Tìm hiểu về ký báo chí trong mối liên hệ với ký văn học

Trong văn học và báo chí, thể loại ký xuất hiện do nhu cầu phản ánh hiện thực sôi động của cuộc sống. Con ng¬uời sự vật hiện tư¬ợng đư¬ợc đề cập đến trong ký đều có thật. Do vậy tính thuyết phục của ký phần lớn do chính những con người sự việc trong tác phẩm. Từ điển Tiếng Việt định nghĩa ký là một “thể văn tự sự viết về ngư¬ời thật việc thật, có ý nghĩa thời sự, trung thành với hiện thực ở mức cao nhất.” Trong “Thuật ngữ nghiên cứu văn học”, thể loại ký đ¬ược xem là “một loại hình văn học tái hiện cuộc sống qua sự ghi chép, miêu tả ng¬ười thật việc thật Hình tượng của ký có địa chỉ của nó trong cuộc sống. Do đó, tính chính xác tối đa là đặc trưng cơ bản của nó ” Nh¬ư vậy, ký phản ánh sự việc và con ngư¬ời có thật trong cuộc sống. Trong ký, tính chính xác đ¬ược thể hiện ở mức độ cao, h¬ư cấu chỉ giữ vai trò thứ yếu. Ký phản ánh kịp thời và linh hoạt cuộc sống, kết hợp hài hoà các yếu tố tự sự, chính luận, trữ tình. Ng¬ười viết ký cần phải chọn cho mình một hình thức ký thích hợp và cần thiết bằng một thứ ngôn ngữ hấp dẫn với những cảm xúc chân thành. Những đặc trư¬ng này đã tạo cho thể ký sức hấp dẫn, lôi cuốn với bạn đọc. Theo một số nhà nghiên cứu, Ký là một loại hình trung gian nằm giữa báo chí và văn học gồm nhiều loại, thể khác nhau. Chủ yếu là văn xuôi tự sự nh¬ư bút ký, hồi ký, phóng sự, ký sự, nhật ký Theo “Thuật ngữ nghiên cứu văn học” có thể phân chia các thể ký căn cứ vào ‘đặc điểm của nội dung, mục đích của ng¬ời viết, tính chất của những hiện tư¬ợng lịch sử đ¬ược kể lại, tỉ lệ giữa các yếu tố tự sự trữ tình, chính luận tuy nhiên ranh giới ấy là t¬ương đối.” Bởi nhìn chung, các yếu tố tự sự, trữ tình, chính luận thư¬ờng hoà lẫn nhau. Trong “Từ điển văn học”, nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Nam viết: “Ký có nhiều thể, có thể rút gần với thông tin như¬ ký sự, phỏng vấn, có thể rất gần với chính luận nh¬ư tạp văn, bút ký chính luận, có thể rất gần với lịch sử như¬ hồi ký, tự truyện, lại có thể mang nhiều yếu tố trữ tình nh¬ư tuỳ bút, bút ký Hiện nay, còn có nhiều ý kiến khác nhau trong việc phân loại các thể loại báo chí nên muốn xem xét các thể ký báo chí cân nhận diện hệ thống thể loại báo chí. Hệ thống này gồm ba loại thể với những đặc tr¬ưng riêng: * Loại thể thông tấn báo chí gồm những thể loại có nhiệm vụ thông tin về sự kiện, sự việc, trong đó tin đóng vai trò hạt nhân; loại thể chính luận báo chí gồm những thể loại có nhiệm vụ thông tin lý lẽ, trong đó bình luận là thể loại hạt nhân; loại thể ký báo chí ngoài khả năng thông tin sự kiện, thông tin lý lẽ còn ít nhiều có tính chất văn học. Điều này có đư¬ợc do sự xuất hiện trực tiếp của tác giả - nhân vật trần thuật trong tác phẩm và với việc sử dụng ngôn ngữ, bút pháp, giọng điệu sinh động, giàu chất văn học. Cũng cần nhấn mạnh rằng trư¬ớc đây ký báo chí chư¬a đư¬ợc nhận diện với t¬ư cách là một loại thể tồn tại độc lập trong hệ thống thể loại báo chí ở n¬ước ta. Ký báo chí bao gồm một số thể loại như¬ Phóng sự, ký chân dung, ký chính luận, nhật ký phóng viên. trong đó phóng sự là thể loại hạt nhân.

