Tiểu luận Phân tích chứng khoán - công ty cổ phần khoan và dịch vụ dầu khí (pvdrilling)

Tổng công ty Cổ phần Khoan và Dịch vụ Khoan Dầu khí (PV Drilling) được thành lập vào tháng 11 năm 2001, với tiền thân là Xí nghiệp Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí biển PTSC Offshore - nơi các dịch vụ ban đầu như dịch vụ cho thuê thiết bị khoan, dịch vụ ứng cứu sự cố dầu tràn và xưởng cơ khí đã được hình thành và phát triển kể từ năm 1994. Trải qua quá trình hình thành và phát triển của mình, PV Drilling đã từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ kỹ thuật và xây dựng nên nhiều loại hình dịch vụ kỹ thuật mới, để tham gia vào hầu hết các dự án tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí tại Việt Nam cũng như dần phát triển ra thị trường thế giới. Khách hàng của PV Drilling là các Công ty và Tập đoàn dầu khí lớn trên thế giới như Cửu Long - Conoco Philips, Hoàng Long JOC, Hoàn Vũ JOC, Vietsovpetro, BP, Conoco, JVPC-Nippon Oil, PVEP, OMV, Petronas, Chevron, Premier Oil, KNOC, Vietgazprom, Thăng Long JOC, Lam Sơn JOC, Trường Sơn JOC - Năm 1994 - Thành lập Xí nghiệp Dịch vụ kỹ thuật dầu khí biển (PTSC Offshore) – Trực thuộc Công ty Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí (PTSC). - Ngày 26/11/2001: Thành lập Công ty Khoan và Dịch vụ khoan Dầu khí, đơn vị thành viên của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam. - Ngày 01/01/2002: Hoàn tất chuyển giao hoạt động sản xuất kinh doanh từ PTSC Offshore sang Công ty Khoan và Dịch vụ Khoan Dầu khí. - Ngày 15/02/2006: Công ty Khoan và Dịch vụ Khoan Dầu khí chính thức hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần với tên gọi Công ty Cổ phần Khoan và Dịch vụ khoan Dầu khí - Ngày 02/03/2006: Thành lập Xí nghiệp Thương mại Dịch vụ Kỹ Thuật Công nghiệp. - Ngày 28/09/2006: Thành lập Công ty Liên doanh BJ Services – PV Drilling. - Ngày 5/12/2006: Cổ phiếu của PV Drilling chính thức được niêm yết trên TTGDCK TPHCM. - Ngày 11/05/2007: Công ty Cổ phần Khoan và Dịch vụ Khoan Dầu khí chuyển đổi mô hình thành công ty mẹ với tên gọi Tổng Công ty Cổ phần Khoan và Dịch vụ Khoan Dầu khí. - Tháng 7/2009 PVD công bố sáp nhập PVD Invest vào PVD thông qua việc phát hành cổ phiếu theo hình thức hoán đổi cổ phiếu PVD cho các cổ đông hiện hữu của PVD Invest và các cá nhân, tổ chức đã góp vốn vào PVD Invest. Đánh dấu sự kiện hai công ty đại chúng đầu tiên sáp nhập trên thị trường chứng khoán Việt Nam, nâng giá trị tổng tài sản của Tổng Công ty lên đến trên 12.000 tỷ đồng và số vốn điều lệ của Tổng Công ty lên đến 2.105 tỷ đồng.

