Thực trạng công tác đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở cho diện nhà chính sách tồn đọng (bao gồm nhà cải tạo, nhà vắng chủ, nhà đưa vào công tư hợp

Đất đai, nhà ở là yếu tố quyết định sự tồn tại của loài người, nó gắn bó mật thiết với mọi ngành kinh tế, mọi nhu cầu của đời sống xã hội. Đất đai cùng với các điều kiện tự nhiên khác là một trong những cơ sở quan trọng nhất để hình thành các vùng kinh tế của đất nước nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả các tiềm năng tự nhiên, kinh tế xã hội của mỗi vùng. Đối với mỗi quốc gia, đất đai không chỉ là nguồn tài sản lớn phục vụ cho nhu cầu sản xuất dân cư mà còn thể hiện trình độ phát triển, tiềm năng kinh tế của mỗi vùng. Theo đà phát triển kinh tế của đất nước, tốc độ tăng trưởng của các đô thị Việt Nam ngày càng mạnh mẽ. Đất đô thị thực sự có giá và giá rất cao. Do đó cần phải có sự kiểm soát của Nhà nước về đất đai. Để kiểm soát được tình hình sử dụng đất, Nhà nước đã ban hành các văn bản pháp luật, văn bản dưới luật. Đó là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc quản lý và sử dụng đất đai. Tuy nhiên, do sức ép của nhu cầu phát triển và đòi hỏi thực tế của cuộc sống mà thị trường bất động sản vẫn ngấm ngầm diễn ra sôi động hiện tượng mua bán đất, đầu cơ đất, lấn chiếm tràn lan đã đặt ra cho Nhà nước nhiều vấn đề cần được xem xét và giải quyết. Một trong những yêu cầu cấp bách hiện nay đối với đất đô thị là phải có một cơ chế quản lý, sử dụng đất sao cho phù hợp với yều cầu phát triển của nền kinh tế thị trường nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa. Để làm tốt công tác quản lý Nhà nước về đất đai nói chung, đất đô thị nói riêng thì không thể không đề cập đến công tác đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở ở đô thị. Đăng ký đất đai tuy chỉ là một thủ tục hành chính do cơ quan Nhà nước thực hiện nhằm thiết lập hồ sơ địa chính cấp Giấy chứng nhận cho người sử dụng đất hợp pháp nhưng nó liên quan dến nhiều vấn đề phức tạp thuộc về cơ sở pháp lý và những quan hệ xã hội bảo đảm quyền lợi hợp pháp của mọi tổ chức cá nhân.

doc76 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1840 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng công tác đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở cho diện nhà chính sách tồn đọng (bao gồm nhà cải tạo, nhà vắng chủ, nhà đưa vào công tư hợp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài: Đất đai, nhà ở là yếu tố quyết định sự tồn tại của loài người, nó gắn bó mật thiết với mọi ngành kinh tế, mọi nhu cầu của đời sống xã hội. Đất đai cùng với các điều kiện tự nhiên khác là một trong những cơ sở quan trọng nhất để hình thành các vùng kinh tế của đất nước nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả các tiềm năng tự nhiên, kinh tế xã hội của mỗi vùng. Đối với mỗi quốc gia, đất đai không chỉ là nguồn tài sản lớn phục vụ cho nhu cầu sản xuất dân cư mà còn thể hiện trình độ phát triển, tiềm năng kinh tế của mỗi vùng. Theo đà phát triển kinh tế của đất nước, tốc độ tăng trưởng của các đô thị Việt Nam ngày càng mạnh mẽ. Đất đô thị thực sự có giá và giá rất cao. Do đó cần phải có sự kiểm soát của Nhà nước về đất đai. Để kiểm soát được tình hình sử dụng đất, Nhà nước đã ban hành các văn