Quản lý với bài toán xóa đói giảm nghèo và nâng cao dân trí khu vực miền núi phía Bắc

Xoá đói giảm nghèo và nâng cao dân trí là bài toán khó mà bất kì quốc gia đang phát triển nào cũng phải đối mặt. Hậu quả do đói nghèo và dân trí thấp gây ra cho sự phát triển chung của một vùng cũng như một quốc gia là vô cùng nặng nề. Sự bất ổn về kinh tế sẽ dẫn đến sự bất ổn về chính trị, đó là điều mà bất kì nhà quản lý vĩ mô nào cũng hiểu được.Nhưng những nhà quản lý Việt Nam vẫn đang rất lúng túng trong việc giải quyết bài toán khó, mà biểu hiện cụ thể của nó là: khoảng cách giàu nghèo của việt nam ngày càng tăng, tình trạng tái nghèo vẫn diễn ra Đừng đổ lỗi cho răng sự bất bình đẳng là sự trả giá cho sự tăng trưởng, đừng dựa vào mô hình “chữ U ngược “ của Kuznes để biện minh. Nếu chúng ta, những nhà quản lý không vô trách nhiệm , sử dụng lãng phí những đồng vốn vào những dự án mía đường, dự án nuôi bò sữa hay để thất thoát, tham nhũng, chi tiêu sai mục đích hàng ngàn tỷ đồng thì mọi sự có thể sẽ khác đi. Quản lý với đầy đủ những chức năng của nó, thêm vào đó là những chính sách đúng đắn và sự quan tâm của toàn xã hội sẽ là lời giải hay cho bài toán khó xoá đói giảm nghèo. Xoá đói giảm nghèo là vấn đề trước mắt, nâng cao dân trí là vấn đề lâu dài, song hai vấn đề này cần phải được giải quyết song song, tuy không phải là trong một sớm một chiều, nhưng những nhà quản lý cần phải nhanh chóng tìm lời giải, tháo dỡ sợi dây níu giữ sự bứt phá trên con đường phát triển của Việt Nam. Đề án này đề cập đến vấn đề: Quản lý với bài toán xoá đói giảm nghèo và nâng cao dân trí khu vực miền núi phía Bắc với mong muốn cung cấp một lời giải cho bài toán khó này.

doc40 trang | Chia sẻ: lamvu291 | Lượt xem: 1595 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quản lý với bài toán xóa đói giảm nghèo và nâng cao dân trí khu vực miền núi phía Bắc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Xoá đói giảm nghèo và nâng cao dân trí là bài toán khó mà bất kì quốc gia đang phát triển nào cũng phải đối mặt. Hậu quả do đói nghèo và dân trí thấp gây ra cho sự phát triển chung của một vùng cũng như một quốc gia là vô cùng nặng nề. Sự bất ổn về kinh tế sẽ dẫn đến sự bất ổn về chính trị, đó là điều mà bất kì nhà quản lý vĩ mô nào cũng hiểu được.Nhưng những nhà quản lý Việt Nam vẫn đang rất lúng túng trong việc giải quyết bài toán khó, mà biểu hiện cụ thể của nó là: khoảng cách giàu nghèo của việt nam ngày càng tăng, tình trạng tái nghèo vẫn diễn ra…Đừng đổ lỗi cho răng sự bất bình đẳng là sự trả giá cho sự tăng trưởng, đừng dựa vào mô hình “chữ U ngược “ của Kuznes để biện minh. Nếu chúng ta, những nhà quản lý không vô trách nhiệm , sử dụng lãng phí những đồng vốn vào những dự án mía đường, dự án nuôi bò sữa…hay để thất thoát, tham nhũng, chi tiêu sai mục đích hàng ngàn tỷ đồng thì mọi sự có thể sẽ khác đi. Quản lý với đầy đủ những chức năng của nó, thêm vào đó là những chính sách đúng đắn và sự quan tâm của toàn xã hội sẽ là lời giải hay cho bài toán khó xoá đói giảm nghèo. Xoá đói giảm nghèo là vấn đề trước mắt, nâng cao dân trí là vấn đề lâu dài, song hai vấn đề này cần phải được giải quyết song song, tuy