docx25 trang | Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1799 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phân tích chứng khoán - công ty cổ phần khoan và dịch vụ dầu khí (pvdrilling), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN / TIỂU LUẬN MÔN PHÂN TÍCH CHỨNG KHOÁN Đề tài : PHÂN TÍCH CÔNG TY CỔ PHẦN KHOAN VÀ DỊCH VỤ DẦU KHÍ (PVDRILLING) GVHD: Ths. Võ Văn Hảo Ths. Trần Tuấn Vinh TP Hồ Chí Minh, ngày 30/11/2011 MỤC LỤC 1 . Giới thiệu sơ lược về công ty: 3 1.1 Tóm tắt về quá trình thành lập: 3 1.2 Cơ cấu vốn hiện tại và tốc độ tăng trưởng vốn: 4 2. Triển vọng phát triển ngành dịch vụ dầu khí: 5 2.1 Tình hình thị trường dầu thế giới: 6 2.2 Tiềm năng thị trường dịch vụ khoan biển tại Việt Nam, khu vực Đông Nam Á và thế giới 7 3. Phân tích mô hình 5 Forces: 9 3.1 Tác động từ phía cung: 9 3.2 Tác động từ phía cầu: 9 3.3 Sản phẩm thay thế: 9 3.4 Rào cản thị trường và các đối thủ tiềm năng: 10 3.5 Sự cạnh tranh của các doanh nghiệp cùng ngành: 10 4. Rủi ro và thách thức: 11 4.1 Rủi ro tỷ giá: 11 4.2 Rủi ro về lãi suất tiền vay: 11 5. Phân tích tình hình sản xuất kinh doanh của công ty: 11 5.1 Phân tích cơ cấu doanh thu, lợi nhuận: 11 5.2 Phân tích chi phí: 15 5.3 Phân tích kết quả hoạt động kinh doanh: 16 6. Phân tích các chỉ số tài chính: 18 6.1 Chỉ tiêu về khả năng thanh toán: 18 6.2 Chỉ tiêu về khả năng sinh lời: 18 6.3 Phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ: 19 7. Dự báo doanh thu: 20 8. Định giá: 25 Giới thiệu sơ lược về công ty: Tóm tắt về quá trình thành lập: Tổng công ty Cổ phần Khoan và Dịch vụ Khoan Dầu khí (PV Drilling) được thành lập vào tháng 11 năm 2001, với tiền thân là Xí nghiệp Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí biển PTSC Offshore - nơi các dịch vụ ban đầu như dịch vụ cho thuê thiết bị khoan, dịch vụ ứng cứu sự cố dầu tràn và xưởng cơ khí đã được hình thành và phát triển kể từ năm 1994. Trải qua quá trình hình thành và phát triển của mình, PV Drilling đã từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ kỹ thuật và xây dựng nên nhiều loại hình dịch vụ kỹ thuật mới, để tham gia vào hầu hết các dự án tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí tại Việt Nam cũng như dần phát triển ra thị trường thế giới. Khách hàng của PV Drilling là các Công ty và Tập đoàn dầu khí lớn trên thế giới như Cửu Long - Conoco Philips, Hoàng Long JOC, Hoàn Vũ JOC, Vietsovpetro, BP, Conoco, JVPC-Nippon Oil, PVEP, OMV, Petronas, Chevron, Premier Oil, KNOC, Vietgazprom, Thăng Long JOC, Lam Sơn JOC, Trường Sơn JOC… Năm 1994 - Thành lập Xí nghiệp Dịch vụ kỹ thuật dầu khí biển (PTSC Offshore) – Trực thuộc Công ty Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí (PTSC). Ngày 26/11/2001: Thành lập Công ty Khoan và Dịch vụ khoan Dầu khí, đơn vị thành viên của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam. Ngày 01/01/2002: Hoàn tất chuyển giao hoạt động sản xuất kinh doanh từ PTSC Offshore sang Công ty Khoan và Dịch vụ Khoan Dầu khí. Ngày 15/02/2006: Công ty Khoan và Dịch vụ Khoan Dầu khí chính thức hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần với tên gọi Công ty Cổ phần Khoan và Dịch vụ khoan Dầu khí Ngày 02/03/2006: Thành lập Xí nghiệp Thương mại Dịch vụ Kỹ Thuật Công nghiệp. Ngày 28/09/2006: Thành lập Công ty Liên doanh BJ Services – PV Drilling. Ngày 5/12/2006: Cổ phiếu của PV Drilling chính thức được niêm yết trên TTGDCK TPHCM. Ngày 11/05/2007: Công ty Cổ phần Khoan và Dịch vụ Khoan Dầu khí chuyển đổi mô hình thành công ty mẹ với tên gọi Tổng Công ty Cổ phần Khoan và Dịch vụ Khoan Dầu khí. Tháng 7/2009 PVD công bố sáp nhập PVD Invest vào PVD thông qua việc phát hành cổ phiếu theo hình thức hoán đổi cổ phiếu PVD cho các cổ đông hiện hữu của PVD Invest và các cá nhân, tổ chức đã góp vốn vào PVD Invest. Đánh dấu sự kiện hai công ty đại chúng đầu tiên sáp nhập trên thị trường chứng khoán Việt Nam, nâng giá trị tổng tài sản của Tổng Công ty lên đến trên 12.000 tỷ đồng và số vốn điều lệ của Tổng Công ty lên đến 2.105 tỷ đồng.  Cơ cấu vốn hiện tại và tốc độ tăng trưởng vốn: / Hình 1: Cơ cấu cổ đông của PVDrilling 2010.( Nguồn: BCPT ABS) / Hình 2: Vốn điều lệ của PV Drilling qua các năm Chỉ tiêu  2008  2009  2010   Tổng TS  8,632,863  12,368,345  14,639,766   Nợ phải trả  6,070,705  8,129,279  9,396,809   Vốn CSH  2,071,197  4,225,407  5,226,916   DTT  3,728,746  4,096,780  7,572,008   LNG  1,208,395  1,239,991  1,757,977   LNG/DTT  32.41%  30.27%  23.22%   LNST  902,864  817,661  885,542   LNST/DTT  24.21%  19.96%  11.69%   LN cổ đông công ty mẹ  892,047  814,612  881,949   ROA  13.90%  7.80%  6.60%   ROE  45.70%  25.90%  18.70%   EPS  6,749  6,163  4,204   Triển vọng phát triển ngành dịch vụ dầu khí: PVD hoạt động trong lĩnh vực cho thuê giàn khoan, vận hành giàn và các dịch vụ khác phục vụ hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí trong và ngoài nước. Hoạt động kinh doanh của công ty phụ thuộc trực tiếp vào tình hình thăm dò khai thác dầu khí của các nhà thầu. Nhu cầu dầu mỏ lại là yếu tố quyết định việc các nhà thầu có mở rộng hoạt động tìm kiếm, thăm dò khai thác hay không? Do đó để đánh giá tiềm năng tăng trưởng của công ty cần phân tích tình hình thị trường dầu mỏ nói chung và tiềm năng phát triển thị trường dịch vụ khoan biển nói riêng. Tình hình thị trường dầu thế giới: Trong báo cáo hàng năm về Triển vọng năng lượng toàn cầu công bố ngày 9/11, Cơ quan Năng lượng quốc tế (IEA) cho biết nhu cầu dầu của toàn cầu sẽ tăng 14% vào năm 2035. Cơ quan này cũng giảm 0,8% dự báo sản lượng dầu từ OPEC trong năm 2012, xuống 29,76 triệu thùng/ngày. Theo báo cáo Triển vọng ngành năng lượng trong ngắn hạn, Cơ quan thông tin năng lượng quốc tế EIA nhận định tiêu thụ dầu thô và nhiên liệu dạng lỏng trên thế giới sẽ tăng lên 88,2 triệu thùng/ngày trong năm 2011 và 89,6 triệu thùng/ngày trong năm 2012 từ mức kỉ lục 87,1 triệu thùng/ngày trong năm 2010. Nhu cầu tăng mạnh nhất là