bản pháp luật, văn bản dưới luật. Đó là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc quản lý và sử dụng đất đai. Tuy nhiên, do sức ép của nhu cầu phát triển và đòi hỏi thực tế của cuộc sống mà thị trường bất động sản vẫn ngấm ngầm diễn ra sôi động hiện tượng mua bán đất, đầu cơ đất, lấn chiếm tràn lan đã đặt ra cho Nhà nước nhiều vấn đề cần được xem xét và giải quyết. Một trong những yêu cầu cấp bách hiện nay đối với đất đô thị là phải có một cơ chế quản lý, sử dụng đất sao cho phù hợp với yều cầu phát triển của nền kinh tế thị trường nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa. Để làm tốt công tác quản lý Nhà nước về đất đai nói chung, đất đô thị nói riêng thì không thể không đề cập đến công tác đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở ở đô thị. Đăng ký đất đai tuy chỉ là một thủ tục hành chính do cơ quan Nhà nước thực hiện nhằm thiết lập hồ sơ địa chính cấp Giấy chứng nhận cho người sử dụng đất hợp pháp nhưng nó liên quan dến nhiều vấn đề phức tạp thuộc về cơ sở pháp lý và những quan hệ xã hội bảo đảm quyền lợi hợp pháp của mọi tổ chức cá nhân. Thủ đô Hà Nội đã có ngàn năm văn hiến, là trung tâm chính trị, văn hoá, xã hội, khoa học, kinh tế của cả nước. Hà Nội đang trong thời kỳ công nghiệp hoá- hiện đại hoá, việc quản lý và sử dụng đất dai ở đây càng phải hợp lý và chặt chẽ. Nhìn lại quá trình lịch sử từ khi giải phóng đến nay, Hà Nội đã có nhiều thành tựu và biến đổi to lớn nhất là trong những năm gần đây, song còn nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Đối với diện nhà chính sách tồn đọng đây là diện nhà luôn có các đơn thư khiếu nại nhằm xác lập quyền sở hữu nhà hoặc quyền sở hữu, sử dụng các diện tích phụ có liên quan đến sở hữu chung của nhiều thành phần từ thời kỳ thực hiện chính sách cải tạo nhà cửa, cải tạo công thương nghiệp tư doanh thời kỳ 1958-1964, nhà dân cho mượn… Tình hình khiếu nại của một số hộ gia đình tại Hà Nội về vấn đề nhà cửa kéo dài hàng năm nhưng chưa được giải quyết thoả đáng khiến họ phải chờ đợi. Chính vì thế cần phải đẩy mạnh công tác đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở để người dân yên tâm ở, gìn giữ, sửa sang nhà cửa, ổn định đời sống. Cũng thông qua việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, sẽ giúp cho Nhà nước có cơ sở quản lý chặt chẽ toàn bộ đất đai, để từ đó có những hoạch định chính sách cho phù hợp với thực tế. Vì vậy yêu cầu đặt ra là phải tiếp tục nghiên cứu, qua thực tiễn thi hành và áp dụng để hoàn thiện cơ chế đồng bộ đảm bảo cho việc thi hành các quy định về đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở để đáp ứng đồi hỏi cấp thiết của nền kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Đó cũng là lý do khiến em chọn đề tài “ Thực trạng công tác đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở cho diện nhà chính sách tồn đọng (bao gồm nhà cải tạo, nhà vắng chủ, nhà đưa vào công tư hợp doanh) ở Hà Nội” với sự hướng dẫn của TS Hoàng Cường, Thạc sỹ- Trưởng phòng chính sách đất nhà và các cô, chú trong phòng chính sách đất nhà tại Sở Địa chính- Nhà đất Hà Nội. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của mọi người. Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu lý luận và thực tiễn của đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở để phát hiện những điểm chưa phù hợp, những khó khăn vướng mắc đồng thời đánh giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất giá đưa ra các kiến nghị về phương hướng và giải pháp, góp phần hoàn thiện công tác đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở. Phạm vi nghiên cứu: Công tác đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở có phạm vi rộng, liên quan đến nhiều địa bàn khác nhau trên cả nước. Bài viết này chỉ tập trung đến vấn đề đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở cho diện nhà chính sách tồn đọng (nhà cải tạo, nhà vắng chủ, nhà đưa vào công tư hợp doanh) trên địa bàn Hà Nội. Phương pháp nghiên cứu: Bài viết sử dụng phương pháp so sánh, phân tích để đánh giá các vấn đề, trên cơ sở đó để làm sáng tỏ những khía cạnh lý luận cũng như thực tiễn của công tác đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở. Cách tiếp cận vấn đề là đi từ lý luận đến thực tiễn, rồi từ thực tiễn áp dụng trở về lý luận thông qua đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện công tác đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở. Kết cấu của bài viết: Ngoài các phần lời nói đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, bài viết có 3 chương: - Chương I: Cơ sở khoa học của việc đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở. - Chương II: Thực trạng Công tác đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở cho diện nhà chính sách trên địa bàn Hà Nội. - Chương III: Một số quan điểm, giải pháp và kiến nghị nhằm đẩy mạnh công tác đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đối với dạng nhà chính sách tồn đọng trên địa bàn thành phố Hà Nội. CHƯƠNG I: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC ĐĂNG KÝ CẤP GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỞ HỮU NHÀ Ở VÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT Ở CHO NHÀ CHÍNH SÁCH TỒN ĐỌNG KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VAI TRÒ CỦA NHÀ Ở: 1)Khái niệm, đặc điểm nhà ở: Nhà ở là sản phẩm của hoạt động xây dựng và là không gian bên trong có tổ chức được ngăn cách với môi trường bên ngoài dùng để ở. Nhà ở có rất nhiều đặc điểm khác với các loại tài sản khác, nhất là kho so sánh đặc điểm của nó với các động sản. Nhà ở là tài sản cố định, không thể di dời được. Đặc điểm chính của tài sản nhà đất là đa dạng. Loại trừ những lợi ích kết hợp trong cùng một tài sản nhà đất như để ở hoặc để kinh doanh. Có lẽ không bao giờ có hai ngôi nhà giống hệt nhau, thậm chí các ngôi nhà thô liền tường có hình thức như nhau nhưng chúng cũng khác nhau ở vị trí. Mặc dù điều này dường như là có sự khác biệt rất nhỏ, tuy thế từng tài sản nhà đất vẫn sẽ có sự khác nhau. Thường sự khác nhau nhỏ này cũng có thể không liên quan đến thị trường, nhưng trong một vài trường hợp điều này đã làm cho giá trị thị trường của các ngôi nhà rất khác nhau. Một đặc điểm nữa của tài sản nhà đất có thể nói là tương đối bền. Nhiều hàng hoá hao mòn và xuống cấp rất nhanh nhưng nhà đất thường được dùng trong nhiều năm với tốc độ hao mòn rất chậm. Thậm chí khi nhà ở đã cũ, hoa mòn đáng kể, người ta luôn thấy giá trị của nhà đất được lên giá với tỷ lệ cao hơn là tỷ lệ hao mòn của ngôi nhà. Mặc dù chất lượng