Pháp luật vi phạm hành chính ở Việt Nam hiện nay, thực trạng và giải pháp

Trong bối cảnh Việt nam đang không ngừng nỗ lực thực hiện công cuộc cải cách thủ tục hành chính và nâng cao hiệu quả quản lý của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước thì tình trạng vi phạm pháp luật hành chính diễn ra ngày càng phổ biến và trải rộng trên nhiều lĩnh vực khác nhau, nó đặt ra yêu cầu cần phải có những hoạt động hữu ích cụ thể của các cơ quan nhà nước, các tổ chức, các cá nhân nhằm cải thiện tình, xử lý tốt các hành vi vi phạm hành chính của những cá nhân, tổ chức, để thúc đẩy công cuộc cải cách hành chính nhanh chóng và hiệu quả. Vấn đề xử lý vi phạm hành chính đã thu hút được nhiều nhà khoa học, các cán bộ trong nghành cùng nhiều học giả tham gia nghiên cứu, và cũng đã có ít nhiều các công trình về vấn đề này: Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính của Hoàng Xuân Hoan- Nguyễn Trí Hoà (1993); Hỏi đáp về Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính của Đặng Thanh Sơn - Hà Thị Nga (1996); Tìm hiểu về xử phạt vi phạm hành chính của hai tác giả Phạm Dũng - Hoàng Sao (1998). Tất cả đều mong muốn cung cấp các kiến thức pháp luật về xử lý vi phạm hành chính cho đông đảo độc giả, đồng thời cũng nêu ra những giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về xử lý vi phạm hành chính nói riêng.

doc28 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2639 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Pháp luật vi phạm hành chính ở Việt Nam hiện nay, thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN Được sự quan tâm, hướng dẫn tận tình của thầy Nguyễn Duy Phương cũng như các bạn bè và anh chị khóa trước tôi đã hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình. Tôi xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình giúp đỡ, động viên và khích lệ của thầy và các bạn trong suốt thời gian nghiên cứu và hoàn thiện đề tài này. Tôi cảm ơn sự quan tâm, hướng dẫn, giới thiệu của ban lãnh đạo Khoa Luật- Đại học Huế trong việc tạo điều kiện cho các sinh viên luật nói chung và bản thân tối nói riêng, tiếp cận với các cơ quan nhà nước, đặc biệt là hệ thống các cơ quan tư pháp và các cơ quan quản lý hành chính nhà nước, nhờ đó mà tôi có được cách nhìn mới hơn, thực tế hơn về lĩnh vực pháp lý trong nghiên cứu khoa học cũng như thực tiễn đời sống, góp phần bổ sung kiến thức pháp luật, nâng cao trình độ hiểu biết về các kỹ năng chuyên ngành luật, kinh nghiệm trong cuộc sống. Cảm ơn các cán bộ, công chức và nhân viên trong Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Huế, đã tiếp nhận yêu cầu kiến tập và nhiệt tình giúp đỡ, hướng dẫn, cung cấp các thông tin về hoạt động và tổ chức của cơ quan tư pháp, các hoạt động tiếp công dân và xử lý khiếu nại, tố cáo. Điều đó giúp tôi tự tin lựa chọn đề tài khoa học để nghiên cứu và hoàn thiện niên luận của mình. Huế, Tháng 09 Năm 2010! PHẦN MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài, ý nghĩa khoa học và thực tiễn. Trong bối cảnh Việt nam đang không ngừng nỗ lực thực hiện công cuộc cải cách thủ tục hành chính và nâng cao hiệu quả quản lý của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước thì tình trạng vi phạm pháp luật hành chính diễn ra ngày càng phổ biến và trải rộng trên nhiều lĩnh vực khác nhau, nó đặt ra yêu cầu cần phải có những hoạt động hữu ích cụ thể của các cơ quan nhà nước, các tổ chức, các cá nhân nhằm cải thiện tình, xử lý tốt các hành vi vi phạm hành chính của những cá nhân, tổ chức, để thúc đẩy công cuộc cải cách hành chính nhanh chóng và hiệu quả. Vấn đề xử lý vi phạm hành chính đã thu hút được nhiều nhà khoa học, các cán bộ trong nghành cùng nhiều học giả tham gia nghiên cứu, và cũng đã có ít nhiều các công trình về vấn đề này: Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính của Hoàng Xuân Hoan- Nguyễn Trí Hoà (1993); Hỏi đáp về Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính của Đặng Thanh Sơn - Hà Thị Nga (1996); Tìm hiểu về xử phạt vi phạm hành chính của hai tác giả Phạm Dũng - Hoàng Sao (1998)... Tất cả đều mong muốn cung cấp các kiến thức pháp luật về xử lý vi phạm hành chính cho đông đảo độc giả, đồng thời cũng nêu ra những giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về xử lý vi phạm hành chính nói riêng. Mục đích nghiên cứu. Vi phạm hành chính là một vấn đề hết sức phức tạp và nhạy cảm, nó ảnh hưởng sâu rộng đến trật tự quản lý nhà nước, sự ổn định xã hội, đến quyền và lợi ích hợp pháp của quần chúng nhân dân. Nhận thức được tầm quan trọng, ý nghiã lý luận và ý nghĩa thực tiễn của vấn đề tôi mong mốn việc tham gia nghiên cứu đề tài này sẽ làm rõ phần nào những mặt hạn chế còn tồn tại trong công tác xử lý vi phạm hành chính ở nước ta hiện nay, để từ đó đưa ra những kiến nghị, phương hướng cải thiện thực trạng, nâng cao chất lượng quản lý nhà nước. Với vai trò là một cá nhân và một sinh viên luật trong xã hội, nhận thức được nghĩa vụ cơ bản của mình đối với cộng đồng nói chung, và ngành khoa học pháp lý nói riêng, tôi thực hiện đề tài cũng mong góp phần nâng cao trình độ hiểu biết về pháp luật xử lý vi phạm hành chính cho bản thân và đông đảo quần chúng nhân, từ đó hình thành một nếp sống văn minh, tiến bộ, tuân thủ những quy định của Hiến pháp và pháp luật. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và công tác xử lý vi phạm hành chính của các cơ quan có thẩm quyền ở việt Nam hiện nay. Đề tài này tập trung nghiên cứu thực trạng vi phạm pháp luật hành chính và công tác xử lý vi phạm hành chính của các cơ quan quản lý hành chính, đồng thời cũng nêu lên những quy định hiện hành về xử lý vi phạm hành chính. Phương pháp nghiên cứu. Tôi chọn phương pháp duy vật biện chứng làm phương pháp nghiên cứu trong quá trình thực hiện đề tài này, đồng thời tôi cũng sử dụng nhiều phương pháp hỗ trợ khác: phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp phân tích; tổng hợp; tư duy lịch sử... Bố cục. Đề tài gồm ba phần: Phần mở đầu. -Tính cấp thiết của đề tài, ý nghĩa khoa học và thực tiễn. -Mục đích nghiên cứu. -Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. -Phương pháp nghiên cứu. -Bố cục. 5.2 Phần nội dung. Gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận và những quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Chương 2: Thực trạng xử lý vi phạm hành chính ở Việt Nam hiện nay. Chương 3: Những đề xuất, kiến nghị. 5.3 Phần kết luận. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH. 1.1 khái niệm vi phạm hành chính. Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm các quy tắc quản lý hành chính nhà nước mà không phải tội phạm hình sự, và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính. Theo nguyên tắc hành vi, luật hành chính Việt Nam không đặt vấn đề trách nhiệm hành chính đối với những khuynh hướng tư tưởng của con người, không đặt vấn đề trách nhiệm hành chính đối với các biểu hiện ra bên ngoài mà không phải hành vi. 1.2 Xử lý vi phạm hành chính. Xử lý vi phạm hành chính bao gồm xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp xử lý hành chính khác. Xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng với cá nhân, cơ quan, tổ chức có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý hành chính nhà nước mà không phải là tội pham, và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính. Các biện pháp xử lý hành chính khác được áp dụng đối với các cá nhân vi phạm pháp luật về an ninh trật tự, an toàn xã hội, nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định tại các điều: 23; 24; 25; 26; và 27 của Pháp lệnh xử lý các vi phạm hành chính (2002). 