tới. Việc quy định rõ tiêu chuẩn, quyền và nghĩa vụ nội dung hoạt động cụ thể của đại biểu Quốc hội chuyên trách, kết hợp tốt giữa tính đại biểu và tính chuyên nghiệp trong hoạt động của đại biểu Quốc hội. e. Kiện toàn và củng cố bộ máy tham mưu, giúp việc của Quốc hội. Lựa chọn mô hình tổ chức Bộ máy riêng của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội dưới hình thức các văn phòng. Đối vơi các hoạt động chung của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội thì do văn phòng Quốc hội đảm nhiệm. Phương hướng và giải pháp đổi mới hình thức hoạt động của Quốc hội. a.Đổi mới phương thức hoạt động trong lĩnh vực lập pháp. Thứ nhất, phân định phạm vi thẩm quyền lập pháp của Quốc hội. Thứ hai, về việc lập và xây dựng quy định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh. Thứ ba,về thủ tục, trình tự của quá trình chuẩn bị và ban hành Văn bản Quy phạm pháp luật. Pháp luật chỉ có thể được thay đổi với quy trình được thiết lập minh bạch, rõ ràng và gần gũi với tất cả mọi người. + Về việc soạn thảo và thẩm tra: Phân công cụ thể, rõ ràng cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm tra đối với các dự án luật, pháp lệnh. + Về việc tổ chức lấy ý kiến cá ngành, các cấp và ý kiến của nhân dân đối với các Dự án luật, Pháp lệnh cần hết sức được coi trọng và phải được tiến hành một cách thức chất, có kế hoạch. + Về cải tiến công tác chuẩn bị, thảo luận, thong qua các Dự án luật tại kì họp Quốc hội. + Tăng cường chất lượng của việc xem xét, cho ý kiến của Ủy ban thường vụ Quốc hội đối với các Dự án luật trước khi trình Quốc hội. + Xây dựng cơ chế và tạo điều kiện về mọi mặt để các Đại biểu Quốc hội thực hiện tốt quyền kiến nghị về luật, cùng các cơ quan hữu quan trình bày Dự án luật ra trước Quôc hội. Thứ tư, bảo đảm các điều kiện cần thiết để Văn bản pháp luật ban hành và sớm đi vào cuộc sống. b. Trong lĩnh vực giám sát. Cần xác định rõ phạm vi (tầng, nấc), nội dung, cơ chế thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội, của các Ủy ban của Quốc hội. Xác định rõ tính chất, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và sự giám sát của hoạt động các cơ quan chuyên trách. Đổi mới hoạt động giám sát của Quốc hội phải được đặt trong quá trình đổi mới toàn diện và sâu sắc, gắn liền với hoạt động lập pháp. + Vấn đề một: Đảm bảo chủ thể của quyền giám sát tối cao. + Vấn đề hai: Khách thể của hoạt động giám sát tối cao. + Vấn đề ba: Phạm vi và đối tượng chịu sự giám sát tối cao. c. Đổi mới phương thức hoạt động của Quốc hội trong việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. d. Nâng cao chất lượng và hiệu quả các kì họp Quốc hội. Đổi mới việc chuẩn bị nội dung, chương trình kì họp Quốc hội theo hướng tăng thêm thời gian gửi các đề án, dự án. Đổi mới quy trình thảo luận và thông qua các dự án, đề án, báo cáo tại kì họp. Cải tiến cách thức chất vấn và trả lời chất vấn, bảo đảm để chất vấn là hình thức giám sát có hiệu quả nhất của Quốc hội. Kiện toàn và củng cố đội ngũ cán bộ phục vụ kì họp Quốc hội. Tăng cường các điều kiện vật chất kỹ thuật bảo đảm phục vụ có hiệu quả các kì họp Quốc hội. KẾT LUẬN Có thể nói vấn đề đổi mới và hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Quốc hội luôn là một vấn đề quan trọng bậc nhất trong việc hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói chung và hoàn thiện hệ thống cơ quan đại diện của nhân dân nói riêng. Không ngừng nghiên cứu, học hỏi tổ chức và hoạt động của Quốc hội các nước, cũng như đổi mới tư tưởng trong vấn đề tổ chức bộ máy nhà nước là một trong những vấn đề quan trọng, cốt lõi để tổ chức Quốc hội phù hợp với tình hình mới. Nhìn nhận một cách chân thực những hạn chế, đồng thời mỗi đại biểu cần trang bị cho mình một hành trang kiến thúc kỹ năng là một trong những nội dung căn bản trong tổ chức và hoạt động trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. DANH MỤC TÀI LIỆU GIÁO TRÌNH. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hiến pháp Việt Nam, Nxb.CAND, Hà Nội, 2008. Khoa luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật hiến pháp Việt Nam, Nxb. ĐHQG, Hà Nội, 2005. B. TÀI LIỆU THAM KHẢO. 1. Tiến sĩ Lê Thanh Vân, Một số vấn đề về đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội, Nxb.Tư pháp, Hà Nội, 2007. 2. Luật tổ chức Quốc hội. 3. Văn phòng Quốc hội, Hiến pháp 1946 – Sự kế thừa và phát triển qua các hiến pháp Việt Nam, Nxb.CTQG, Hà Nội, 1998. 4. Quốc hội Việt Nam – 60 năm hình thành và phát triển, Nxb.CTQG, Hà Nội, 2006. C. CÁC TẠP CHÍ VA TRANG WEB. 1. Tạp chí luật học. 2. Tạp chí nhà nước và pháp luật. 3. 4. 5.