của ngôi nhà xuống cấp, nhưng kết quả là giá trị chung của đất và ngôi nhà còn giữ nguyên. Về khía cạnh này đầu tư nhà đất hoàn toàn khác với các loại đầu tư khác, nó rất vững theo thời gian và có khả năng an toàn vốn rất tốt trong thời gian dài. Khi so sánh với các hàng hoá khác, mua nhà đòi hỏi một khoản vốn lớn. Thậm chí một ngôi nhà dù khiêm tốn nhất thường cũng cần một số lượng tiền đáng kể mơi mua được. Liên quan đến điều này vì thực chất nhà đất thường là những đơn vị không thể dễ dàng chia thành những đơn vị nhỏ hơn. Kết quả là một lượng tiền tối thiểu để mua một ngôi nhà cũng là khá lớn. 2)Vai trò của nhà ở: Nhà ở là vấn đề nóng bỏng của mọi xã hội, trong mọi thời kỳ phát triển của nền kinh tế, là sự quan tâm của mỗi cá nhân, mỗi gia đình, mỗi tổ chức kinh tế, xã hội và cả mỗi quốc gia. Nhà ở có ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội, văn hoá, chính trị xã hội. Ở nước ta, những năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm giải quyết vấn đề nhà ở của nhân dân ở các đô thị cũng như nông thôn, góp phần từng bước thực hiện cải thiện đời sống cho nhân dân. Điều 62, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 quy định rõ: “Công dân có quyền có nhà ở. Nhà nước mở rộng việc xây dựng nhà ở đồng thời khuyến khích, giúp đỡ tập thể và công dân xây dựng nhà ở theo quy hoạch chung, nhằm từng bước thực hiện quyền đó việc phân phối nhà ở do Nhà nước quản lý phải công bằng và hợp lý”. Trên cơ sở đó có thể thấy vai trò của nhà ở được thể hiện như sau: - Nhà ở là tài sản có giá trị đặc biệt với đời sống của con người. Nhà ở là phương tiện quan trọng để bảo vệ con người trước các hiện tượng thiên nhiên như nắng, mưa, gió, bão, giá rét… Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải đảm bảo các điều kiện như ăn, ở, mặc và những tư liệu sinh hoạt khác. Ph. Ăng ghen đã nhấn mạnh: “Con người trước hết cần phải ăn, uống, chỗ ở và mặc đã rồi mới có thể làm được chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo…”. - Nhà ở là điều kiện vật chất trọng yếu để phát triển kinh tế. Đối với lao động đặc biệt là ở đô thị, khoảng cách giữa nơi ở và nơi làm việc có ảnh hưởng rất lớn tới lao động, nó tác động trực tiếp tới thể lực và trí lực của lao động. Nó làm hao phí về thời gian vì khoảng cách này càng lớn thì hao phí này càng cao, ảnh hưởng lớn tới hiệu quả kinh tế. Ngoài ra môi trường cư trú, điều kiện sinh hoạt của chỗ ở, môi trường văn hoá khu vực, môi trường tự nhiên… cũng ảnh hưởng rất lớn tới quá trình tái sản xuất sức lao động và tác động tới tâm sinh lý của người lao động, làm ảnh hưởng tới sản xuất, tới hiệu quả kinh tế. Sự phát triển của nhà ở còn là một chỉ tiêu quan trọng thể hiện trình độ phát triển, tốc độ đô thị hoá của một quốc gia, thể hiện tiềm năng về kinh tế và góp phần tạo nên bộ mặt kiến trúc về tổng thể. Thực tế cho thấy khi nhìn và các ngôi nhà có thể nhận biết được phong tục, tập quán, đời sống vật chất và tinh thần của những người đang sinh sống trong ngôi nhà đó và của cả cộng đồng. - Nhà ở là điều kiện vật chất trọng yếu ảnh hưởng tới sinh hoạt xã hội và điều chỉnh quan hệ xã hội. Nhà ở tác động trực tiếp tới kết cấu gia đình, tập tục sinh hoạt của gia đình,thể hiện rõ nhất ở quá trình kéo dài hay tăng nhanh quá trình