không phải là trong một sớm một chiều, nhưng những nhà quản lý cần phải nhanh chóng tìm lời giải, tháo dỡ sợi dây níu giữ sự bứt phá trên con đường phát triển của Việt Nam. Đề án này đề cập đến vấn đề: Quản lý với bài toán xoá đói giảm nghèo và nâng cao dân trí khu vực miền núi phía Bắc với mong muốn cung cấp một lời giải cho bài toán khó này. Phần I: Cơ sở lý luận Khái niệm về quản lý: Quản lý và các dạng quản lý Có nhiều cách hiểu khác nhau về quản lý nhưng nhìn chung có thể hiểu: quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt được những mục tiêu nhất định trong điều kiện biến động của môi trường. Với định nghĩa trên, quản lý có phạm vi hoạt động vô cùng rộng lớn, được chia làm ba dạng chính: Quản lý giới vô sinh Quản lý giới sinh vật. Quản lý xã hội loài người. Tất cả các dạng quản lý trên đều mang những đặc điểm chung sau đây: Để quản lý được phải tồn tại một hệ quản lý bao gồm hai phân hệ: chủ thể quản lý và đối tượng quản lý. Chủ thể quản lý là tác nhân tạo ra các tác động quản lý nhằm dẫn dắt đối tượng quản lý đi đến mục tiêu. Chủ thể có thể là một người, một bộ máy quản lý gồm nhiều người. Đối tương quản lý tiếp nhận các tác động của chủ thể quản lý. Đây có thể là những yếu tố thuộc giới vô sinh, giới sinh vật hoặc con người. Phải có một hoặc một tập hợp mục đích thống nhất cho cả chủ thể và đối tượng quản lý. Đạt mục đích theo cách tốt nhất trong hoàn cảnh môi trường luôn biến động và nguồn lực hạn chế là lí do tồn tại của quản lý. Đó cũng chúnh là căn cứ quan trọng nhất để chủ thể tiến hành các tác động quản lý. Quản lý bao giờ cũng liên quan đến việc trao đổi thông tin nhiều chiều. Quản lý là một quá trình thông tin. Chủ thể quản lý phải liên tục thu thập dữ liệu về môi trường và hệ thống, tiến hành chọn lọc thông tin, xử lý thông tin, bảo quản thông tin, truyền tin và ra quyết định, một dạng thông tin đặc biệt nhằm tác động lên các đối tượng quản lý. Còn đối tượng quản lý phải tiếp nhận các tác động quản lý của chủ thể cùng các đảm bảo vật chất khác để thực hiện các chức năng, nhiêm vụ của mình. Quản lý bao giờ cũng có khả năng thích nghi. Đứng trước những thay đổi của đối tượng quản lý cũng như môi trườngcả về quy mô và mức độ phức tạp, chủ thể quản lý không chịu bó tay mà vẫn có thể tiếp tục quản lý có hiệu quả thông qua việc điều chỉnh, đổi mới cơ cấu, phương pháp, công cụ và hoạt động của mình. Với những đặc điểm trên có thể khẳng định rằngquản lý là một tiến trình năng dộng. Quản lý nhà nước về kinh tế: Khái niệm: Quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân là sự tác động có tổ chức và bằng pháp quyền của nhà nước lên nền kinh tế quốc dân nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước, các cơ hội có thể có, để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế đất nước đã đặt ra, trong điều kiện hội nhập và mở rộng giao lưu quốc tế. Quản lý kinh tế là nội dung cốt lõi của quản lý xã hội nói chung và nó phải gắn chặt với các hoạt động quản lý khác của xã hội. Quản lý nhà nước về kinh tế được thể hiện thông qua các chức năng kinh tế và quản lý kinh tế của nhà nước. Như đã phân tích ở trên, việc khắc phục những nhược điểm, hạn chế