Tiểu luận Thực trạng thu chi ngân sách nhà nước Việt Nam trong giai đoạn 2009-2011

Trong lịch sử loài người, nhà nước ra đời trong cuộc đấu tranh của xã hội có giai cấp, nó là sản phẩm của cuộc đấu tranh giai cấp, nhà nước xuất hiện với tư cách là cơ quan có quyền lực công cộng để thực hiện các chức năng để thực hiện chức năng và nhiệm vụ về nhiều mặt như quản lý hành chính, chức năng kinh tế, chức năng trấn áp và các nhiệm vụ xã hội. Để thực hiện được chức năng và nhiệm vụ của mình nhà nước cần phải có nguồn lực tài chính đó là cơ sở vật chất cho nhà nước tồn tại và hoạt động. Và do đó, ngân sách nhà nước ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của nhà nước cũng như sự xuất hiện của nền sản xuất hàng hóa. Ngân sách nhà nước đã trở thành một công cụ quan trọng nhất được nhà nước sử dụng để khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường, huy động nguồn tài chính, điều tiết vĩ mô nền kinh tế cũng như điều tiết thu nhập nhằm đảm bảo công bằng xã hội. Những việc đó được thực hiện thông qua hoạt động thu, chi của ngân sách nhà nước. Thu để định hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh Chi để nâng cao chất lượng y tế, giáo dục, nâng cao đời sống nhân dân Tuy nhiên, trong điều kiện ngân sách nhà nước còn eo hẹp, thì việc thu, chi ngân sách thế nào cho hiệu quả, tiết kiệm, tránh được tình trạng thất thoát, hạn chế thâm hụt ngân sách luôn là bài toán khó đặt ra cho nước ta. Với mục đích đi tìm hiểu về tình hình thực hiện nhiệm vụ thu và chi ngân sách nhà nước ta hiện nay, em đã chọn đề tài: Thực trạng thu, chi ngân sách nhà nước Việt nam trong giai đoạn 2009-2011 làm đề tài cho bài đề án môn học. Ngoài lời mở đầu và danh mục tài liệu tham khảo, bài đề án kết cấu gồm hai phần: Phần một: Những vấn đề cơ bản về thu, chi ngân sách nhà nước Phần hai: Thực trạng thi, chi ngân sách nhà nước Việt nam trong giai đọng 2009-2011

doc31 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1593 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực trạng thu chi ngân sách nhà nước Việt Nam trong giai đoạn 2009-2011, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận THỰC TRẠNG THU CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2009-2011 LỜI MỞ ĐÂU Trong lịch sử loài người, nhà nước ra đời trong cuộc đấu tranh của xã hội có giai cấp, nó là sản phẩm của cuộc đấu tranh giai cấp, nhà nước xuất hiện với tư cách là cơ quan có quyền lực công cộng để thực hiện các chức năng để thực hiện chức năng và nhiệm vụ về nhiều mặt như quản lý hành chính, chức năng kinh tế, chức năng trấn áp và các nhiệm vụ xã hội. Để thực hiện được chức năng và nhiệm vụ của mình nhà nước cần phải có nguồn lực tài chính đó là cơ sở vật chất cho nhà nước tồn tại và hoạt động. Và do đó, ngân sách nhà nước ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của nhà nước cũng như sự xuất hiện của nền sản xuất hàng hóa. Ngân sách nhà nước đã trở thành một công cụ quan trọng nhất được nhà nước sử dụng để khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường, huy động nguồn tài chính, điều tiết vĩ mô nền kinh tế cũng như điều tiết thu nhập nhằm đảm bảo công bằng xã hội. Những việc đó được thực hiện thông qua hoạt động thu, chi của ngân sách nhà nước. Thu để định hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh… Chi để nâng cao chất lượng y tế, giáo dục, nâng cao đời sống nhân dân… Tuy nhiên, trong điều kiện ngân sách nhà nước còn eo hẹp, thì việc thu, chi ngân sách thế nào cho hiệu quả, tiết kiệm, tránh được tình trạng thất thoát, hạn chế thâm hụt ngân sách luôn là bài toán khó đặt ra cho nước ta. Với mục đích đi tìm hiểu về tình hình thực hiện nhiệm vụ thu và chi ngân sách nhà nước ta hiện nay, em đã chọn đề tài: Thực trạng thu, chi ngân sách nhà