phân ly của gia đình mới mà còn ảnh hưởng tới tâm lý của thanh niên trong độ tuổi kết hôn, Thông thường giá nhà đất tăng cao thanh niên có xu hướng lập gia đình muộn hơn. Điều này tác động lớn đến vấn đề xã hội. Những biến động về nhà ở phát sinh trong mua bán, thuê, tặng, chuyển nhượng... hình thành nên những mối quan hệ xã hội phức tạp mà chính nhà ở đôi lúc nó quay trở lại làm chức năng điều tiết, điều chỉnh quan hệ xã hội. Với tầm quan trọng của nhà ở như đã nói ở trên, thì vấn đề nhà ở là mối quan tâm chung của các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển và các nước kém phát triển. Ở nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đang phấn đấu thực hiện mục tiêu : “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Nhà nước rất quan tâm lãnh đạo, tạo nhiều môi trường thuận lợi và động viên khuyến khích các tầng lớp nhân dân phát huy nội lực để xây dựng nhà ở tiến tới bộ mặt của đất nước ngày càng văn minh và giàu đẹp hơn. II) KHÁI NIỆM VÀ SỰ RA ĐỜI CỦA NHÀ CHÍNH SÁCH TỒN ĐỌNG: Khái niệm: Nhà chính sách thuộc quyền sở hữu của tư nhân bao gồm nhà cải tạo, nhà công tư hợp doanh, nhà vắng chủ mà diện tích nhà ở thuộc loại nhà này do Nhà nước đã để lại cho chủ sở hữu khi thực hiện chính sách cải tạo nhà, chính sách công thương nghiệp tư bản tư doanh. Đối với quỹ nhà chính sách do Nhà nước quản lý, sử dụng thì Nhà nước phân, giao cho các cơ quan sử dụng hoặc cho các hộ gia đình thuê là nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước. Sự ra đời của nhà chính sách tồn đọng: Sau ngày giải phóng miền Bắc, đã diễn ra cuộc ra đi của hàng ngàn hộ di chuyển vào Nam, để lại hàng nghìn ngôi nhà với vô vàn tình tiết phức tạp. Người thì quá vội vã bỏ nhà ra đi như chạy trốn, người thì ngầm uỷ quyền cho người khác, người thì bán tháo với giá rẻ không chút giấy tờ văn tự, người thì tình nghĩa hơn đưa bà con họ hàng vào ở rồi lặng lẽ ra đi… Việc ra đi như vậy để lại hàng nghìn ngôi nhà vắng chủ buộc bộ máy tiếp quản chính quyền mới phải đối phó với tình hình phức tạp này. Khi hoà bình lập lại ở miền Bắc, giải quyết nhà cửa là một vấn đề nằm trong toàn bộ nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chế độ cũ chỉ thoả mãn yêu cầu của một số ít người, chế độ mới của ta phải thoả mãn yêu cầu ngày càng một tăng của tuyệt đại đa số người dân lao động. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ cơ bản của miền Bắc là đẩy mạnh cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Trọng tâm trước mắt là đẩy mạnh cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa với thành phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công; cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa với thành phần kinh tế tư bản tư doanh và cuộc cải tạo đối với những người có nhiều nhà cho thuê, đồng thời phải ra sức phát triển thành phần kinh tế quốc doanh là lực lượng lãnh đạo toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Yêu cầu đặt ra là sử dụng hợp lý nhà cửa sẵn có, năng cao chất lượng nhà cửa nhằm bảo đảm an toàn, vệ sinh và cải thiện đời sống nhân dân lao động đi thuê nhà, cải tạo người tư sản, biến họ thành người lao động và sống nhờ vào lao động chứ không phải sống bám vào sự bóc lột bằng việc cho thuê nhà. Trong và sau cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nhà cho thuê của tư nhân, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách quản lý nhà cửa. Nhưng cho đến năm 1964, có nơi vẫn chưa quán triệt tinh thần các chính sách của Trung Ương nên vẫn còn lúng túng trong việc giải quyết các vấn đề cụ thể khá phức tạp. Để đáp ứng với nhu cầu của các địa phương, thông tư số 12/NV của Bộ Nội vụ ngày 22/4/1964 đã giải thích thêm một số chính sách cụ thể về quản lý nhà cửa. Trong đó có việc quản lý nhà vắng chủ và nhà của tư sản đưa vào công tư hợp doanh. Việc quản lý nhà vắng chủ: Theo Nghị định 19/CP ngày 29/6/1961 của Hội Đồng Chính phủ và Công văn số 19/BCT ngày 12/1/1961 của ban cải tạo công thương nghiệp tư doanh Trung Ương thì tất cả nhà vắng chủ, không kể của người Việt Nam hay Hoa Kiều đều do cơ quan quản lý nhà, đất trực tiếp quản lý cho thuê, thu tiền thuê, đóng thuế, sửa chữa. Các cơ quan, xí nghiệp, đoàn thể hợp tác xã hay tư nhân sử dụng các loại nhà, đất kể cả trong trường hợp dùng vào việc kinh doanh sản xuất hay vào các sự nghiệp y tế, văn hoá, giáo dục. Nhà của tư sản đưa vào công tư hợp doanh: nhà của tư sản dùng làm phương tiện kinh doanh công thương nghiệp như cửa hàng, kho tàng, văn phòng quản lý kinh doanh... trước đây chưa được giải quyết công tư hợp doanh thì cơ quan quản lý nhà đất theo chính sách cải tạo nhà cửa. Sau ngày thống nhất đất nước, Nh đã ban hành các chính sách cải tạo về nhà đất tại các thành phố, thị xã nhằm quản lý tình hình nhà cửa trên các địa bàn. Theo Thông tư của Bộ trưởng bộ xây dựng số 383/BXD- ĐT ngày 5/10/1991 hướng dẫn thi hành quyết định số 297/CP của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ngày 2/10/1991 về việc giải quyết một số vấn đề về nhà ở thì chính sách đối với nhà vắng chủ do Nhà nước đang quản lý với các nội dung như sau: Đối với nhà cải tạo: đã thực hiện quản lý toàn bộ nhà cửa thuộc diện nhà cải tạo và đã bố trí làm trụ sở cơ quan hoặc làm nhà ở cho cán bộ công nhân viên và nhân dân lao động. Hầu hết nhà ở do Nhà nước quản lý đều đã hoàn tất các thủ tục kê khai, bàn giao và Nhà nước đã ra quyết định quản lý tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khác quan, cũng có một số trường hợp khi cơ quan Nhà nước tiến hành quản lý, sử dụng nhà ở đã không làm các thủ tục giao nhận, không ra quyết định quản lý, cá biệt có trường hợp xử lý sai so với chính sách lúc đó. Để ổn định hiện trạng nhà ở sau cải tạo, đưa công tác quản lý đi vào nề nếp, tại điều 1 của quyết định số 297/CT đã nêu rõ: “nhà ở do Nhà nước đang quản lý, sử dụng theo chính sách cải tạo về nhà ở bao gồm toàn bộ nhà ở đã có hoặc chưa có quyết định quản lý của Uỷ Ban Nhân Dân cấp có thẩm quyền nhưng đã bố trí sử dụng, là nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước. Diện nhà nêu trong điều này bao gồm: tất cả các loại nhà cho thuê, mượn, cho ở nhờ, hiến nhà của các tổ chức, cá nhân thuộc bộ máy cai trị của nguỵ quân, nguỵ quyền và đảng phái phản động, do thực hiện chính sách cải tạo về nhà ở đã đưa vào diện Nhà nước quản lý hoặc đã bố trí cho cơ quan Nhà nước và nhân dân sử dụng. Về mặt thủ tục hành chính, diện nhà nói trên bao gồm cả nhà đã có quyết định và chưa có quyết định quản lý của Nhà nước (vì do nhiều nguyên nhân khách quan, thời