1.3 Các nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính. 1.3.1 Mọi vi phạm hành chính phải được phat hiện kịp thời và phải bị đình chỉ ngay. Việc xử lý các vi phạm hành chính phải được tiến hành nhanh chóng, công minh, triệt để, mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật. 1.3.2 Cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt hành chính khi có vi phạm hành chính do pháp luật quy định cụ thể trong các văn bản luật của Quốc hội, Pháp lệnh của uỷ ban Thường vụ Quốc hội và nghị định của chính phủ. Các văn bản do Thủ tướng chính phủ, các Bộ trưởng, thủ trưởng các cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân ban hành để chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức thực hiện xử lý vi phạm hành chính theo thẩm quyền không được quy định hành vi vi phạm hành chính và hình thức, mức phạt. 1.3.3 Việc xử lý vi phạm hành chính phải do người có thẩm quyền tiến hành theo đúng quy định của pháp luật. 1.3.4 Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt hành chính một lần, cụ thể: a) Một hành vi phạm đã được người có thẩm quyền xử phạt ra quyết định xử phạt hặc đã lập biên bản đẻ xử lý thì không được lập biên bản, ra quyết đinh xử phạt lần thứ hai đối với chính hành vi đó nữa. Trong trường hợp hành vi vi phạm vẫn tiếp tục được thực hiện mặc dù đã bị người có thẩm quyền xử phạt ra quyết định đình chỉ thì bị áp dụng tình tiết tăng nặng quy định tại Khoản 8 Điều 9 của pháp lệnh xử lý các vi phạm hành chính. b) Một hành vi vi phạm hành chính đã được người có thẩm quyền xử phạt ra quyết định xử phạt thì không đồng thời áp dụng biện pháp xửu lý hành chính khác thoe quy định tại Điều 22 của Pháp lệnh xử lý các vi phạm hành chính đối với hành vi đó. c) Trong trường hợp hành vi vi phạm có dấu hiệu tội phạm bị chuyển hồ sơ đề nghi truy cứu trách nhiệm hình sự mà trước đó đã có quyết định xử phạt vi phạm hành chính thì người đã có quyết định xử phạt phải huỷ bỏ quyết định xử phạt, nếu chưa ra quyết định xử phạt thì không xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi đó. Nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì mỗi người vi phạm đều bị xử phạt về hành vi vi phạm đó và người xử phạt căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, nhân thân người vi phạm, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ mà ra quyết định xử phạt đối với từng người cùng thực hiện vi phạm hành chính. Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm; người có thẩm quyền xử phạt chỉ ra một quyết định xử phạt trong đó quyết định hình thức, mức độ xử phạt đối với từng hành vi vi phạm;nếu các hình thức xử phạt là phạt tiền thì cộng lại thành mức phạt chung ( Khoản 2 Điều 56 của Pháp lệnh xử lý các vi phạm hành chính). 1.3.5 Việc xử lý vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, nhân thân người vi phạm và những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng để quyết định hình thức, biện pháp xử lý thích hợp. 1.3.6 Không xử lý vi phạm hành chính trong các trường hợp thuộc tình thế cấp thiết, phòng vệ chính đáng, sự kiện bất ngờ hoặc vi phạm hành chính trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. 