nước Việt nam trong giai đoạn 2009-2011 làm đề tài cho bài đề án môn học. Ngoài lời mở đầu và danh mục tài liệu tham khảo, bài đề án kết cấu gồm hai phần: Phần một: Những vấn đề cơ bản về thu, chi ngân sách nhà nước Phần hai: Thực trạng thi, chi ngân sách nhà nước Việt nam trong giai đọng 2009-2011 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN THU CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ngân sách nhà nước Khái niệm Trong hệ thống tài chính thống nhất, NSNN là khâu tài chính tập trung giữ vị trí chủ đạo. NSNN cũng là khâu tài chính được hình thành sớm nhất, nó ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với sự ra đời của hệ thống quản lý nhà nước và sự phát triển của kinh tế hàng hóa, tiền tệ. Cho đến nay, thuật ngữ NSNN được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế, xã hội ở mọi quốc gia. Trên thực tế, người ta đã đưa ra nhiều định nghĩa về ngân sách nhà nước không giống nhau tùy theo quan điểm của người định nghĩa thuộc trường phái kinh tế khác nhau hoặc tùy theo mục đích nghiên cứu khác nhau. Thuật ngữ Ngân sách nhà nước “Budget” bắt nguồn từ tiếng anh có nghĩa là cái ví, cái xắc . Tuy nhiên trong cuộc sống kinh tế thuật ngữ này đã thoát ly ý nghĩa ban đầu và mang nội dung hoàn toàn mới. Theo quan điểm của những nhà nghiên cứu kinh tế cổ điển, ngân sách nhà nước là một văn kiện tài chính, mô tả các khoản thu và chi của chính phủ được thiết lập hàng năm. Theo cuốn từ điển bách khoa toàn thư của Liên Xô “cũ” thì ngân sách là: 1.Bảng liệt kê các khoản thu chi bằng tiền trong giai đoạn nhất định của nhà nước. 2.Mọi kế hoạch thu chi bằng tiền bất kỳ một cơ quan, cá nhân nào trong một giai đoạn nhất định. Cuốn tư liệu Xanh của Pháp được ấn hành nhằm hướng dẫn một số luật định tài chính và thuế, trong đó ngân sách được hiểu là: 1,Chứng từ dự kiến cho phép các khoản thu chi hàng năm của nhà nước. 2,Toàn bộ tài liệu kế toán mô tả, trình bày các khoản chi phí của nhà nước trong một năm. 3,Toàn bộ các khoản trình bày tiền mà một Bộ được cấp trong một năm. Theo Luật Ngân sách nhà nước được Quốc hội Việt Nam thông qua năm 2002, ngân sách nhà nước được định nghĩa định nghĩa: Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Thu chi ngân sách nhà nước hoàn toàn không giống như bất kỳ một hình thức thu chi nào khác. Ở đây thu chi của nhà nước luôn được thực hiện bằng luật pháp do luật định ‘’về thu có các luật thuế và các văn bản khác về chi có các tiêu chuẩn luật định’’. Trên cơ sở đó nhằm đạt mục tiêu cân đối giữa thu và chi ngân sách nhà nước. Mặt khác Ngân sách nhà nước còn phản ánh các quan hệ kinh tế giữa một bên là nhà nước một bên là các chủ thể trong xã hội, phát sinh khi nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu. Những khoản thu nộp và cấp phát qua quỹ Ngân sách nhà nước là các quan hệ được xác định trước, được định lượng và nhà nước sử dụng chúng để điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế. Đặc điểm của ngân sách nhà nước Trong hệ thống tài chính quốc gia cũng như trong khu vực tài chính nhà nước nói riêng, Ngân sách nhà nước đóng vai trò quan trọng trong đảm bảo nguồn tài chính cho sự tồn tại cũng như hoạt động của nhà nước. Ngân sách nhà nước bao gồm quan hệ tài chính nhất định trong tổng thể các quan hệ tàI chính quốc gia, gồm các quan hệ sau: -Quan hệ tài chính nhà nước với dân sự -Quan hệ tài chính nhà nước với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế -Quan hệ tài chính nhà nước với các tổ chức xã hội Các quan hệ trên mang bốn đặc điểm sau: Thứ nhất: Tạo lập và sử dụng Ngân sách nhà nước gắn liền quyền lực với việc thực hiện các chức năng của NN, đây cũng chính là điểm khác biệt giữa Ngân sách nhà nước với các khoản tài chính khác. Các khoản thu Ngân sách nhà