Vài nhận xét chung về chương trình “Bài ca đi cùng năm tháng” phát trên Đài tiếng nói Việt Nam

Bước vào thế kỉ 20 - thời đại của thông tin, con người sẽ được tiếp nhận một hệ thống thông tin và những nguồn tin vô cùng phong phú và hiểu biết về mọi lĩnh vực. Và khi nhắc đến Truyền thông đại chúng, chúng ta, ai cũng sẽ liên hệ ngay những tin tức thời sự, chính trị tổng hợp Điều đó chưa đủ, bởi cuộc sống ngoài những thức tin thì chúng ta cũng cần phải có nhu cầu được giải trí. Đó là nhu cầu về âm nhạc. Trong các loại hình báo chí đã và đang xuất hiện, một trong những loại hình có tổ chức chương trình về âm nhạc công phu nhất, đem lại nhiều thông tin về âm nhac nhất và cập nhật nhất thì không thể không kể đến Đài Tiếng nói Việt Nam (ĐTNVN). Trong cuộc sống, chúng ta trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ. Người nghe hiểu được ý nghĩ của người nói nhờ nội dung của từ ngữ được sắp xếp theo một quy tắc (ngữ pháp, cú pháp). Nhưng ngoài nội dung của từ ngữ- ngữ nghĩa, chúng ta còn nhận được nội dung khác nữa qua giọng điệu của lời nói - ngữ điệu và cả sắc thái tình cảm nữa. Qua mỗi câu nói, người nghe sẽ nhận được cùng một lúc hai dòng thông tin: một nội dung qua ngữ nghĩa và một nội dung khác, qua ngữ điệu và sắc thái tình cảm với muôn vàn cung bậc của nó va thường được tiếp nhận bằng trái tim. Nói rõ hơn là sự rung cảm của người nghe. Những điều trên người viết muốn nói thay cho ngọn nguồn của âm nhạc, về ngữ điệu. Âm nhạc đang dần trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu với cuộc sống con người. Ở Việt Nam nói riêng, hiện nhạc trẻ đang được rất thịnh hành. Tuy nhiên, không phải là tất cả, vẫn còn các loại hình nhạc như: nhạc vàng, nhạc đỏ cũng đang được ưa chuộng. Trong đó phải nhắc đến những bài hát, những bài ca đi cùng năm tháng. Đây cũng là tên của một chương trình ca nhac được phát sóng hàng ngày trên ĐTNVN. Từ khi ra đời, cho đến nay chương trình vẫn đứng vững với sự nhiệt tình, hưởng ứng nồng nhiệt của thính giả. Chương trình không đơn thuần đem lại sự giải trí cho công chúng mà nó còn khơi dậy lại cho thế hệ trẻ lí tuởng và tinh thần yêu nước. Đồng thời mang lại những phút thư giãn cho tuổi già và nhớ lại những kỉ niệm xưa - một thời “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”.