khuyết tật của cơ chế thị trường, để tạo điều kiện thuân lợi cho cơ chế này hoạt động có hiệu quả, không thể không có nhà nước với tư cách là chủ thể của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Như vậy, nhà nươc thực hiện chức năng quản lý kinh tế là nhu cầu khách quan , nội tại và nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường; còn việc điều tiết, khống chế và định hướng các hoạt động kinh tế của các cơ sở thuộc các thành phần kinh tế theo phương hướng và mục tiêu nào lại lệ thuộc vào bản chất của các hình thức nhà nước và con đường phát triển mà nước đó lựa chọn. Các kết luận cần lưu ý: Từ định nghĩa đã nêu có thể rút ra các kết luận cơ bản sau: - Thực chất của quản lý nhà nước về kinh tế là việc tổ chức và sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực trong và ngoài nước mà nhà nước có khả năng tác động vì mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước. Trong đó có vấn đề nắm bắt được con người, tổ chức và tạo động lực lớn nhấtcho con người hoạt động trong xã hội. Đúng như Trần hưng Đạo đã nói “ Kể ra dân không bao giờ hai lòng, sợ ta thì khinh địch, sợ địch thì khinh ta. Bị dân khinh thì thua, dân sợ uy thì thắng”. - Bản chất của quản lý nhà nước về kinh tế là đặc trưng thể chế chính trị của đất nước; nó chỉ rõ nhà nước là công cụ của giai cấp hoặc lực lượng chính trị nào? Nó dựa vào ai, hướng vào ai để phục vụ? Đây là vấn đề khác nhau cơ bản giữa quản lý nhà nước về kinh tế của các chế độ xã hội khác nhau. - Quản lý nhà nước về kinh tế còn là một nghệ thuật và một nghề vì nó lệ thuộc không nhỏ vào trình độ nghề nghiệp, nhân cách , bản lĩnh của đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế; phong cách làm việc, phương pháp và hình thức tổ chức quản lý; khả năng thích nghi cao hay thấp… của bộ máy quản lý kinh tế nhà nước. Khái niệm về đói nghèo: Quan niệm chung: Trong đời sống thực tiễn cũng như trong nghiên cứu khoa học các vấn đề kinh tế-xã hội chúng ta thường thấy các khái niệm sau đây: đói nghèo hoặc nghèo khổ; giàu- nghèo và phân hóa giàu nghèo; trong xã hội học còn đề cập đến cả thuật ngữ: phân tầng xã hội , phân hóa giai cấp, phân cực xã hội. Ngay khái niệm đói nghèo nếu tách riêng ra để phân tích và nhân dạng, cũng thấy giữa đói và nghèo, trong cặp đôi này vừa quan hệ mật thiết với nhau lại vừa có sự khác biệt về mức độ và cấp độ. Đã lâm vào tình trạng đói thì đương nhiên là nghèo. Theo cách tư duy của người Việt nam, chúng ta thừong nhân diện đói ở hai dạng: đói kinh niên và đói gay gắt. Đây vẫn thuần túy là đói ăn, nằm chọn trong phạm trù kinh tế vật chất. Nó khác với đói thông tin, đói thụ hưởng văn hóa thuộc phạm trù đời sống tinh thần. Quan niệm về nghèo thì có thể có nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối. Tất nhiên dù ở dạng nào thì nghèo vẫn có quan hệ mật thiết với đói. Nghèo là một kiểu đói tiềm tàng và đói là một tình trạng hiển nhiên của nghèo. Sự nghèo vànghèo khổ kéo dài, nếu không ra khỏi cái vòng của sự trì trệ, túng thiếu thì chỉ cần xảy ranhữngbiến cố đột xuất của hoàn cảnh (thiên tai, đau ốm , bệnh tật, rủi ro…) là con người ta dễ dàng rơi vào cảnh đói ( đói khổ , đói rách). Ở