nước đều mang tính chất pháp lý, còn chi Ngân sách nhà nước mang tính cấp phát “không hoàn trả trực tiếp”. Do nhu cầu chi tiêu của mình để thực hiện nhiệm vụ kinh tế- xã hội nhà nước đã sử dụng để quy định hệ thống pháp luật tài chính, buộc mọi pháp nhân và thể nhân phải nộp một phần thu nhập của mình cho nhà nước với tư cách là một chủ thể. Các hoạt động thu chi Ngân sách nhà nước đều tiến hành theo cơ sở nhất định đó là các luật thuế, chế độ thu chi… do nhà nước ban hành, đồng thời các hoạt động luôn chịu sự kiểm tra của các cơ quan nhà nước. Thực vậy khi nhà nước ban hành một loại thuế mới hay sửa đổi phải được Quốc hội thông qua”. Thứ hai: Ngân sách nhà nước luôn gắn chặt với nhà nước chứa đựng lợi ích chung và công, hoạt động thu chi Ngân sách nhà nước là thể hiện các mặt kinh tế-xã hội của nhà nước, dù dưới hình thức nào thực chất cũng là quá trình giải quyết quyền lợi kinh tế giữa nhà nước và xã hội thể hiện qua các khoản cấp phát từ Ngân sách nhà nước cho các mục đích tiêu dùng và đầu tư. Quan hệ kinh tế giữa nhà nước và xã hội, dó đó, thể hiện ở phạm vi rộng lớn. Thứ ba: Cũng như các quỹ tiền tệ khác Ngân sách nhà nước cũng có đặc điểm riêng của một quỹ tiền tệ, nó tập chung lớn nhất của nhà nước là nguồn tài chính nên Ngân sách nhà nước là giá trị thặng dư của xã hội do đó nó mang đặc đIểm khác biệt. Thứ tư: Hoạt động thu cho của Ngân sách nhà nước được thể hiện theo nguyên tắc không hoàn lại trực tiếp đối với người có thu nhập cao nhằm mục đích rút ngắn khoản thời gian giữa người giàu và nghèo để công bằng xã hội. Ví dụ: Xây dựng đường xá, an ninh quốc phòng… người chịu thuế sẽ được hưởng lợi từ hàng hóa này nhưng hoàn trả một cách trực tiếp. Bên cạnh đó nhà nước còn trợ cấp cho gia đình chính sách, thương binh…từ nguồn thu được. Vai trò của ngân sách nhà nước Ngân sách nhà nước có vai trò rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của đất nước. Vai trò của Ngân sách nhà nước luôn gắn liền với vai trò của nhà nước theo từng giai đoạn nhất định. Đối với nền kinh tế thị trường, Ngân sách nhà nước đảm nhận vai trò quản lý vĩ mô đối với toàn bộ nền kinh tế, xã hội. Kích thích sự tăng trưởng kinh tế (vai trò điều tiết trong lĩnh vực kinh tế) Nhà nước sử dụng ngân sách để điều chỉnh các hoạt động kinh tế, sử dụng hiệu quả các khoản thu, chi ngân sách nhà nước. Thông qua các chính sách thuế và chính sách chi tiêu của chính phủ, Nhà nước sẽ tạo một cơ cấu kinh tế mới, phù hợp với tình hình phát triển của đất nước, kích thích sự phát triển sản xuất kinh daonh và chống độc quyền. Giải quyết các vấn đề xã hội (vai trò điều tiết trong lĩnh vực xã hội): Trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, sự tồn tại và hoạt động có hiệu quả của bộ máy Nhà nước, lực lượng quân đội, công an, sự phát triển của các hoạt động xã hội, văn hóa có ý nghĩa quyết định . Việc thực hiện các nhiệm vụ này về cơ bản thuộc về nhà nước và không vì mục tiêu lợi nhuận. Việc sử dụng những dịch vụ kể trên được phân chia giữa những người tiêu dùng, những nguồn tài trợ để thực hiện các nhiệm vụ đó lại được cấp phát từ ngân sách nhà nước. Như vậy, trong việc thự hiện các nhiệm vụ có tính chất chung toàn xã hội, ngân sách nhà nước có vai trò quan trọng hàng đầu. Bên cạnh đó, hàng năm, chính phủ vẫn có sự chú ý đặc biệt cho tầng lớp dân cư có thu nhập thấp. Chúng ta có thể thấy điều đó thông qua các loại trợ giúp trực tiếp được dành cho những người có thu nhập thấp hoặc có hoàn cảnh đặc biệt như chi trợ cấp giá cho các mặt hàng thiết yếu, các khoản chi phí để thực hiện chính sách dân số, chính sách việc làm, các chương trình quốc gia lớn về chống xóa mù chữ,… Bên cạnh các khoản chi ngân sách nhà nước cho việc thực hiện các vấn đề xã hội, thuế cũng được sử dụng