doc23 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1439 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vài nhận xét chung về chương trình “Bài ca đi cùng năm tháng” phát trên Đài tiếng nói Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài Bước vào thế kỉ 20 - thời đại của thông tin, con người sẽ được tiếp nhận một hệ thống thông tin và những nguồn tin vô cùng phong phú và hiểu biết về mọi lĩnh vực. Và khi nhắc đến Truyền thông đại chúng, chúng ta, ai cũng sẽ liên hệ ngay những tin tức thời sự, chính trị tổng hợp…Điều đó chưa đủ, bởi cuộc sống ngoài những thức tin thì chúng ta cũng cần phải có nhu cầu được giải trí. Đó là nhu cầu về âm nhạc. Trong các loại hình báo chí đã và đang xuất hiện, một trong những loại hình có tổ chức chương trình về âm nhạc công phu nhất, đem lại nhiều thông tin về âm nhac nhất và cập nhật nhất thì không thể không kể đến Đài Tiếng nói Việt Nam (ĐTNVN). Trong cuộc sống, chúng ta trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ. Người nghe hiểu được ý nghĩ của người nói nhờ nội dung của từ ngữ được sắp xếp theo một quy tắc (ngữ pháp, cú pháp). Nhưng ngoài nội dung của từ ngữ- ngữ nghĩa, chúng ta còn nhận được nội dung khác nữa qua giọng điệu của lời nói - ngữ điệu và cả sắc thái tình cảm nữa. Qua mỗi câu nói, người nghe sẽ nhận được cùng một lúc hai dòng thông tin: một nội dung qua ngữ nghĩa và một nội dung khác, qua ngữ điệu và sắc thái tình cảm với muôn vàn cung bậc của nó va thường được tiếp nhận bằng trái tim. Nói rõ hơn là sự rung cảm của người nghe. Những điều trên người viết muốn nói thay cho ngọn nguồn của âm nhạc, về ngữ điệu. Âm nhạc đang dần trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu với cuộc sống con người. Ở Việt Nam nói riêng, hiện nhạc trẻ đang được rất thịnh hành. Tuy nhiên, không phải là tất cả, vẫn còn các loại hình nhạc như: nhạc vàng, nhạc đỏ… cũng đang được ưa chuộng. Trong đó phải nhắc đến những bài hát, những bài ca đi cùng năm tháng. Đây cũng là tên của một chương trình ca nhac được phát sóng hàng ngày trên ĐTNVN. Từ khi ra đời, cho đến nay chương trình vẫn đứng vững với sự nhiệt tình, hưởng ứng nồng nhiệt của thính giả. Chương trình không đơn thuần đem lại sự giải trí cho công chúng mà nó còn khơi dậy lại cho thế hệ trẻ lí tuởng và tinh thần yêu nước. Đồng thời mang lại những phút thư giãn cho tuổi già và nhớ lại những kỉ niệm xưa - một thời “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Với những lý do và những điều đáng nói trên, tác giả đã chọn đề tài nhận xét chương trình “ Bài ca đi cùng năm tháng” được phát sóng hàng ngày ngày trên ĐTNVN. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài Trong lĩnh vực truyền thông đại chúng nói chung và lĩnh vực âm nhạc nói riêng có rất nhiều vấn đề mà các nhà nghiên cứu, chúng ta cần phải bàn đến. Tuy nhiên, trong phạm vi của một bài tiểu luận, người viết xin đề cập đến một đè tài nhỏ, đó là “Chương trình “ bài ca đi cùng năm tháng” được phát sóng 5h20 hàng ngày trên VOV3 của ĐTNVN. 3. Phương pháp luận Tác giả của bài tiểu luận nghiên cứu chương trình chủ yếu là nghe chương trình trên Đài và tổng hợp, phân tích, đánh giá nội dung cũng như chất lượng của chương trình. Ý nghĩa lý luận và khoa học Tiểu luận có thể đóng góp một phần để xây dựng chương trình ngày một tốt hơn và hiệu quả hơn. Đồng thời từ một số ý kiến của tiểu luận có thể là những cái mới mà người làm chương trình và công chúng cần quan tâm và hiểu. 5. Nội dung chính Chương I: Lý luận về âm nhạc trên sóng phát thanh. 