doc26 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1614 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tìm hiểu về ký báo chí trong mối liên hệ với ký văn học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA BÁO CHÍ TIỂU LUẬN Bộ môn: CHÍNH LUẬN NGHỆ THUẬT Đề tài: Tìm hiểu về ký báo chí trong mối liên hệ với ký văn học PHẦN MỞ ĐẦU Những quan niệm chung về ký Trong văn học và báo chí, thể loại ký xuất hiện do nhu cầu phản ánh hiện thực sôi động của cuộc sống. Con nguời sự vật hiện tượng được đề cập đến trong ký đều có thật. Do vậy tính thuyết phục của ký phần lớn do chính những con người sự việc trong tác phẩm. Từ điển Tiếng Việt định nghĩa ký là một “thể văn tự sự viết về người thật việc thật, có ý nghĩa thời sự, trung thành với hiện thực ở mức cao nhất.” Trong “Thuật ngữ nghiên cứu văn học”, thể loại ký được xem là “một loại hình văn học tái hiện cuộc sống qua sự ghi chép, miêu tả người thật việc thật…Hình tượng của ký có địa chỉ của nó trong cuộc sống. Do đó, tính chính xác tối đa là đặc trưng cơ bản của nó…” Như vậy, ký phản ánh sự việc và con người có thật trong cuộc sống. Trong ký, tính chính xác được thể hiện ở mức độ cao, hư cấu chỉ giữ vai trò thứ yếu. Ký phản ánh kịp thời và linh hoạt cuộc sống, kết hợp hài hoà các yếu tố tự sự, chính luận, trữ tình. Người viết ký cần phải chọn cho mình một hình thức ký thích hợp và cần thiết bằng một thứ ngôn ngữ hấp dẫn với những cảm xúc chân thành. Những đặc trưng này đã tạo cho thể ký sức hấp dẫn, lôi cuốn với bạn đọc. Theo một số nhà nghiên cứu, Ký là một loại hình trung gian nằm giữa báo chí và văn học gồm nhiều loại, thể khác nhau. Chủ yếu là văn xuôi tự sự như bút ký, hồi ký, phóng sự, ký sự, nhật ký… Theo “Thuật ngữ nghiên cứu văn học” có thể phân chia các thể ký căn cứ vào ‘đặc điểm của nội dung, mục đích của ngời viết, tính chất của những hiện tượng lịch sử được kể lại, tỉ lệ giữa các yếu tố tự sự trữ tình, chính luận…tuy nhiên ranh giới ấy là tương đối.” Bởi nhìn chung, các yếu tố tự sự, trữ tình, chính luận thường hoà lẫn nhau. Trong “Từ điển văn học”, nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Nam viết: “Ký có nhiều thể, có thể rút gần với thông tin như ký sự, phỏng vấn, có thể rất gần với chính luận như tạp văn, bút ký chính luận, có thể rất gần với lịch sử như hồi ký, tự truyện,…lại có thể mang nhiều yếu tố trữ tình như tuỳ bút, bút ký… Hiện nay, còn có nhiều ý kiến khác nhau trong việc phân loại các thể loại báo chí nên muốn xem xét các thể ký báo chí cân nhận diện hệ thống thể loại báo chí. Hệ thống này gồm ba loại thể với những đặc trưng riêng: * Loại thể thông tấn báo chí gồm những thể loại có nhiệm vụ thông tin về sự kiện, sự việc, trong đó tin đóng vai trò hạt nhân; loại thể chính luận báo chí gồm những thể loại có nhiệm vụ thông tin lý lẽ, trong đó bình luận là thể loại hạt nhân; loại thể ký báo chí ngoài khả năng thông tin sự kiện, thông tin lý lẽ còn ít nhiều có tính chất văn học. Điều này có được do sự xuất hiện trực tiếp của tác giả - nhân vật trần thuật trong tác phẩm và với việc sử dụng ngôn ngữ, bút pháp, giọng điệu sinh động, giàu chất văn học. Cũng cần nhấn mạnh rằng trước đây ký báo chí chưa được nhận diện với tư cách là một loại thể tồn tại độc lập trong hệ thống thể loại báo chí ở nước ta. Ký báo chí bao gồm một số thể loại như Phóng sự, ký chân dung, ký chính luận, nhật ký phóng viên.. trong đó phóng sự là thể loại hạt nhân. Chính vì những yếu tố gần gũi như vây giữa thể ký văn học và ký báo chí, chúng ta có thể đi tìm hiểu một cách kỹ lưỡng hơn thể ký