đây, chúng ta xem xét hiện tượng đói nghèo ở góc độ đời sống vật chất, góc độ kinh tế, tức là tính vật chất của nó. Chủ thể xem xét ở đây là con người, từng cá thể cũng như trongpham vi xã hội, tức là cộng đồng dân cư xác định, quy mô lớn, nhỏ, rộng, hẹp khác nhau. Vì thế, với những cách tiếp cân khác nhau, chúng ta có thể hướng mục tiêu nghiên cứu vào người nghèo, hộ nghèo, vùng dân cư nghèo, nước nghèo và khu vực nghèo. Các hội nghị bàn về giảm nghèođói trong khu vực châu Á- Thái bình Dương do ESCAP tổ chức ở Băng Cốc tháng 9.1993 đã đưa ra khái niệm và định nghĩa về nghèo đói như sau : “Nghèo đói là tình trạng một bộ phân dân cư không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã đựoc xã hội thừa nhận tùy theo tình trạng phát triển kinh tế, xã hội và phong tục tập quán của các địa phương”. Có thể xem đây là định nghĩa chung nhất về nghèo đói, một định nghĩa có tính chất hướng dẫnvề phương pháp đánh giá, nhận diện nét chính yếu, phổ biến về nghèo đói. Các tiêu chí và chuẩn mực đánh giá còn để ngỏ về mặt lượng hóa ( định lượng) , bởi nó chưa tính đến sự khác biệt và độ chênh lệch giữa các vùng, các điều kiện lịch sử cụ thể quy định trình độ phát triển ở mỗi nơi. Quan niệm hạt nhân có trong định nghĩa này là ở nhu cầu cơ bản của con người. Căn cứ xác định đói hay nghèo là ở chỗ đối với những nhu cầu cơ bản ấy, con người không được hưởng và thỏa mãn. Nhu cầu cơ bản nói ở đây chính là cái thiết yếu, tối thiểu để duy trì sự tồn tại của con người như ăn, mặc, ở. Theo đó, sự nghèo khổ tuyệt đối, sự bần cùng được biểu hiện là đói, là tình trạng con người không có ăn, ăn không đủ lượng dinh dưỡng tối thiểu cần thiết, sự đứt đoan trong nhu cầu ăn. Nói một cách khác, đói là một khái niệm biểu đạt tình trạng con người ăn không đủ no, không đủ năng lượng tối thiểu cần thiết để duy trì sự sống hằng ngày và không đủ sức để lao động, để tái sản xuất sức lao động. Đây là trường hợp đói gay gắt kinh niên, là tình trạng thiếu ăn thường xuyên. Cũng như vậy, nếu con người trong những hoàn cảnh đột xuất, bất ngờ do thiên tai bão lụt, mất mùa, bệnh tật, rơi vào cùng cực , không còn gì để sống, không có lương thực thực phẩm để ăn, có thể dẫn tới cái chết thì đólà trường hợp đói gay gắt cấp tính, phải cứu trợ khẩn cấp. Để lượng hóa các tiêu chí đói, người ta thường dùng số đo hiện vật theo quy chuẩn gạo hoặc số đo giá trị theo quy chuẩn tiền theo mức bình quân đầu người trong tháng. ở đây, mức chenh lệch là khác nhau giữa nông thôn và thành thị. Tính đến những biến động về giá cả trên thị trường tiêu dùng, nhất là khi có lạm phát, khủng hoảng,nền kinh tế suy thoái hoặc chậm phát triển, ta thường thấy mức hiện vật ( gạo) phổ biến được dùng làm số đo hiện trạng đói nghèo. Cách tính hiện nay ở nước ta là như vậy, nhất là khi khảo sát đói nghèo ở nông dân và nông thôn. Tiếp theo ta xem xét về khái niệm nghèo. Về mặt kinh tế, nghèo đồng nghĩa với nghèo khổ, nghèo túng, túng thiếu. Trong hoàn cảnh nghèo thì người nghèo và hộ nghèo vẫn chỉ vật lộn với những mưu sinh hằng ngày về kinh tế, vật chất, biểu hiện trực tiếp nhất ở bữa ăn. Họ không thể vươn tới các nhu cầu vêg văn hóa, tinh thần hoặc những nhu cầu