để thực hiện vai trò tái phân phối thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội. Việc kết hợp giữa thuế trược thu và gián thu một mặt vừa tăng cường các khoản thu cho ngân sách nhà nước, mặt khác vừa nhằm điều tiế thu nhập của tầng lớp có thu nhập cao, điều tiết tiêu dùng, bảo đảm thu nhập hợp lý của tầng lớp lao động. Góp phần ổn định thị trường giá cả, chống lạm phát (điều chỉnh trong lĩnh vực thị trường) Trong điều kiện kinh tế thị trường, gái cả phụ thuộc chủ yếu vào quan hệ cung cầu hàng hóa trên thị trường. Do đó, để ổn định giá cả, chính phủ có thể tác động vào cung hoặc cầu hàng hóa trên thị trường. Sự tác động này không chỉ được thực hiện thông qua thuế mà còn được thực hiện thông qua chính sách chi tiêu của ngân sách nhà nước. Bằng nguồn vốn cấp phát của chi tiêu ngân sách nhà nước hàng năm, các quỹ dự trữ nhà nước vầ hàng hóa và tài chính được hình thành. Chính phủ có thể sử dụng ngân sách nhà nước nhằm khống chế và đẩy lùi lạm phát một cách có hiệu quả thông qua việc thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt. Ngoài ra, việc Chính phủ phát hành các công cụ nợ để vay nhân dân nhằm bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước cũng góp phần to lớn vào việc làm giảm tốc độ lạm phát trong nên kinh tế. Những vấn đề về thu, chi ngân sách nhà nước Thu ngân sách nhà nước Khái niệm thu ngân sách nhà nước Xét về mặt nội dung kinh tế, thu NSNN chứa đựng các quan hệ phân phối nảy sinh trong quá trình Nhà nước dùng quyền lực chính trị để tập trung một bộ phần tổng sản phẩm quốc dân để hình thành quỹ tiền tệ tập trung Nhà nước. Luật ngân sách nhà nước ban hành năm 2002 quy định: Thu ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí; các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước; các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân; các khoản viện trợ; các khoản thu khác theo quy định của pháp luật. Đặc điểm của thu ngân sách nhà nước Đặc điểm nổi bật của thu Ngân sách nhà nước là phần lớn các khoản thu được xây dựng dựa trên nền tảng nghĩa vụ công dân. Các khoản thu Ngân sách nhà nước không mang tính hoàn trả trực tiếp. Thu ngân sách nhà nước gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ của nhà nước. Thu ngân sách nhà nước là khoản thu khó kiểm soát và đánh giá hiệu quả: phần lớn chi tiêu của nhà nước tạo ra hàng hóa, dịch vụ công là những sản phẩm được tiêu dùng công nên không có người thụ hưởng cụ thế để kiểm qoát quá trình chi tiêu( không lấy lợi nhuận làm thước đo hiệu quả). Phân loại ngân sách nhà nước Tùy theo nhu cầu của việc phân tích đánh giá, phục vụ sản cho công tác quản lý cũng như cho việc điều chỉnh các chính sách động viên, người ta có thể phân loại nội dung thu ngân sách nhà nước theo nhiều tiêu thức khác nhau: Xét theo nguồn hình thành các khoản thu: Nhóm nguồn thu từ hoạt động sản xuất- kinh doanh trong nước: là các nguồn tài chính có khả năng tạo lập nên quỹ ngân sách nhà nước do kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước mang lại. Nhóm nguồn thu ngoài nước: bao gồm các khoản thu về vay nợ và viện trợ của nước ngoài. Đặc điểm của nguồn thu này là gắn chặt với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và ngoại giao cảu đất nước. Nguồn thu này thường không ổn định và có tính chất bù đắp một phần trong quá trình cân đối ngân sách nhà nước. Xét theo tác dụng của các khoản thu với quá trình cân đối ngân sách nhà nước: Thu trong cân đối ngân sách nhà nước: gồm các khoản thu chủ yếu sau: thuế, phí và lệ phí; thu về bán và cho thuê các tài sản thuộc sở hữu của nhà nước; thu lợi tức cổ phần của nhà nước; các khoản thu khác theo luật định. Trong các khoản thu trên, thuế là khoản thu quan trọng nhất. Thuế không chỉ chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng số thu ngân sách nhà nước hàng năm mà còn là công cụ của nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế. Thu để bù đắp sự thiếu hụt của ngân sách nhà nước: Bao gồm các khoản vay trong và ngoài nước cho chi tiêu ngân sách nhà nước khi các khoản chi ngân sách nhà nước vượt quá các khoản thu trong cân đối của ngân sách nhà nước. Nhân tố ảnh hưởng tới thu ngân sách nhà nước Với sự phân loại trên, thu Ngân sách nhà nước phụ thuộc vào các yếu tố sau: Mức độ phát triển của nền kinh tế: được đánh giá bằng tốc độ tăng trưởng và giá trị tổng sản phẩm quốc nội giữa các thời kỳ. Một quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế vững chắc, ổn định có số thu tương đối ổn định. Thu nhập bình quân đầu người: chỉ tiêu thu nhập bình quân đầu người phản ánh mức độ phát triển nền kinh tế và phản ánh khả năng tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư của một nước. Mức độ phát triển nền kinh tế hàng hóa, tiền tệ luôn là nhân tố quan trọng nhất đối với sự phát triển của mọi khâu tài chính, cho nên nhân tố này cũng là nhân tố quyết định khách quan đến mức động viên của ngân sách nhà nước và cần phải xem xét nó trong mối quan hệ với dân số. Nếu thoát li chỉ tiêu này khi ấn định mức động viên sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến vấn đề tiết kiệm, tiêu dùng , đầu tư của khu vực dân cư. Tài nguyên thiên nhiên: một phần lớn nguồn thu của các quốc gia đang phát triển hiện nay là thu từ bán tài nguyên. Bởi vậy, quốc gia có nhiều tài nguyên thiên nhiên thì cùng với đó, thu ngân sách cũng sẽ tăng. Tỷ suất sinh lời của nền kinh tế: Tỷ suất lợi nhuận phản ánh hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp. Nếu khả năng huy động vào ngân sách càng cao. Dựa vào tỷ suất lợi nhuận trong nền kinh tế để xác định tỷ suất thu sẽ tránh việc huy động của ngân sách gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Thời kỳ kinh tế suy thoái, Nhà nước có thể giảm thuế suất để khuyến khích đầu tư, tiêu dùng, phát triển kinh tế. Ở những nước chưa phát triển có tỷ suất lợi nhuận thấp cũng không nên huy động nhiều để bồi dưỡng nguồn thu.Thâm hụt ngân sách được giải quyết bằng vay nợ. Quan hệ đối ngoại của nhà nước: vấn đề liên quan đến việc nhận viện trợ từ nước ngoài. Hiệu quả của bộ máy thu ngân Ngân sách nhà nước: hiện tượng gian lận, hiệu quả thu kém là một trong những nguyên nhân chính của việc thất thu ngân sách nhà nước. Nếu công tác này được xem xét và cải thiện thì thu ngân sách nhà nước cũng sẽ tăng. Chi ngân sách nhà nước Khái niệm chi ngân sách nhà nước Chi ngân sách nhà nước là một bộ phận trong cơ cấu Ngân sách nhà nước. Theo từ điển giải thích thuật ngữ luật học thì chi Ngân sách nhà nước là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền phân phối và sử dụng quỹ Ngân sách nhà nước. Mục đích của chi Ngân sách nhà nước là thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Chi ngân sách nhà nước là nội dung của chấp hành ngân sách nhà nước nên thuộc trách nhiệm và quyền hạn của hệ thống cơ quan chấp hành và hành chính các cấp. Căn cứ để thực hiện chi ngân sách nhà nước là dự toán ngân sách hàng năm, quy định của luật pháp về định mức, tiêu chuẩn chi ngân sách. Nếu hoạt động thu ngân sách nhà nước là nhằm thu hút các nguồn vốn tiền tệ để hình thành nên quỹ ngân sách nhà nước thì chi ngân sách nhà nước là chu trình phân phối, sử dụng các nguồn vốn tiền tệ đã được tập trung vào quỹ tiền tệ đó. Do hoạt động thu ngân sách nhà nước vừa là tiền tệ, vừa là cơ sở thực hiện hoạt động cho ngân sách nhà nước nên phạm vi và quy mô của hoạt động chi ngân sách nhà nước phụ thuộc một phần vào kết quả hoạt động thu ngân sách nhà nước. Luật ngân sách nhà nước 2002 đưa ra khái niệm chi ngân sách nhà nước