báo chí thông qua mối liên hệ với ký văn học trong tiến trình phát triển của lịch sử báo chí Việt Nam. PHẦN NỘI DUNG 1. Tìm hiểu mối liên hệ giữa văn học và báo chí Trong lịch sử văn học và lịch sử báo chí Việt nam, có thể coi những năm cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX là một thời kỳ phát triển đặc biệt. Chính ở thời kỳ bản lề này, sự xuất hiện và phát triển của chữ quốc ngữ và báo chí đã tạo ra một động lực quan trọng cho sự xuất hiện và phát triển của nền báo chí và văn học Việt Nam hiện đại. Chúng ta biết rằng công cuộc Latinh hoá tiếng Việt bắt đầu từ thế kỷ XVI với sự có mặt của các giáo sĩ phương Tây. Tuy nhiên trong giai đoạn đầu tiên, chữ quốc ngữ không nhận được thiện cảm của cả giới trí thức lẫn bình dân ở nước ta vì nó gắn với sự xuất hiện của “người Tây” và là nguyên nhân làm mất dần vai trò độc tôn hàng nghìn năm của Hán học. Mặc dù vậy, thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, cùng với phong trào canh tân văn hoá, với sự xuất hiện của máy in (1861) và công nghệ sản xuất giấy, chữ quốc ngữ mới thực sự có một vai trò quan trọng và trở thành phương tiện của nền báo chí và văn học mới. Đến lượt nó, chính báo chí và nền văn học hiện đại cùng với nhà in, trường học…đã tác động trở lai khiến cho chữ quốc ngữ phát triển ngày càng mạnh mẽ. Theo tác giả Trần Hoà Bình, các trí thức Việt Nam tiến bộ ngay từ cuối thế kỷ XIX đã nhìn nhận chữ quốc ngũ như một công cụ vô song của công cuộc đổi mới văn hoá, trớc một bối cảnh rộng lớn của sự giao lưu giữa phương Đông và phương Tây. Với sự nhạy bén và với tinh thần canh tân xứ sở, các nhà trí thức nước ta khi đó đã nhanh chóng nhận thấy vai trò của chữ quốc ngữ. Trong cuộc tranh luận về quốc học ( từ năm 1924 đên 1939), tuy còn nhiều bất đồng ở một số vấn đề nhưng riêng chữ quốc ngữ, hầu hết các ý kiến đều nhận thấy các ưu thế vợt trội của nó so với chữ Hán và Nôm. Họ đẫ hăng hái cổ suý cho chữ quốc ngữ với tư cách là một công cụ văn hoá có những tác động tích cực và cơ bản đến sự phát triển của nền văn hoá dân tộc. Thực ra công cuộc này đã bắt đầu với lớp trí thức cuối thế kỷ XIX như Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của… và được nối tiếp mạnh mẽ ở những thế hệ sau Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Triệu Luật, Phan Khôi, Nguyễn Văn Vĩnh…Trên báo chí thời kỳ đó có khá nhiều những ý kiến dầy nhiệt tâm. Đó là lời kêu gọi của Phan Khôi năm 1929: “ Này, hỡi người An Nam, ta hãy bắt đầu từ nay học viết chũ quốc ngũ cho đúng đi. Có như vậy mới xứng đáng là người An Nam.” Năm 1931, Phạm Quỳnh khẳng định: “Nước Nam ta đời trước không thể có quốc học bằng chữ Hán được, nước Nam ta sau này cũng không thể có quốc học bằng chữ Pháp được. Muốn cho nước Nam có quốc học thì phải có quốc văn bằng tiếng An Nam.” Một nhà nghiên cứu năm 1939 cũng từng nhận xét: “Thứ chữ quốc ngữ ở nước ta hiện nay, xem đã phổ thông lắm và tiện lợi cho sự học vấn của ta không biết chừng nào. Nếu sau này dịch hết sách khoa học để dạy cho người mình thì sự tiến bộ mau chóng vô cùng.”