kỳ đó nhiều nhà thuộc diện cải tạo đã giao Nhà nước nhưng Uỷ Ban Nhân Dân cấp tỉnh chưa ra quyết định quản lý. Về mặt thủ tục quản lý, hầu hết diện nhà nói trên đã chuyển sang ngành nhà đất quản lý cho thuê, nhưng cũng có những nhà do cũ nát nên ngành nhà đất không trực tiếp quản lý mà giao cho các hộ đang ở tự quản lý sử dụng không phải trả tiền thuê nhà. Những nhà trong diện cải tạo, nhưng trước đây cơ quan Nhà nước cho thuê, mượn của tư nhân, đến khi có chính sách cải tạo đã không báo cho ngành nhà đất biết trước để làm thủ tục quản lý, những nhà không do chủ sở hữu mà do đại diện của chủ sở hữu làm thủ tục giao cho Nhà nước. Do đó kể từ ngày 1/7/1991 các loại nhà nêu trên được thống kê đăng ký vào danh mục quỹ nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước và người sử dụng nhà (cá nhân, tổ chức kinh tế, xã hội, cơ quan Nhà nước) phải ký hợp đồng thuê với cơ quan quản lý nhà. Do đó tại thành phố Hà Nội xuất hiện tình trạng trong một biển số nhà có nhiều thành phần sở hữu (sở hữu tư nhân và sở hữu Nhà nước). Hai thành phần này đan xen theo kiểu xôi đỗ trong cùng một ngôi nhà, một biển số nhà. Trên cơ sở hồ sơ và thực tiễn đã tổng hợp được các dạng nhà tiêu biểu như sau: Tư nhân chủ nhà cũ sủ dụng phần diện tích được để lại để ở sau cải tạo xã hội chủ nghĩa về nhà đất. Các hộ ký hợp đồng thuê với Nhà nước phần diện tích chủ nhà đã giao Nhà nước hoặc phần diện tích Nhà nước đã quản lý của chủ vắng mặt tại miền Bắc trong nhà cộng đồng sở hữu chủ. Các đơn vị được Nhà nước giao cho tự quản lý, sử dụng phần diện tích chủ nhà đã đưa vào công tư hợp doanh. Với việc đan xen hai thành phần sở hữu này thì cần có quy định về xác định diện tích nhà ở cho chủ sở hữu là cần thiết. Do đó quy định về trình tự, thủ tục chứng nhận sở hữu và cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở sẽ đáp ứng được yêu cầu đó. Hơn nữa nó sẽ là cơ sở pháp lý để tạo ra sự ổn định lâu dài trong quản lý, sử dụng, hạn chế, ngăn chặn phát sinh mới, góp phần vào việc ổn định sinh hoạt dân cư đô thị tiến tới dần dần chấm dứt tình trạng không rõ ràng về sở hữu, sử dụng. III) SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC ĐĂNG KÝ CẤP GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỞ HỮU NHÀ Ở VÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT Ở (GỌI TẮT LÀ GIẤY CHỨNG NHẬN) CHO NHÀ CHÍNH SÁCH TỒN ĐỌNG: 1)Sự cần thiết của việc cấp giấy chứng nhận cho diện nhà chính sách: Nhà ở là nhu cầu vật chất thiết yếu trong đời sống con người. Nhà ở là loại tài sản có giá trị rất cao đối với đời sống của con người. Theo quy định ở điều 181 Bộ luật dân sự, nhà ở là một loại bất động sản vì nhà ở là một loại tài sản không di dời được. Vì là một loại tài sản có giá trị cao nên người sở hữu nó càng muốn có một cơ sở pháp lý để bảo hộ cho việc sở hữu loại tài sản này. Theo điều 173 Bộ luật dân sự quy định về việc quyền sở hữu chung cho mọi tài sản, trong đó có nhà ở. Việc cấp giấy chứng nhận ý nghĩa xác định rõ đối tượng sủ dụng và quyền giao dịch dân sự về nhà ở cho đối tượng đang sử dụng nhà. Việc cấp giấy chứng nhận cho nhà chính sách (các trường hợp thuộc sở hữu tư nhân) cũng không nằm ngoài lý do trên. Công tác đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền
Tài liệu liên quan