từ các nền kinh tế mới nổi. / Hình 3: Mức tiêu thụ nhiên liệu dạng lỏng của thế giới qua các năm Về nguồn cung, sản lượng từ Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC dự báo sẽ giảm 250.000 thùng/ngày so với dự báo trước, xuống 29,76 triệu thùng/ngày trong năm 2012. / Hình 4: Tăng trưởng sản lượng nhiên liệu dạng lỏng và dầu thô trên thế giới qua các năm. Ngoài ra, tình trạng bất ổn leo thang với các cuộc biểu tình diễn ra ngày càng mạnh mẽ tại Ai Cập, Syria, Libya gây những lo ngại về hoạt động xuất khẩu dầu của khu vực Trung Đông bị gián đoạn, cũng là một trong những nguyên nhân đẩy giá dầu tăng. Tuy nhiên, OPEC thông báo rằng Libya, quốc gia thành viên của tổ chức này, sẽ nối lại hoạt động khai thác dầu mỏ, sau khi đã bị gián đoạn hồi đầu năm 2011, do nổ ra giao tranh giữa chính quyền của cựu Tổng thống Muammar Gaddafi và phe đối lập. Theo báo cáo, hầu hết các cơ sở sản xuất và xuất khẩu dầu mỏ của Libya chỉ bị hư hại nhẹ và có thể sớm trở lại hoạt động bình thường. Dự kiến, quốc gia Arập này có thể khôi phục hoàn toàn hoạt động sản xuất trong khoảng 1 năm rưỡi nữa. Như vậy, tăng trưởng nhu cầu kéo theo sự hồi phục về giá là điều kiện cần và đủ để cho các công ty dầu khí quay trở lại với các dự án khoan thăm dò, khai thác và sửa chữa giếng, kéo theo sự gia tăng nhu cầu sử dụng các dịch vụ dầu khí. Tiềm năng thị trường dịch vụ khoan biển tại Việt Nam, khu vực Đông Nam Á và thế giới Sự gia tăng về nhu cầu năng lượng toàn cầu trong thời gian tới sẽ tạo ra thị trường lớn cho dịch vụ cho thuê và vận hành giàn khoan. Theo dự báo của Douglas-Westwood Ltd. và Energyfiles, chi tiêu dành cho khoan biển trên thế giới trong giai đoạn 2009-2013 sẽ tăng 32% so với giai đoạn 2004-2008, từ 278 tỷ USD lên 367 tỷ USD với số giếng tăng khoảng 7%, đạt 19,570 giếng vào năm 2013. DrillBarge 80.0% (8/10) Drillship72.5% (50/69) Jackup77.8% (294/378) Semisub84.8% (151/178) Tender82.1% (23/28) Hình 5: Tình hình sử dụng các loại giàn khoan Thị trường dịch vụ giàn khoan thế giới hiện tại (tính đến tháng 8/2011) hiện đang dư cung với trên 120 giàn khoan không có hợp đồng sử dụng. Con số này năm 2010 là trên 100. Số giàn khoan tham gia vào thị trường tính đếnnày là 638 giàn, tăng 7.77% so với năm 2010. Ngoài ra còn có 33 giàn đang được đóng mới và dự kiến vận hành 20 giàn cuối năm 2011. Số lượng giàn khoan tăng mạnh trong khi hiệu suất hoạt động chỉ ở mức trung bình 65%. Như vậy thị trường dịch vụ khoan các năm tiếp theo sẽ có sự cạnh tranh mạnh mẽ hơn, khốc liệt hơn. Ở Đông Nam Á, tỉ lệ giàn khoan được sử dụng đã tăng từ 84% năm 2009 lên 85,5% năm 2010 dù số lượng giàn có hoạt động khoan đã tăng từ 67 giàn trong năm 2009 lên 73 giàn trong năm 2010. Đến đầu năm 2011 thì tỉ lệ giàn khoan được sử dụng có sự suy giảm với tỉ lệ giàn khoan được sử dụng là 70.2%, tuy vậy, tỉ lệ này đã tăng dần trở lại lên mức 75.8% (72/95) cao hơn mức sử dụng bình quân thế giới là 65.34%. / Hình 5: Tình hình sử dụng giàn khoan ở các khu vực (Offshore rig utilization by region). (Số liệu cập nhật 18/11/2011) Tuy nhiên do tình trạng cạnh tranh, các công ty ở khu vực Đông Nam Á đã giảm giá để giành hợp đồng. Giá cho thuê giàn khoan chỉ còn 117000 USD/ngày. / Hình 6: Giá cho thuê một số giàn khoan chính hiện nay (cập nhật 6/2011) Theo báo cáo quy hoạch phát triển dịch vụ dầu khí của Tập đoàn dầu khí Việt Nam giai đoạn 2005-2010, nhu cầu dịch vụ dầu khí khoảng 10.83 tỷ USD tương đương 1.8 tỷ USD mỗi năm. Theo kế hoạch trong 15 năm tới có khoảng 900 giếng khoan thăm dò và khai thác dầu khí của các nhà thầu dầu khí hoạt động tại Việt Nam, trong đó giai đoạn 2006-2010 là 300 giếng khoan, ước tính mỗi năm Việt Nam tiến hành khoan 50 giếng. Triển vọng phát triển lĩnh vực khoan dầu khí nói chung cũng như các lĩnh vực kỹ thuật, dịch vụ khoan dầu khí trong tương lai rất lớn. Phân tích mô hình 5 Forces: Tác động từ phía cung: Lĩnh vực khoan dầu khí là ngành kinh doanh đặc thù nên các thiết bị, vật tư sử dụng trong ngành đòi hỏi chất lượng cao và phải đáp ứng các thông số kỹ thuật nhất định. Hiện nay các doanh nghiệp trong nước không đủ khả năng cung cấp các thiết bị này nên hệ thống nhà cung cấp đều là các công ty trên thế giới. Do đó áp lực từ phía nhà cung cấp đối với các doanh nghiệp hoạt động trong ngành tương đối lớn nếu như các doanh nghiệp này không tạo lập được mối quan hệ tốt đẹp, bền vững với hệ thống nhà cung cấp. Tác động từ phía cầu: Như phân tích ở phần tiềm năng của ngành khoan dầu khí thì nhu cầu của ngành trong thời gian tới rất lớn, đặc biệt là đối với thị trường khoan biển tại Việt Nam. Điều này tạo ra tác động tích cực đến các doanh nghiệp hoạt động trong ngành. Thời gian tới, cùng với việc mở rộng thăm dò, khai thác ở các vùng nước sâu, xa bờ với dự kiến sẽ có khoảng 900 giếng khoan được thăm dò và khai thác trong vòng 14 năm tới và tốc độ tăng trưởng là 50 giếng mỗi năm từ nay cho đến 2015, đưa 6 mỏ mới vào khai thác và việc đẩy mạnh hoạt động liên doanh khai thác dầu giữa PVN với các nước trên thế giới (Venezuela, Malaysia, Nga,…) sẽ tạo cơ hội gia tăng sức cầu đối với dịch vụ mà PVD cung cấp. Thị trường Việt Nam sẽ có nhu cầu từ 10-11 giàn khoan tự nâng mỗi năm, đấy sẽ là cơ hội để các giàn khoan mới đầu tư thêm của PVD có cơ hội hoạt động và vận hành hết công suất của mình. Sản phẩm thay thế: Hoạt động khoan dầu khí mặc dù không có sản phẩm thay thế nhưng vấn đề công nghệ, loại giàn khoan tạo nên khả năng thay thế là khá lớn. Hiện tại phần lớn các giàn khoan hiện nay ở dạng giàn khoan biển tự nâng sau đó là giàn khoan tiếp trợ nửa nổi, nửa chìm. Với 3 giàn khoan tự đóng, giàn khoan PV Drilling II và III với công nghệ hiện đại nhất hiện