…Chính những tinh thần đó đã tạo ra cuộc cách mạng về văn hoá ở nước ta trong giai đoạn bản lề quan trọng này. Theo nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan, ban đầu các trí thức Việt Nam chưa thực sự có sáng tạo văn học mà chủ yếu là dịch thuật tác phẩm của nước ngoài. “Những nhà văn lớp đầu, dù thuộc nhóm Đông Dương tạp chí hay Nam Phong tạp chí, hay là những nhà văn độc lập không viết riêng cho một cơ quan nào, phần nhiều đều xu hướng về biên tập dịch thuật hay khảo cứu”. Phải bước sang những năm đầu thế kỷ XX, công việc sáng tạo tác phẩm văn học và báo chí mới dần trở nên phổ biến. Đó là thời kỳ mà sự phát triển của báo chí cũng đồng thời là sự phát triển của văn học. So với các nước trên thế giới, báo chí nước ta ra đời muộn hơn 2 thế kỷ. Tờ báo tiến Pháp đầu tiên được xuất bản tại Sài Gòn ngày 29/9/1861. Tờ báo bằng chữ quốc ngữ đầu tiên là tờ Gia Định báo ra số đầu tiên ngày 15/4/1865, chủ bút là Trơng Vĩnh Ký. Tờ báo tổng hợp này ra hàng tuần tại Sài Gònvà tồn tại suốt 44 năm sau đó. TS Trần Thị Trâm cho răng thời điểm đó đến năm 1934 khi Nam Phong – tờ báo lớn nhất do Phạm Quỳnh làm chủ bút bị đình bản, “đã có tới 186 tờ báo tiếng Việt đã được xuất bản trên toàn quốc.” Trước khi có các nhà xuất bản, báo chí là phương tiện duy nhất để truyền báo văn học. Sự xuất hiện của các nhà xuất bản như Tân dân, Hàn thuyên, Minh Đức, Châu Phương, Nam Kỳ, công nghệ sản xuất giấy, sự phất triển của mạng lưới bưu điện và các hiệu sách…càng tạo ra những tác động tích cực đến sự phát triển của cả văn học và báo chí. Sự xuất hiện của báo chí đã tạo ra một lớp người trước đó chưa từng có là các nhà báo. Hầu hết các nhà văn như Xuân Diệu, Nhất Linh, Khái Hng, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Tam Lang…đều bắt đầu sự nghiệp của mình bằng nghề báo. Tuy nhiên ở thời kỳ đầu, nhìn chung không có sự phân biệt rõ rệt giữa nhà văn và nhà báo. Mối quan hệ đặc biệt giữa nhà văn và nhà báo, giữa văn học và báo chí hiện đại nước ta ngay từ khi ra đời là nguyên nhân tạo ra tình trạng giao thoa, thâm nhập mạnh mẽ trên nhiều phương diện, nhất là trong ngôn ngữ và các thủ pháp biểu hiện giữa ký văn học và ký báo chí. 2. Văn học và Báo chí - hai hướng nhìn 2.1. Văn học Với tư cách là nghệ thuật ngôn từ, văn học có nhiệm vụ nhận thức về con người trong toàn bộ sự sinh động và toàn vẹn của nó với những mối quan hệ phôong phú của đời sống. Văn học có nhiệm vụ tái tạo những tính cách điển hình tiêu biểu cho các tầng lớp người trong xã hội. Trong tương quan so sánh với báo chí, văn học có đặc trưng cơ bản là tính hình tượng. Những hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm văn học vừa thể hiện chân thực cuộc sống, vừa biểu hiện quan niệm thẩm mỹ của tác giả. Tác phẩm văn học là một chỉnh thể nghệ thuật. Thông tin trong tác phẩm văn học là thông tin thẩm mỹ. Nó tác động vào tình cảm của công chúng thông qua những cảm nhận trực quan sinh động để từ đó dẫn dắt đến nhận thức lý tính. Như vậy, tính hình tượng là dấu hiệu đặc trưng cơ bản giúp ta phân biệt văn học với các loại tác phẩm khác. Trong khi đó, mặc dù cũng lấy hiện thực đời sống làm đối tượng nhận thức và phản ánh, đồng thời cũng sử dụng ngôn từ là công cụ chủ yếu nhất nhưng báo chí có nhiệm vụ phản ánh hiện thực thông qua những sự kiện thời sự. Nó tác động vào nhận thức lý tính và thông qua đó chi phối tâm lý, tình cảm của công chúng. 2.2. Báo chí So với văn học, sử học, triết học, báo chí là hình thái ý thức xã hội muộn hơn hàng nghìn năm. Hình thức phôi thai của nó là những bản tin viết tay được phân phát ở những nơi đông đúc như bến cảng, chợ búavà những nơi đông người từ khoảng thế kỷ XVI…Theo giáo trình nghiệp vụ báo chí tập 1 của Khoa báo chí trường Tuyên huấn trung ương, ở thành phố cảng Vơnidơ của nước ý, các nhà buôn, các ông chủ đã sử dụng phơng pháp thông tin này để loan báo về tình hình tàu thuyền đi lại, tình hình hàng hoá, giá cả…Thoạt tiên họ thuê người viết tay các bản tin rồi đem phân phát những nơi đông đúc trong thành phố. Người xem dần dần thành nếp dẫn đến hình thành nhu càu phổ biến. Các nhà kinh doanh chuyển từ phát không sang bán lấy tiền với giá một đồng tiền Vơnidơ cho mỗi bản tin. Tên gọi đồng tiền đó là “Ga-det-ta”. Từ Ga-det-ta dần dần biến thành tên gọi các bản tin đó. Tuy nhiên, báo chí chỉ thực sự ra đời cùng với chủnghĩa tư bản ở châu Âu từ cuối thế kỉ XVI, đầu thế kỉ XVII trên có sở của sự phát triển về kinh tế và xã hội. Đặc biệt những tiến bộ trong khoa học kĩ thuật đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển hơn nữa, trong đó có báo chí với sự phát minh ra máy in. Tuy nhiên trong giai đoạn đầu tiên nó chỉ đóng vai trò khiêm tốn trong xã hội và nhà báo cũng không thực sự được coi trọng. Báo chí có nhiệm vụ thông tin về cái mới- những con người mới, sự việc, sự kiện, tình huống mới…tiêu biểu nảy sinh hàng ngày hàng giờ trong đời sống. Nó phản ánh hiện thực đúng như mọi trạng thái tồn tại có thực và luôn luôn chịu sự chi phối gắt gao của áp lực thời sự. áp lực này có khi đòi hỏi gay gắt đến từng phút. Chính đặc điểm này đẫ chi phối một cách toàn diện, kể từ dung lượng, ngôn ngữ, bút pháp cho đến cách thức tổ chức tác phẩm và hàng loạt yếu tố khác của các thể loại báo chí. Báo chí nhằm thoả mãn nhu cầu được cung cấp thông tin để có sự hiểu biết về những sự thật nóng hổi, sinh động, từ đó tạo cơ sở cho nhận thức, tư duy và hành động. thông tin báo chí vừa cố gắng đảm bảo một thái độ khách quan, đồng thời lại không che giấu thái độ thẩm định của nhà báo trên cơ sở một quan điểm chính trị nhất định. Điều đó cho thấy mặc dù có nhiều điểm tương đồng nhưng báo chí và văn học là những hình thái tư duy có phương pháp không giống nhau trong việc tiếp cận và phản ánh đời sống. 2.3. Những mối tương quan giữa văn học và báo chí Khác với báo chí, văn học mang bản chất nghệ thuật. Mặc dù trong một số trường hợp, có những tác phẩm báo chí nhưng xét về bản chất, hiện thực được phản ánh trong tác phẩm văn học là hiện thực thẩm mỹ, gắn liền với thế giới quan thẩm mỹ của nhà văn. Đặc điểm quan trọng này vẫn được thể hiện trong các tác phẩm phản ánh về những con người và sự việc có thật trong đời sống như các tác phẩm thuộc loại thể chính luận nghệ thuật và ký văn học. Báo chí có nhiệm vụ thông tin thời sự về người thật việc thật nhằm tác động vào nhận thức lý tính của công chúng. Chính điều đó đã chi phối toàn bộ những khía cạnh có liên quan đến hoạt động báo chí nói chung. Hiện thực trong tác phẩm báo chí phải là hiện thực tươi rói, nguyên vẹn, một hiện thực còn chưa bị “chưng cất” theo quan niệm thẩm mỹ như trong tác phẩm văn học. Để phản ánh một thế giới hiện thực chứa đầy thông tin, báo chí có một hệ thống thể loại khác biệt so với hệ thống các thể loại văn hoá. Hiện nay, báo chí là một hoạt động thông tin đại chúng nhất, năng động nhất với những tác động mạnh mẽ và trực tiếp vào sự phát triển của xã hội. Trên cơ sở so sánh với văn học và những hình thức phản ánh hiện thực khác, có thể