1.1.Tính hiện thực của âm nhạc 1.2.Ngôn ngữ âm nhạc 1.3.Vai trò và vị trí của âm nhạc trên phát song 1.4.Các dạng thức âm nhạc trên phát thanh. 1.5.Tiểu kết chương I Chương II: Vài nhận xét chung về chương trình “Bài ca đi cùng năm tháng” phát trên ĐTNVN. 2.1.Nội dung 2.2.Hình thức 2.3. Những kiến nghị, đề xuất 2.4. Tiểu kết chương II. Do kiến thức về Báo phát thanh nói chung và chương trình “Bài ca đi cùng năm tháng” nói riêng còn hạn chế, mặt khác đây cũng là đề tài tương đối mới mẻ nên người viết mong nhận được sự đóng góp ý kiến và bổ sung để cho tiểu luận được hoàn chỉnh. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn các thầy Giảng dạy bộ môn phát thanh thuộc khoa Báo chí trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc Gia HN đã truyền đạt cho em những kiến thức về báo phát thanh. Đặc biệt em xin chân thành gửi lời cảm ơn tới Thầy giáo hướng dẫn, người dạy bộ môn phát thanh và là người hướng dẫn em trong bài tiểu luận. Em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô! B. PHẦN NỘI DUNG Chương I: Lý luận về âm nhạc trên sóng phát thanh Những ưu thế và lợi ích của báo phát thanh. Báo phát thanh là một loại hình báo chí sử dụng kỹ thuật sóng điện từ và hệ thống truyền thanh truyền đi âm thanh trực tiếp tác động vào thính giả của đối tượng tiếp nhận; là sản phẩm của nền kỹ thuật điện tử, phát thanh đã từng là loại hình báo chí độc tôn trong thời gian dài. Sự sinh động kỳ diệu của âm nhạc, tiếng động, lời nói được truyền qua làn sóng radio đã từng được thính giả đón nhận một cách nồng nhiệt...Gần một thế kỷ qua, radio đã đóng vai trò là người đồng hành hữu ích trong cuộc sống của chúng ta. Nó giúp cho con người giữ được mối liên hệ quan trọng đối với thế giới bên ngoài. Từ ngữ với sự hỗ trợ của âm thanh, có thể gợi lên vô số các loại hình ảnh vật chất, có thể vượt qua những không gian rộng lớn trong nháy mắt. Những quang cảnh và hình ảnh có thể được xây dựng ngay tức thì, những tính cách nhân vật có thể được hình dung rõ ràng qua phát thanh.VD: Tiếng bão tố gầm rít, núi lửa phun trào, hàng ngàn người đang vui vẻ trong một lễ hội, biển nổi sóng dữ dội,... Là loại hình truyền thông độc đáo, hấp dẫn có khả năng thu hút và tạo thiện cảm đối với đông đảo công chúng, báo phát thanh có tầm quan trọng rất lớn trong công tác tuyên truyền cổ động, nhất là trong các lĩnh vực nhạy cảm như: y tế, giáo dục, dân số,.. Với hệ thống máy móc, thiết bị đơn giản, tiện lợi và rẻ tiền, phát thanh giúp cho thính giả dẽ dàng tiếp nhận thông tin dù họ đang ở đâu và làm gì. Đối tượng của phát thanh là quảng đại quần chúng nhân dân lao động. Phát thanh còn là người bạn tri ân của những người khiếm thị. Thông tin phát thanh, không phân biệt độ tuổi, giới tinh, nghề nghiệp,...Chiếc radio nhỏ có thể theo ngư dân ra khơi, theo người nông dân ra đồng, lên nương rẫy, theo các cụ già đi bách bộ hay theo các chuyến xe trong những cuộc hành trình. có thể nói báo phát thanh đã phân bổ thông tin lên sóng cho mọi tầng lớp nhân dân một cách xa xỉ và hào phóng...Trong những hoàn cảnh đặc biệt như chiến tranh, bão lụt hay ở những vùng rứng núi, hải đảo xa xôi, phát thanh là loại hình báo chí chiếm ưu thế tuyệt đối so với bát kỳ loại hình báo chí nào khác. Mặc dù là loại hình