1.4 Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính. 1.4.1 Đối với mỗi vi phạm hành chính, cá nhân, tổ chức vi phạm phải chịu một trong các hình thức xử phạt chính sau đây: a) Cảnh cáo. b) Phạt tiền. 1.4.2 Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính còn có thể bị áp dụng một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung sau đây: a) Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề; b) Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính. 1.4.3 Ngoài các hình thức xử phạt được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính còn có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả sau đây: a) Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép; b) Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh do vi phạm hành chính gây ra; c) Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất hàng hóa, vật phẩm, phương tiện; d) Buộc tiêu hủy vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi và cây trồng, văn hóa phẩm độc hại; đ) Các biện pháp khác do Chính phủ quy định. 1.4.4 Người nước ngoài vi phạm hành chính còn có thể bị xử phạt trục xuất. Trục xuất được áp dụng là hình thức xử phạt chính hoặc xử phạt bổ sung trong từng trường hợp cụ thể. 1.5 Các biện pháp xử lý hành chính khác. Các biện pháp xử lý hành chính khác là các biện pháp nhằm tăng cường hiệu lực xử lý hành chính bằng những hình thức có tính cưỡng chế đối với từng đối tượng vi phạm hành chính. Các biện pháp xử lý hành chính khác bao gồm: a) Giáo dục tại xã, phường, thị trấn. b) Đưa vào trường giáo dưỡng. c) Đưa vào cơ sở giáo dục. d) Đưa vào cơ sở chữa bệnh. Trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp nêu trên được quy định chặt chẽ trong pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và các văn bản hướng dẫn thi hành. 1.6 Thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính. Xử lý vi phạm hành chính là một dạng hoạt động áp dụng pháp luật hành chính, là quá trình các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền căn cứ vào pháp luật, tính chất, mức độ vi phạm, nhân thân người vi phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ… để ban hành các quyết định xử phạt. Việc hoàn thiện các quy định về xử phạt vi phạm hành chính (XPVPHC) là đòi hỏi cấp thiết trong tình hình hiện nay nhằm đảm bảo việc xử phạt đúng đắn. Các quy định về XPVPHC phải được thực thi nghiêm chỉnh từ phía các cơ quan có thẩm quyền XPVPHC, trong đó việc xác định thẩm quyền xử phạt có ý nghĩa rất quan trọng. Theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính (2002) thì thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính chủ yếu thuộc về các cơ quan hành chính Nhà nước, trong đó cơ quan hành chính Nhà nước có thẩm quyền chung ở địa phương (Ủy ban nhân dân các cấp) có thẩm quyền xử phạt đối với mọi vi phạm hành chính xảy ra trên địa bàn quản lý của mình. Còn các cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực có thẩm quyền xử phạt đối với các vi phạm hành chính xảy ra trong ngành, lĩnh vực mình phụ trách. Cụ thể: 1.6.1 Cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính. Không phải mọi cơ quan thuộc bộ máy nhà nước có thực hiện các chức năng quản lý nhà nước đều có thẩm quyền xử lý ci phạm hành chính. - Uỷ ban nhân dân các cấp (tỉnh, huyện, xã). - Công an nhân dân. - Bộ đội biên phòng. - Cảnh sát biển. - Hải quan. - Kiểm lâm. - Cơ quan thuế. - Quản lý thị trường. - Thanh tra chuyên nghành. - Giám đốc cảng vụ ( hàng hải, thuỷ nội địa, hàng không). - Toà án nhân dân. - Cơ quan thi hành án dân sự. 1.6.2 Người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính. Trong các cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm nói trên thì những người được quy định có thẩm quyền được xử lý vi phạm hành chính lại khá nhiều (68 người), cụ thể là: - Chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp xã(xã, phường, thị