này phải cắt giảm tới mức tối thiểu nhất, gần như không có. Điều này đặc biệt rõ ở nông thôn với hiện tượng trẻ em thất học, bỏ học, cán bộ nông dân nghèo không có khả năng để hưởng thụ văn hóa, chữa bệnh khi ốm đau, không đủ hoặc không thẻ mua sắm thêm quần áo cho nhu cầu mặc, sửa chữa nhà cửa cho nhu cầu ở… Nghèo là khái niệm chỉ tình trạng mà thu nhập thực tế của người dânchỉ dành chi hầu như toàn bộ cho ăn, thậm chí không đủ chi cho ăn, phần tích lũy hầu như không có. Các nhu cầu tối thiểu ngoài ăn ra thì các mặt khác như ở, mặc , văn hóa, y tế, giáo dục, đi lại, giao tiếp chỉ đáp ứng một phần rất ít ỏi, không đáng kể. Cần phân biệt hai dạng nghèo : nghèo tương đối và nghèo tuyệt đối. Nghèo tuyệt đối là tình trạngmột bộ phận dân cư không có khả năng thỏa mãn các nhu cầu tối thiểu để duy trì sự sống. Trên thưc té, một bộ phận dân cư nghèo tuyệt đổi rơi vào tình trạng đói và thiếu đói. Nghèo tương đối là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức trung bình của cộng đồng tại địa phương. Quan niệm này phù hợp với sự xác định khái niệm nghèo khổ, hiểu theo hai nghĩa tuyệt đối và tương đối do ủy ban kinh tế, xã hội khu vực châu Á – Thái Bình Dương đưa ra gần đây. Phương pháp đánh giá nghèo khổ: Theo quan điểm tiếp cận của WB , thì phạm vi của sự nghèo khổ ngày càng mở rộng. Nghèo khổ thường gắn với sự thiếu thốn trong tiêu dùng. Nhưng từ giữa năm 1970 và những năm 1980 , nghèo khổ được tiếp cận theo nhu cầu cơ bản gồm: tiêu dùng, dịch vụ xã hội và nguồn lực. Từ giữa những năm 1980 đến nay tiếp cận theo năng lực và cơ hội, gồm: tiêu dùng , dịch vụ xã hội, nguồn lực và tính dễ bị tổn thương. Từ cách tiếp cận trên, khi đánh giá tình trạng nghèo khổ không chỉ dựa theo tiêu chí thu nhập mà còn gồm cả những tiêu chí không gắn với thu nhập Tuy nhiên ở các nước đang phát triển, việc phân tích và đánh giá nghèo khổ chủ yếu dựa trên tiêu chí thu nhập ( hay chi tiêu) . Phương pháp này cho phép so sánh tình trạng nghèo khổ giữa các nước, các vùng khác nhau theo thời gian nhằm cung cấp thông tin cho các chính sách công và đánh giá được mức độ thành công của chính sách đó. Nhưng làm thế nào để biểu thị “ nghèo khổ” bằng một con số có ý nghĩa? Các nhà kinh tế đã dựa trên khái niệm” nghèo khổ tuyệt đối” . Khái niệm này nhằm biểu thị một mức thu nhập tối thiểu cần thiết để đảm bảo những nhu cầu vạt chất cơ bản như lương thực , quần áo, nhà ở để cho mỗi người có thể tiếp tục tồn tại. Tuy nhiên khi xem xét mức nghèo khổ theo khái niệm trên nảy sinh một số vấn đề sau: - Thứ nhất, việc xác định mức này là một vấn đề chủ quan, gây khó khăn cho việc so sánh giữa các nước. - Thứ hai, mức thu nhập tối thiểu cần thiết sẽ thay đổi theo tiêu chuẩn của mức sống theo thời gian và theo quốc gia ( hay khu vực) . Chẳng hạn, một người dân ở nước phát triển hiện nayđược phân loại là nghéo thì thực ra họ lại còn có mức sống tốt hơn những người dân ở nước họ vào những năm 1960 hoặc một số người dân ở một số nước kém phát triển ngày nay mà họ không được coi là nghèo. Do vậy một phương pháp đã được các nhà kinh tế sử dụng là xác định “ giới hạn nghèo khổ” hay còn gọi là “đường nghèo khổ”. Vậy “ giới hạn nghèo