báo chí chỉ có phương tiện âm thanh để diễn đạt nhưng phương thức tác động bằng radio có nhiều ưu thế nhất là nhữngkhả năng như: thông tin nhanh, phủ sóng rộng, tiếp nhận tiện lợi và có khả năng kích thích mạnh mẽ trí tưởng tượng của người nghe. So với báo in, phát thanh có thế mạnh của sự nhanh nhạy, linh hoạt và phương thức thông tin sinh động bằng lời nói; còn so với truyền hình phát thanh vẫn là loại hình báo chí chiếm ưu thế trong việc đưa tin tức nhanh nhất, kịp thời nhất giúp thính giả tiếp cận sớm nhất đối với các sự kiện, sự việc xảy ra hàng ngày, hàng giờ trong cuộc sống xung quanh. Với khả năng truyền đạt ngay tức khắc những sự kiện, sự việc đang xảy ra, cho đến nay, báo phát thanh vẫn luôn giữ vai trò là loại hình báo chí có khả năng thông tin nhanh và nhạy bén nhất. Người ta đã đưa ra một sự so sánh đầy hình ảnh: Khi một sự kiện xảy ra, phát thanh đưa tin, truyền hình diễn tả, báo in phân tích, giảng giải...Điều đó còn cho thấy nhanh chóng, tức thời là một yếu tố quan trọng có thể giúp cho phát thanh cạnh tranh với các loại hình báo chí khác trong bối cảnh đời sống báo chí hiện đại, sôi động, đa dạng và phong phú như hiện nay. Truyền thông radio là một phương thức truyền thông đặc biệt, vì nó có phương thức và con đường tác động riêng, trong đó từ ngữ với phương thức biểu hiện bằng lời nói là phương tiện chuyển tải ý nghĩa và tình cảm, gắn liền với tiếng động minh hoạ và âm nhạc. Bản chất của quá trình truyền thông radio là một sự tương tác đểđi đến sự hiểu biết, là chuyển tải ý tưởng, tình cảm bằng cách sử dụng hệ thống các ký hiệu âm thanh phong phú. Đây là một quá trình liên tục mà qua đó chúng ta hiểu được người khác và ngược lại. Sơ đồ của quá trình truyền thông radio: Nguồn - Thông điệp - Kênh sóng - Tiếp nhận-Phản hồi Với quy trình truyền thông của báo phát thanh đã mô tả rõ những ưu thế của loại hình truyền thông này: 1- Đối tượng tác động rộng rãi,người nghe không cần biết chữ chỉ cần cókhả năng nghe và hiểu được ngôn ngữ lời nói được chuyển tải trên sóng phát thanh. 2- Thông điệp trên sóng phát thanh có thể len lỏi vào mọi tầng lớp, cư dân khắp mọi nơi. Đặc biệt đối với những dân tộc ít người, chỉ có tiếng nói mà chưa có vần tự. Do đó, báo phát thanh có thể cứu sống nuôi dưỡng hàng ngàn ngôn ngữ không có kí tự trên thế giới đang có nguy cơ diệt vong. 3- Do chuyển tải thông điệp từ sóng điện từ, cho nên báo phát thanh có tính tức thì và tính toả khắp. Tức là ngay lập tức, thông điệp có thể tác động đến hàng triệu người trên khắp hành tinh, vượt qua mọi biên giới quốc gia, lãnh thổ, vượt qua mọi cản trở hàng rào thuế vụ, hải quan, biên phòng,..đó là ưu thế lý tưởng của báo phát thanh. 4- Cơ chế tác động linh hoạt, khả năng tiếp nhận thông tin mọi nơi, mọi lúc, tiện lợi cho người nghe. Đặc biệt cho nhóm công chúng là phụ nữ và các vùng dân cư nghèo vùng sâu, vùng xa. Báo phát thanh không chỉ tác động nhanh chóng, tức thì, toả khắp mà còn tiện lợi cho mọi đối tượng. 5- Chưa có một loại hình báo chí nào rẻ tiền như báo phát thanh. Điều này đặc biệt có lợi cho các nước nghèo và các nhóm dân cư nghèo. 