trấn). - Chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp huyện ( quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh). - Chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp tỉnh (tỉnh , thành phố trực thuộc trung ương). - Chiến sĩ công an nhân đang thi hành công vụ. - Trạm trưởng, đội trưởng của chiến sĩ công an nhân dân đang thi hành công vụ. - Trưởng công an cấp xã. - Trưởng công an cấp huyện. - Trưởng phòng cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội. - Trưởng phòn cảnh sát giao thông. - Trưởng phòng cảnh sát phòng cháy, chữa cháy. - Trưởng phòng cảnh sát kinh tế. - Trưởng phòng cảnh sát phòng chống ma tuý. - Trưởng phòng cảnh sát hình sự. -Trưởng phòng quản lý xuất, nhập cảnh. - Thủ trưởng đơn vị cảnh sát cơ động từ cấp Đại đội trở lên, hoạt động có tính chất độc lập. - Trạm trưởng Trạm công an cửa khẩu khu chết xuất. - Chiến sĩ bộ đội biên phòng đang thi hành công vụ. - Đội trưởng của chiến sĩ Bộ đội biên phòng đang thi hành công vụ. - Chỉ huy trưởng Tiểu khu biên phòng. - Chỉ huy trưởng Hải đội biên phòng. - Trưởng đồn biên phòng. - Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng cấp tỉnh. - Chỉ huy trưởng Hải đoàn biên phòng trực thuộc bộ tư lệnh Bộ đội biên phòng. - Giám đốc Công an cấp tỉnh. - Cục trưởng Cục Cảnh sát kinh tế. - Cục trưởng Cục Cảnh sát phòng cháy chữa cháy. - Cục trưởng Cục Cảnh sát hình sự. - Cục trưởng Cục Cảnh sát hình sự. - Cục trưởng Cục Quản lý xuất, nhập cảnh. - Cục trưởng Cục Cảnh sát giao thông trật tự. - Cục trưởng Cục quản lý hành chính về trật tự xã hội. - Cục trưởng Cục Cảnh sát phòng chống ma tuý. - Cảnh sát viên Đội nghiệp vụ Cảnh sát biển đang thi hành công vụ. - Tổ trưởng Tổ Nghiệp vụ Cảnh sát biển. - Đội trưởng Đội Nghiệp vụ Cảnh sát biển. - Hải đội trưởng Hải đội cảnh sát biển. - Hải đoàn trưởng Hải đoàn Cảnh sát biển. - Chỉ huy trưởng Vùng Cảnh sat biển. - Cục trưởng Cục Cảnh sát biển. -Đội trưởng nghiệp vụ thuộc Chi cục Hải quan. - Chi cục trưởng Chi cục Hải quan. - Đội trưởng Đội Kiểm soát Hải quan cấp tỉnh, liên tỉnh. - Đội trưởng Đội Kiểm soát chống buôn lậu và Hải đội trưởng Hải đội kiểm soát trên biển ( thuộc cục điều tra chống buôn lậu thuộc Tổng cục Hải quan). - Cục trưởng Cục Hải quan (cấp tỉnh). - Cục trưởng Cục điều tra chống buôn lậu, thuộc Tổng cục Hải quan. - Kiểm lâm viên đang thi hành công vụ. - Trạm trưởng trạm kiểm lâm. - Hạt trưởng Hạt kiểm lâm, Hạt trưởng Hạt phúc kiểm lâm sản. - Đội trưởng đội kiểm lâm lưu động. - chi cục trưởng chi cục kiểm lâm. - cục trưởng cục kiểm lâm( cấp tỉnh). - Nhân viên thuế vụ đang thi hành công vụ. - trạm trưởng trạm thuế, Đội trưởng Đội thuế. - Chi cục trưởng chi cục thuế (cấp huyện). - Cục trưởng cục thuế (cấp tỉnh). - kiểm soát viên thi trường đang thi hành công vụ. - Đội trưởng Đội quản lý thị trường. - Chi cục trưởng chi cục quản lý thị trường ( cấp huyện). - Cục trưởng Cục quản lý thị trường( cấp tỉnh) - thanh tra viên chuyên nghành đang thi hành công vụ. - Chánh thanh tra chuyên nghành cấp Sở. - chánh thanh tra chuyên nghành, Bộ, Cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc chính phủ. - Giám đốc cảng vụ hải quan. - Giám đốc cảng vụ thuỷ nội địa. - Giám đốc cảng vụ hàng không. - Thẩm phán toà án được phân công làm chủ toạ phiên toà. - Chấp hành viên thi hành án dân sự. - Đội trưởng Đội thi hành án dân sự. - Trưởng phòng Thi hành án dân sự cấp tỉnh, phòng thi hành án cấp quân khu và cấp tương đương. 1.7Các văn bản pháp luật quy định về xử lý vi phạm hành chính. 1) Pháp lệnh xử lý các vi phạm hành chính 2002 . 