khổ được tính như thế nào? Về phương pháp luận tiếp cận, chúng ta có thể lựa chọn xác định giới hạn nghèo khổ theo thu nhập hay theo chi tiêu. Tuy nhiên phương pháp được sử dụng nhiều hơn là tiếp cận theo chi tiêu.Vì chi tiêu của hộ gia đình là chỉ số liên quan chặt chẽ đến phúc lợi hơn là thu nhập. Và số liệu về thu nhập thường không chính xác, đặc biệt là ở các nước đang phát triện ( có một bộ phận những người lao động là tự hành nghề). - Phương pháp của Ngân hàng thế giới: Phương pháp mà WB đã sử dụng ở nhiều nước đang phát triển là dựa vào ngưỡng chi tiêu tính bằng dolla mỗi ngày. Ngưỡng nghèo thường dùng hiện nay là 1 dolla và 2 dolla/ ngày ( theo sức mua tương đương) . Đây là ngưỡng chi tiêu có thể đảm bảo mức cung cấp năng lượng tôi thiểu cần cho con người, mức chuẩn đó là 2100 calo/ người/ ngày. Ngưỡng nghèo này gọi là ngưỡng nghèo lương thực, thực phẩm ( nghèo đói ở mức thấp). Vì mức chi tiêu này chỉ đảm bảo mức chuẩn về cung cấp năng lượng mà không đủ chi tiêu cho những hàng hóa phi lương thực. Những người có mức chi tiêu dưới mức chi cần thiết để đạt được 2100 calo/ngày gọi là “nghèo về lương thực, thực phẩm”. - Phương pháp của Việt Nam: Ở Việt Nam hiện nay, có phương pháp tiếp cận với ranh giới nghèo đói như sau: + Phương pháp dựa vào cả thu nhập và chi tiêu theo đầu người ( phương pháp của tổng cục thống kê). Phương pháp này xác định hai ngưỡng nghèo. * Ngưỡng nghèo thứ nhất là số tiền cần thiết để mua được một số lương thực hằng ngày để đảm bảo mức độ dinh dưỡng. Như vậy phương pháp này tương tự như phương pháp của WB. *Ngưỡng nghèo thứ hai, thường được gọi là “ ngưỡng nghèo chung”, ngưỡng này bao gồm cả phần chi tiêu cho hàng hóa phi lương thực. Ngưỡng nghèo Việt Nam đựoc tính toán từ cuộc điều tra mức sống dân cư năm 1998 như sau: Ngưỡng nghèo về lương thực thực phẩm: 1 287 000 đ/người/ năm. Ngưỡng nghèo chung: 1 788 000 đ/ người/ năm. + Phương pháp dựa trên thu nhập hộ gia đình( Phương pháp của Bộ Lao Động và Thương Binh Xã Hội) . Phương pháp này hiện đang được sử dụng để xác định chuẩn nghèo đói của chương trình xóa đói giảm nghèo quốc gia ( chuẩn nghèo quốc gia). Chuẩn nghèo áp dụng cho thời kì 2001-2005 được xác định dựa trên thu nhập theo 3 vùng. Cụ thể là: * Vùng hải đảo và vùng núi nông thôn: bình quân thu nhập là 80 000/ người/ tháng. *Vùng đồng bằng nông thôn; 100 000đ/ người/ tháng. *Khu vực thành thị là 150 000 đ/ người/ tháng. Người được coi là nghèo khổ về thu nhập là những người mà thu nhập của họ nằm bên dưới các “giới hạn’ đã được quy định nói trên. Việc nhận diện ai là người nghèo luôn là một vấn đề khó khăn. Cách thông thường và đã được các nước đang phát triển , WB sử dụng là dựa vào kết quả các cuộc điều tra về thu nhập ( chi tiêu) của hộ gia đình. Những người đang sống trong “ nghèo khổ tuyệt đối” là những ngừoi mà 4/5 chi tiêu của họ cho nhu cầu về ăn mà chủ yếu là lương thực và một chút ít cho thực phẩm ( thịt hoặc cá ); tất cả đều thiếu dinh dưỡng; chỉ khoảng 1/3 số người lớn biết chữ; và tuổi thọ trung bình của họ vào khoảng 40 năm. Một cách tiếp cận khác cũng thường được sử dụng để xem xét nghèo đói là chia dân cư thành các nhóm khác nhau ( theo 5 nhóm ), Nhóm 1/5 nghèo nhất là 20% dân số, những người sống trong các hộ gia đình có mức thu nhập ( chi tiêu) thấp nhất. III. Quản lý với bài toán xoá đói giảm nghèo và nâng cao dân trí: Từ thực trạng đói nghèo trên thế giới, chúng ta tim những bài học kinh ngiệmchống đói nghèo của các nước trong khu vực, kinh nghiệm tổng quát bao trùm mà nhiều nước trên thế giới và khu vực đã thực hiệncó kết quả. Những kinh nghiệm đó lấp dụng những can thiệp vĩ môthuộc về vai trò quản lý kinh tế, xã hội của nhà nước để chống lại đói nghèo , xóa đói , giảm nghèo tường bước có hiệu quả. Điểm mấu chốt trong kinh nghiệm các nước này là Nhà nước kịp thời có những giải pháp và chính sách đúng đắn, đồng bộ, đồng thời đảm bảo được những điều kiện để thực thi. Những giải pháp và chính sách đó hướng vào phát triẻn sản xuất, tăng trưởng kinh tế, thực hiện bằng được nhữngnhững cải thiện rõ rệt mức sống dân cư , gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội. Về mặt lý thuyết, ý tưởng nằm ở vị trí chủ đạo của mọi chiến lược phát triển và mọi chương trình, kế hoạch quản lyax hội của Nhà nước. Những kết quả, thành tựu đạt được trong việc khắc phục đói nghèở các nước trong mỗi giai đoạn xây dựng và cải cách kinh tế- xã hội đã vừa xác nhận, vừa làm tăng thêm ý nghĩa của bài học kinh nghiệm này. Nó như một điểm tựa, là cơ sở lý luận cho các quyết sách của chính phủ. Về mặt thực tiễn xã hội, bài học kinh nghiệm này cho thấy tần quạn trọng thiết thựccủa các chính sách hỗ trợ , phát triển cho người nghèo bằng cách tạo việc làm và tăng thu nhập thực tế cho họ, tạo cho họ cơ hội và trợ giúp các điều kiện để tự mình thoát khỏi đói nghèo. Đay là phương thức cơ bản , lâu dài vì không thể giải quyết đói nghèo trên quy mô xã hội và cộng đồng dân cư chỉ bằng cách tự cứu, cứu tế đơn thuần. Cũng không thể giản đơn cắt bớt thu nhập của người giàu để phân phối cho người nghèo. Biện pháp này có tính chất thụ động gây hiệu quả tiêu cực , tạo thêm tâm lý chờ đợi ỷ lại và đòi hỏi Nhà nước giải quyết ở những người nghèo và làm suy giảm nhân tố kích thích đối với lao động, làm triệt tiêu động lực phát triển của sản xuất , của hoạt động kinh tế. Lẽ dĩ nhiên điều tiết xã hội qua thu nhập, phân phối để khắc phục những sự phân hóa giàu nghèo bằng những chính sách hợp lý ( thuế thu nhập đối với những người có thu nhập cao ), tăng quỹ phúc lợi xã hội là cần thiết và được coi trọng vì mục đích công bằng xã hội. Kinh nghiệm nêu trên được rút ra từ sự tổng kết thực tiễn việc áp dụng hàng loạt các chính sách trong khu vực. Ở đó đã đưa ra các chính sách kinh tế để thúc đẩy phát triển và ổn định kinh tế , cung cấp cơ sở hạ tầng thiết yếu và dịch vụ xã hội để hỗ trợ phát triển. Nó phải hạn chế những điều tiết không cần thiết hoặc qua smức gây trở ngại cho sự phát triển, đặc biệt là các doanh nghiệp, khu vực phi kết cấu. Khu vực này ( phi kết cấu ) chính là cầu nối giữa đói nghèo và dòng chảy chính của nền kinh tế , là địa bàn chính cho sự hoạt động của số đông người để tạo ra thu nhập vượt khỏi đường biên nghèo khổ. Đồng thời trong những tình huống đột xuất, Nhà nước vẫn áp dụng những can thiệp tức thời khi cần
Tài liệu liên quan