nay, PVD hướng đến sự đa dạng các loại hình giàn khoan (biển tự nâng, đất liền và nửa nổi nửa chìm thời gian tới) để đáp ứng tốt nhất nhu cầu. Như vậy, đe dọa từ dịch vụ thay thế là không lớn mà vấn đề là ở áp lực cạnh tranh sẽ ngày càng gia tăng. Rào cản thị trường và các đối thủ tiềm năng: Những rào cản lớn đối với những công ty muốn gia nhập vào ngành này là đòi hỏi phải có kinh nghiệm, trình độ kỹ thuật chuyên ngành cao và đặt biệt là phải có vốn lớn. Ngoài ra lĩnh vực dầu khí tại Việt Nam phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước, điều này cũng tạo ra một rào cản pháp lý rất lớn đối với các đối thủ tiềm năng muốn gia nhập ngành trong tương lai. Dịch vụ thực hiện  Thị phần  Đối thủ cạnh tranh   Dịch vụ khoan Dịch vụ kỹ thuật giếng khoan và Carota bùn khoan (Loại trừ dịch vụ bơm trám xi măng và kích thích vỉa) Dịch vụ bơm trám xi măng và kích thích vỉa (cung cấp bởi BJ-PV Drilling JV) Dịch vụ ứng cứu sự cố tràn dầu Dịch vụ cơ khí sửa chữa các trang thiết bị cho giếng dầu Dịch vụ cung ứng lao động khoan  30% 50% 80% 90% 70% 90%  Transocean,DiamondOffshore, Atwood, Oceanic, Ensco, Seadrill,… Schlumberger,Halliburton,Weatherford, Geoservices, ILO, ITS,Frank Casing,… Schlimberger, Halliburton Một số nhà cung cấp nhỏ địa phương (CT TNHH Đại Minh, CT TNHH Hà Đạt, CT 128 Hải Quân,…) ICO Asia Pacific, South Sea Inspection, Vina Offshore, Vietubes, Tuboscope,… Bayong Services, Accent Logistic, Alpha Services,…   Sự cạnh tranh của các doanh nghiệp cùng ngành: Thị trường khoan biển của Việt Nam chỉ mới hình thành trong những năm gần đây và còn rất non trẻ so với thế giới. Do đặc thù ngành nên chỉ có PVD là nhà thầu duy nhất đi tiên phong của Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực khoan và dịch vụ khoan dầu khí. Do đó sự cạnh tranh chỉ xuất phát từ các nhà thầu nước ngoài đang hoạt động ngoài khơi Việt Nam. Sự cạnh tranh này thể hiện qua giá cho thuê giàn và các dịch vụ khác không thể cao hơn giá do các nhà thầu khác cung cấp. Rủi ro và thách thức: Rủi ro tỷ giá: Dư nợ vay bằng ngoại tệ của PVD lớn dẫn đến chi phí tài chính lớn. Tính đến cuối năm 2011, dư nợ vay bằng USD của PVD là 351 triệu USD chủ yếu là tài trợ các giàn khoan. Dự kiến năm 2011, PVD sẽ chi trả khoảng 70 triệu USD cho vốn gốc và lãi vay có liên quan. Việc tỷ giá USD/VND tăng sẽ tác động tăng chi phí tài chính. Tuy nhiên trong năm 2010, PVD được cho phép hạch toán bằng USD giảm trừ khoản rủi ro về chênh lệch tỷ giá nên rủi ro này được hạn chế. Thêm vào đó, nhờ có nguồn thu ổn định bằng USD từ các khách hàng là nhà thầu dầu khí nên PV Drilling đã sử dụng trang trải được nhu cầu thanh toán ngoại tệ để trả nợ và lãi vay cũng như các chi phí bằng USD khác, hạn chế được tối đa rủi ro về tỷ giá. Ngoài ra, PV Drilling còn chủ động nghiên cứu, sử dụng các công cụ phái sinh có