2) Các văn bản pháp luật quy định trong từng lĩnh vực cụ thể như: + Nghị định 99/2009/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản. +Nghị định 111/2009/NĐ-CP của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử. +Thông tư 193/2009/TT-BTC của Bộ Tài chính quy định chi tiết thi hành Nghị định số 97/2007/NĐ-CP ngày 07/06/2007 của Chính phủ quy định việc xử lý vi phạm hành chính và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính trong lĩnh vực hải quan và Nghị định số 18/2009/NĐ-CP. +Thông tư 26/2010/TT-BCA của Bộ Công an về việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn, nội dung, trình tự kiểm tra, xử lý vi phạm hành chính về trật tự, an toàn giao thông đường sắt. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH Ở NƯỚC TA HIỆN NAY. Xử lý vi phạm hành chính là một trong các lĩnh vực cấu thành nên bốn trách nhiệm pháp lý quan trọng trong hệ thống pháp luật của đất nước. Do đó, xây dựng pháp luật về xử lý vi phạm hành chính đóng một vai trò quan trọng trong công cuộc hoàn thiện hệ thống pháp luật. Từ lâu, QH đã quan tâm và đánh giá đúng vai trò, tầm quan trọng của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong quản lý nhà nước, trong việc bảo đảm duy trì và nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành chính. Năm 1989, UBTVQH ban hành Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính, đánh dấu mốc cho quá trình xây dựng pháp luật trong lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính. Qua các năm 1995, 2002 và 2008, UBTVQH đã nhiều lần sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh, nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng ngừa và chống các vi phạm hành chính cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Qua mỗi lần sửa đổi, bổ sung, thay thế, Pháp lệnh đã được hoàn thiện thêm một bước.  Báo cáo của Bộ Tư pháp tổng kết tình hình thực hiện 8 năm Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 – được các đại biểu tham dự Hội thảo Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính đánh giá cao. Theo Báo cáo, các văn bản quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính do Trung ương và các địa phương ban hành đã quy định rõ đối tượng áp dụng, nguyên tắc xử lý, các hình thức xử phạt và các biện pháp xử lý vi phạm hành chính khác, thẩm quyền áp dụng... Nhìn chung, các văn bản này đã bảo đảm tính khả thi và đáp ứng kịp thời yêu cầu đấu tranh phòng chống các hành vi vi phạm trong lĩnh vực hành chính. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về xử lý vi phạm hành chính cũng luôn được các cấp, ngành, các địa phương quan tâm triển khai thực hiện. Kết quả của nhiều cuộc khảo sát thực tế của Bộ Tư pháp tại một số địa phương trên cả nước cho thấy, công tác đấu tranh, phòng chống vi phạm hành chính tại các địa phương về cơ bản đã đạt được những kết quả tích cực. Pháp luật trong lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính đã từng bước được hoàn thiện, góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong công tác xử lý vi phạm hành chính, tăng cường tính răn đe, giáo dục người vi phạm, thiết lập trật tự, kỷ cương xã hội. Tuy nhiên, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính đã bộc lộ một số điểm bất cập như: nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính chưa đầy đủ; các quy định về hình thức xử phạt hiện hành chưa phong phú, không đáp ứng được đòi hỏi của công tác đấu tranh, phòng chống các vi phạm hành chính trong tình hình mới; các văn bản quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong nhiều lĩnh vực chưa được bổ sung, thay thế kịp thời dẫn tới tình trạng không thể triển khai trong thi hành. Nhiều quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính không còn
Tài liệu liên quan