xác định những đặc điểm cơ bản về nội dung và hình thức của tác phẩm báo chí phải đáp ứng được những yêu cầu là: thông tin về hiện thực phải đảm bảo tính chính xác một cách tối đa, tính thời sự ngặt nghèo và tính định hướng trực tiếp. Trong đó yêu cầu về tính xác thực đòi hỏi không được bịa đặt hoặc thêm bớt một cách tuỳ tiện trong qua trình thông tin sự thật. những sự kiện trong báo chí phải đợc tái hiện chính xác và cụ thể về địa điểm, thời gian, không gian và nhân chứng. Yêu cầu về tính thời sự đòi hỏi báo chí phải phản ánh kịp thời về những cái tiêu biểu mới xảy ra, đang xảy ra, chắc chắn sẽ xảy ra, đôi khi gay gắt đến từng phút. Tính định hướng trực tiếp được nhấn mạnh để đảm bảo cho những thông tin được đăng tải thể hiện một thái độ chính trị rõ ràng trước sự thật. Về phương diện hình thức, ngắn gọn và đơn giản, dễ hiểu là đặc điểm chung của tác phẩm báo chí. Trong quá trình phát triển, báo chí luôn có mối quan hệ mật thiết với các lĩnh vực hoạt động tinh thần khác như văn học, chính trị, triết học, lịch sử…Đó là mối liên hệ có tính qui luật, gắn liền với chức năng thông tin của báo chí. Trong thực tế đời sống báo chí thường xuất hiện một số thể loại có thể kết hợp tính chât báo chí với văn học và các hình thức khác như lịch sử, ghi chép tư liệu, báo cáo…Riêng mối quan hệ giữa văn học và báo chí có thể coi là một mối quan hệ đặc biệt. Tuy nhiên, ở những thời kì trước đây đã từng có quan niệm cực đoan, đề cao một phía nên đã tạo ra những đối lập giữa nhà văn-nhà báo nói riêng, giữa văn học và báo chí nói chung. Điển hình trong số đó là quan niệm của Hoài Thanh. Trong đó, mặc dù vẫn nhận thấy vai trò quan trọng của nhà báo trong việc “nhắm vào xã hội hiện thời, công kích những điều không hay, hô hào những điều hay, luôn luon đi bên cạnh những ngời hèn yếu” nhưng ông lại đi đến những so sánh thiên lệch. “Nhà báo chỉ mong thay đổi một thời, nhà văn có cái hi vọng ảnh hưởng đến lòng người mãi mãi; nhà văn muốn trao mỹ cảm cho ngời xem, nhà báo nếu có ước muốn ấy sẽ thành nhố nhăng rồ dại”. Mặc dù có những khác biệt về đặc trưng và phương thức tác động nhưng chính những quy luật thông tin phản ánh hiện thựcđã tạo ra mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa hai hình thái ý thức xã hội thuộc kiến trúc thượng tàn vốn có nhiều điểm tơng đồng này. Nói về vấn đề này, trước đây, một nhà văn đồng thời là nhà báo của Cuba cho rằng: “Ngời làm báo viết chuyện sốt dẻo, sử dụng chất liệu sống động diễn ra hàng ngày. Còn nhà viết tiểu thuyết ngắm nghía từ xa, qua một phối cảnh cần thiết, như là một sự kiện đẫ đày đủ và hoàn thành.” Về khái niệm nhà văn và nhà báo, ông khẳng định: “Riêng tôi nghĩ rằng không bao giờ phân biệt được hai chức năng nhà văn và nhà báo vì nhà văn hay nhà báo cũng đều hoà chung trong một nhân cách.” Như vậy ta có thể thấy, thông tin trong văn học và trong báo chí là một quá trình liên tục, xuyên suốt trong mối quan hệ chặt chẽ giữa tác giả - tác phẩm – công chúng. Đó cũng là một đặc điểm chung của mọi hình thái ý thức, được thể hiện rất rõ trong quá trình sáng tạo tác phẩm văn học và báo chí. Trong cuốn cơ sở lý luận báo chí truyền thông, Giáo sư Hà Minh Đức dành hẳn một mục để bàn về “văn học và báo chí”. Về đối tượng nhận thức, ông cho rằng văn học và báo chí là hai hoạt động tinh thần có khả năng nhận t hức, miêu tả xã hội