liên quan để phòng ngừa rủi ro tài chính một cách hiệu quả hơn. Rủi ro về lãi suất tiền vay: Nguồn vốn vay bằng ngoại tệ của PV Drilling hiện nay tương đối lớn với lãi suất thỏa thuận thả nổi theo LIBOR hoặc SIBOR, vì vậy sự biến động về lãi suất trên thị trường vốn sẽ ảnh hưởng đến chi phí tài chính của PV Drilling trong những năm sắp tới. PV Drilling đã có các giải pháp giảm thiểu các rủi ro tăng chi phí lãi vay khi LIBOR/SIBOR tăng cao thông qua các công cụ tài chính phái sinh, cụ thể là phương pháp hoán đổi lãi suất (SWAP) hoặc quyền chọn trần lãi suất (OPTION) đối với các khoản vay dài hạn. Năm 2009, PV Drilling đã ký hợp đồng hoán đổi lãi suất với Ngân hàng ANZ cho khoản vay 55 triệu USD đầu tư giàn khoan PV Drilling III. Hiện tại, PV Drilling cũng đang tiếp tục đàm phán với các Ngân hàng để có thể cố định hoặc tạo mức trần lãi suất cho các Hợp đồng vay còn lại với giá tốt và chi phí cạnh tranh. Phân tích tình hình sản xuất kinh doanh của công ty: Phân tích cơ cấu doanh thu, lợi nhuận: Các loại hình dịch vụ PVD cung cấp trên thị trường bao gồm: Dịch vụ khoan, Dịch vụ kỹ thuật giếng khoan, Dịch vụ ứng cứu sự cố tràn dầu, Dịch vụ cung ứng lao động, cung ứng vật tư thiết bị, Dịch vụ cơ khí sửa chữa và các dịch vụ khác trong lĩnh vực dầu khí. / Hình 7: Cơ cấu doanh thu hoạt động kinh doanh chính. Dịch vụ khoan: (chiếm 51% trong tổng DT & chiếm 61% trên tổng LN) Dịch vụ khoan là dịch vụ chủ lực của PV Drilling với việc đóng góp 51% vào tổng doanh thu và 61% lợi nhuận của PV Drilling (năm 2010). Bên cạnh việc quản lý hiệu quả của đội ngũ vận hành giàn khoan, doanh thu và lợi nhuận của dịch vụ khoan chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi giá cho thuê và vận hành giàn khoan và thời gian cung cấp dịch vụ. Khoan biển: Hiện có 6 giàn khoan PVD vận hành, trong đó có 3 giàn khoan do PVD sở hữu (PV Drilling I, II và III) và 3 giàn đi thuê từ nước ngoài. Ngoài ra, mới đây giàn khoan tiếp trợ nửa nổi nửa chìm TAD cũng đã chính thức được đặt tên PV Drilling V, dự án này bắt đầu chiến dịch khoan với biển Đông JOC với giá 205000 USD/ngày trong hợp đồng 5 năm từ quý IV/2011- quý IV/2016 nâng số giàn khoan vận hành lên 7, chiếm 53.8% thị trường khoan Việt Nam. Khoan đất liền: chỉ có 1 giàn khoan PV Drilling 11. / Hình 8: Các khách hàng 2011 của PV Drilling. (Nguồn: BCPT PSI) Hoạt động kinh doanh của dàn khoan rất tốt. Các dàn khoan đều được chứng nhận chưa bị sự cố LTI (Lost time incident). Trong năm 2009 khi chỉ mới có dàn khoan PV Drilling I hoạt động hết công suất thì mức doanh thu của PVD đạt 1400 tỷ đồng và LNST từ dịch vụ khoan đạt 598 tỷ đồng, LN biên lên tới 42.7%. Trong năm 2010, do thuê thêm 3 giàn khoan khi nhu cầu sử dụng dịch vụ khoan tăng cao nhưng số giàn khoa tự có còn hạn chế nên hiệu quả kinh doanh có phần sụt giảm. LNST từ dịch vụ khoan 