nhưngở dạng liệt kê, tại Khoản 2 Điều 2. Theo đó, chi ngân sách nhà nước bao gồm các khoản chi phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà nước; chi trả nợ của Nhà nước; chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật. Như vậy, ta có thể hiểu chi ngân sách nhà nước là phân phối và sử dụng quỹ ngân sách nhà nước theo dự toán ngân sách đã được chủ thể quyền lực quyết định nhằm duy trì sự hoạt động của bộ máy nhà nước và bảo đảm thực hiện các chức năng của Nhà nước. Chi ngân sách nhà nước là một nội dụng quan trọng cơ cấu nên đạo luật thường niên ngân sách nhà nước. Đặc điểm chi ngân sách nhà nước Dựa trên những khái niệm về chi ngân sách nhà nước đã được đưa ra, ta có thẻ thấy, chi ngân sách nhà nước mang những đặc điểm sau: Chi ngân sách nhà nước là hoạt động phân phối và sử dụng quỹ ngân sách nhà nước, hoạt động này chỉ có thể thực hiện trên cơ sở quy định pháp luật và dự toán ngân sách do cơ quan quyền lực nhà nước quyết định. bản dự toán ngân sách này do Quốc hội thông qua. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền quyết định tổng số chi Ngân sách nhà nước bao gồm chi ngân sách trung ương và chi ngân sách địa phương, tổng số chi và mức chi từng lĩnh vực… Chi ngân sách nhà nước là một nội dung quan trọng quyết định đến hiệu quả quản lý Nhà nước và bộ máy nhà nước vì vậy nó phải được thông qua theo nguyên tắc tập thể, tập trung trí tuệ tập thể và một quy trình luật định nghiêm ngặt. Chi ngân sách nhà nước là hoạt động được tiến hành bởi các chủ thể quyền lực gồm hai nhóm: Nhóm chủ thể đại diện cho Nhà nước thực hiện việc quản lý, cấp phát , thanh toán các khoản chi ngân sách nhà nước. Đó là các cơ quan đại diện cho nhà nước thực thi quyền hạn có liên quan tới việc xuất quỹ Ngân sách nhà nước cho các mục tiêu đã được phê duyệt. Nhóm chủ thể này gồm Bộ tài chính, Sở tài chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Phòng tài chính quận, huyện, thị xã thuộc tỉnh, thành phố, Sở kế hoạch và đàu tư và Kho bạc nhà nước. Nhóm chủ thể sử dụng ngân sách nhà nước. Đây là nhóm chủ thể được hưởng kinh phí từ ngân sách nhà nước để trang trải các chi phí trong quá trình thực hiện hoạt động của mình. Nhóm chủ thể này rất đa dạng nhưng có thể phân thành ba loại chủ yếu: Các cơ quan nhà nước, kể cả cơ quan hành chính thực hiện khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính; Các đơn vị, kể cả đơn vị sự nghiệp có thu; Các chủ dự án sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước. Mục tiêu cơ bản của chi ngân sách nhà nước là đáp ứng nhu cầu về tài chính cho sự hoạt động của bộ máy nhà nước, bảo đảm cho nhà nước thực hiện được chức năng, nhiệm vụ của mình. Chi ngân sách nhà nước luôn gắn kết với bộ máy nhà nước. Nhà nước thông qua hoạt động chi ngân sách đảm bảo hoạt động của mình trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh và quốc phòng. Ngoài ra, thông qua việc thể chế hóa bằng pháp luật đối với hoạt động chi ngân sách, Nhà nước còn hướng dẫn những mục tiêu khác, trong đó, bao gồm mục tiêu quản lý hiệu quả việc sử dụng công quỹ và tăng cường kỷ luật ngân sách, đồng thời tạo cơ sở quản lý cho việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về ngân sách nói chung và pháp luật về chi ngân sách nói riêng, góp phần hạn chế tình trạng tham nhũng, lãng phí tài sản nhà nước. Phân loại chi ngân sách nhà nước Tùy theo yêu cầu của việc phân tích, đánh giá và quản lý ngân sách nhà nước trong từng thời kỳ, người ta có thể phân chi các khoản chi ngân sách nhà nước theo các tiêu thức khác nhau. Theo tính chất kinh tế, chi ngân sách nhà nước được chia ra các nội dung: Chi thường xuyên: là những khoản chi không có trong khu vực đầu tư và có tính chất thường xuyên để tài trợ cho hoạt
Tài liệu liên quan