lớn nhất. Báo chí là tấm phiên bản của xã hội, nó phản ánh dòng chảy của cuộc sống, thông tin cho công chúng về mọi điều mà họ quan tâm “nhà báo - con ngời hoạt động tích cực tắm giữa dòng sự kiện, lăn lộn với thực tế xã hội đợc xem là nhân chứng của thời cuộc”. Văn học cũng thực hiện chức năng khám phá sáng tạo theo đặc trng riêng của nó. Trong văn học, việc phê phán cái ác, cái xấu, khẳng định chân thiện mỹ, góp phần xây dựng nhân cách tốt đẹp của con người là mục tiêu của các nhà văn tiến bộ trong quá khứ, hiện tại và tơng lai. Trong những điểm tương đồng và khác biệt giữa văn học và báo chí, tác giả đặc biệt lu ý đến ngôn ngữ. Ông nhấn mạnh: “Ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ báo chí đều đợc xem là ngôn ngữ chuẩn mực, tiêu biểu cho ngôn ngữ dân tộc ở từng thời kì nhất định. So với ngôn ngữ báo chí, ngôn ngữ văn học giàu hình ảnh và sức biểu cảm, nhiều từ ngữ được dùng theo những ý đồ nghệ thuật riêng.” Cũng theo nhận xét của Giáo sư Hà Minh Đức, đứng trước cuộc sống, văn học và báo chí đều bình đẳng với tư cách là những hình thái ý thức xã hội đặc thù. Nếu như đã có những tác phẩm văn học trường tồn với thời gian thì vẫn có những tác phẩm báo chí trải qua hàng trăm năm vẫn giữ nguyên giá trị. Bài báo “Sáng kiễn vĩ đại” (ngày 28/6/1919) của Lênin đã trở thành cương lĩnh hành động cho những ngời cộng sản và toàn thể nhân dân Liên Xô thời kì ấy. Tác phẩm Hành hình kiểu Linsơ, một phương diện ít người biết đến của văn minh Mỹ (ngày 9/10/1924) của nhà báo cách mạng Nguyễn ái Quốc là một bằng chứng lịch sử chỉ ra bản chất tàn bạo của bọn đế quốc ở bất cứ nơi nào, trong bất cứ hoàn cảnh nào. ở Việt Nam, những tấm ảnh của Võ An Ninh về nạn đói 1945 hay những thước phim tư liệu về cảnh xe tăng ta xông vào húc đổ cổng Dinh Độc lập ngày 30/4/1975 đã ghi lại những khoảnh khắc không bao giờ quên và không bao giờ lặp lại. Khoảnh khắc ấy trở thành vĩnh viễn. Đó chính là một trong những cơ sở để cái nhất thời có thể trở thành cái lâu dài. 2.4. Mối tương quan giữa ký văn học và ký báo chí Khẳng định sự khác biệt của ký văn học và ký báo chí không có nghĩa là phủ nhận quá trình giao thoa, thâm nhập và chuyển hoá giữa chúng. Trong thực tế, ký văn học và ký báo chí có mối quan hệ chặt chẽ và thờng xuyên tác động qua lại với nhau. Đó là một quy luật trong quá trình vận động phát triển của đời sống văn học và báo chí đợc biểu hiện trớc hết ở việc phản ánh những sự thật sinh động của đời sống. Cũng giống như người viết ký báo chí, tác giả ký văn học phải lăn xả vào cuộc sống đang vận động phát triển, trực tiếp lắng nghe hơi thở của cuộc sống ấy và lựa chọn trình bày những sự thật thông qua vai trò của cái tôi trần thuật. Trong những ngày rung chuyển của cuộc cách mạng Tháng Mười Nga, Giôn Rit - nhà văn, nhà báo Mỹ đã ghi lại những điều mắt thấy tai nghe một cách trung thực và cặn kẽ trong Mời ngày rung chuyển thế giới - một tác phẩm vừa giống như phóng sự ký sự, lại có cả tính chất của nhật ký. Có thể nói trong mấy trăm trang của cuốn sách này đầy ắp những sự việc được tác giả ghi chép cụ thể và chi tiết giống như một cuốn phim. Chính do việc lựa chọn từ những điển hình có thật trong đời sống để xây dựng hình tượng nghệ thuật đã khiến cho các thể ký văn học có quan hệ với báo chí một cách tự nhiên. Nói cách khác, chính quy luật phản ánh về những sự th