2010 đạt 573 tỷ đồng, trong đó LN của 3 giàn khoan sở hữu chiếm 66.14%, LN của 3 giàn khoan thuê ngoài chiếm 33.86%. Mức lợi nhuận biên (LNST/DT từ dịch vụ khoan) chỉ đạt 17.74%. Sự sụt giảm lợi nhuận biên là do chi phí thuê giàn khoan bên ngoài cao hơn chi phí giàn khoan tự có trong khi đó giá cho thuê giàn khoan lại sụt giảm mạnh từ 150,000USD/ ngày năm 2009 xuống 126,000 USD/ngày 2010. ĐVT: tỷ đồng Chỉ tiêu  2007  2008  2009  2010   Doanh thu khoan  636  1503  1400  3855   DT Giàn PVD I, II, III  636  1503  1400  2257   DT Giàn khoan thuê ngoài  -  -  -  1598   Giá vốn  607  606  495  2762   LN gộp  29  897  905  1093   Biên LN gộp/ DT  4.6%  59.7%  64.6%  28.4%   Hiện nay có 13 giàn khoan Việt Nam đang hoạt động trên các vùng biển. Trong đó PVD vận hành 7 giàn khoan, Vietsopetro sở hữu vận hành 3 giàn khoan còn lại là cá nhà thầu nước ngoài quản lý. Cuối năm 2011 PVD sẽ đưa giàn PVDrilling V vào hoạt động, đây là dàn khoan nửa nổi nửa chìm đầu tiên, và cũng có mức giá cho thuê cao nhất trong số tất cả các giàn hứa hẹn sẽ đem lại nhiều thành quả cho dịch vụ khoan của PVD. Dịch vụ kỹ thuật giếng khoan (chiếm 27% trong tổng DT và 28% trong tổng LN) bao gồm: Dịch vụ thiết bị khoan: - Dịch vụ cho thuê thiết bị khoan - Dịch vụ kéo thả ống chống - Dịch vụ cứu kẹt sự cố giếng khoan và hủy giếng - Dịch vụ khoan định hướng và đo trong khi khoan Dịch vụ bơm trám xi măng và kích thích vỉa. Dịch vụ đo karota khí, đo địa vật lý giếng khoan và thử vỉa Đây là mảng dịch vụ lớn thứ 2 trong cơ cấu doanh thu lợi nhuận của PVD. Năm 2010 là một năm hoạt động thành công của dịch vụ kỹ thuật giếng khoan: doanh thu đạt 2.065 tỷ đồng tương ứng tăng 29% so với năm trước nhưng lợi nhuận trước thuế đạt 290 tỷ đồng, tăng 86%, gấp 3 lần tốc độ tăng doanh thu nhờ chú trọng đầu tư các dịch vụ thế mạnh và nâng cao tỷ lệ dịch vụ tự thực hiện, giảm thiểu việc phụ thuộc vào các đối tác nước ngoài. Mảng kĩ thuật giếng khoan được đánh giá sẽ là mảng chủ lực mang lại doanh thu nhiều hơn ở các năm sau. Dịch vụ cung ứng nhân lực, dịch vụ cơ khí sử chữa, dịch vụ cung ứng vật tư thiết bị, dịch vụ ứng cứu sự cố tràn dầu. Dịch vụ cung ứng nhân lực luôn giũ vững tốc độ tăng trưởng tốt trong những năm gần đây. Hiện tại, hơn 80% thị phần nhân lực khoan ở Việt Nam được cung cấp bởi PV Drilling. Điều này cho thấy PV Drilling có một nền tảng vững chắc là đội ngũ chuyên gia kỹ thuật khoan, khẳng định năng lực cạnh tranh của PV Drilling với các nhà thầu khoan nước ngoài. Để chuẩn bị cho sự phát triển trong lương lai, PV Drilling đã mở rộng phạm vi hoạt động, thêm nhân lực chuyên ngành trên bờ cho một số công ty và nhà máy, trước mắt tại khu vực phía nam và sau đó mở rộng phạm vi cả nước Dịch vụ cung ứng vật tư thiết bị : là dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn thứ 3 trong
Tài liệu liên quan