6- Là kênh thông tin sinh động, hấp dẫn cho mọi đối tượng, mọi lứa tuổi, mọi vùng miền nhờ việc sử dụng thế giới âm thanh, báo phát thanh có thể tạo dựng lên bức tranh sống động về cuộc sống hôm nay cả về diện mạo và chiều sâu trong kí ức con người, kích thích mạnh mẽ trí tưởng tượng của người nghe. 1.2..Tính hiện thực của âm nhạc 1.2.1. Âm nhạc phản ánh hiện thực bằng phương thức trữ tình Tình cảm là một mặt đời sống tinh thần của con người, một hiện tượng đã và đang tồn tại trong cuộc sống xã hội. Và giá như âm nhạc chỉ phản ánh tình cảm của con gnười xã hội thì cũng phản ánh hiện thực, cũng mang tính hiện thực ấy.Tính hiện thực của âm nhạc không dừng lại với một số nỗi niềm của con người như vui, buồn, giạn, yêu, ghét, thương… Tình cảm nào cũng nảy lên từ một cảnh, không có cảnh thì không có tình cảm và ngược lại. Hoàn cảnh là điều kiện, là tiền đề của tình cảm. Và tình cảm chính là sự phản ánhvà phản ứng của một tâm hồn con người trước hoàn cảnh. Biểu hiện thật trung thực một dạng tình cảm, tác phẩm âm nhạc cũng sẽ phản ánh được hoàn cảnh nảy sinh tình cảm ấy. Như vậy, bằng phương thức trữ tình, âm nhạc vẫn phản ánh được hiện thực, tác phẩm âm nhạc vẫn là một “bức tranh cuộc sống” của con người, âm nhạc vẫn mang tính hiện thực như những loại hình nghệ thuật khác. 1.2.2. Hiện thực không phải là sự thực Có một quan điểm dễ làm vướng víu khi ta tìm hiểu về tính hiện thực trong âm nhạc: hiện thực là hiện lên sự thực, là phải giống như thật, có nghĩa là nếu những gì mà mắt thấy tai nghe trong cuộc sống thì ta cũng phải thấy lại được, nghe được trong tác phẩm. Có như vậy, tác phẩm mới mang tính hiện thực. Hiện thực cần được hiểu là bao gồm cả hiện tượng vật chất và và những hiện tượng ttinh thần (ý nghĩa, tình cảm, tư tưởng, ước mơ…) và thế giới tinh thần này lại là đối tượng đặc biệt quan trọng của nghệ thuật. Tác phẩm nghệ thuật nào cũng nhằm biểu hiện cho đựoc thế giưới tinh thần này qua đời sống nội tâm phong phú của con người. Thế giưói tinh thần của con người chính là hiện thực nhận thức. 1.2.3. Đặc trưng phản ánh hiện thực của âm nhạc. Mỗi loại hình nghệ thuật có cách khác nhau để biẻu hiện thế giưói tinh thần. Có loại hình phản ánh thế giưới nội tâm của con người bằng cáhc tái hiện lại hìnha nhr hiện thực như nó vốn có - gần như thật và có thể làm ta tưởng đó là thật một trăm phần trăm: hội hoạ, sân khấu, điện ảnh, hoạt cảnh…Nhưng cũng có loại hình không phản ánh ( miêu tả, tường thuật, trình bày…) đối tượng vào trong tác phẩm mà lại nói thẳng cái thế giới tinh thần đó, nghĩa là nghệ sĩ biểu diễn trực tiếp những rung động, cảm xúc, suy nghĩ, đánh giá…của mình vào trong tác phẩm mà âm nhạc là một ví dụ cụ thể. Trong các loại hình nghệ thuật thứ nhất (đã nêu trên) đối tượng được phản ánh trực tiếp vàp trong tác phẩm. Trong các loại hình nghệ thuật thứ hai, đối tượng không được phản ánh trực tiếp mà là gián tiếp, trong tác phẩm thuộc loại này, có quan hệ giữa chủ thể sang tạo - chủ thể thẩm mỹ- đối tượng phản ánh - khách thẩm mỹ, được biểu hiện trực tiếp vào trong tác phẩm nghệ thuật. Bức tranh sống mà âm nhạc vẽ lên là bức tranh về tình cảm con người, về mối quan hệ tinh thần của con người với thế giới hiện thực khách quan và rộng hơn là không khí tinh thần của một thời đại. Vậy, tính hiện thực trong âm nhạc cần được hiểu như là sự gợi mở về một thái độ cảm nhận hiện thưc cho người nghe và sự cảm nhận đó của người nghe sẽ vừa là cơ sở, vừa là giới hạn của bức tranh cuộc sống trong âm nhạc. 1.3.Ngôn ngữ âm nhạc 1.3.1.Ngôn ngữ nghệ thuật. Tác phẩm nghệ thuật nào cũng phải nhờ những yếu tố vật chất để tác động vào giác quan của người thưởng thức. Như vậy, mỗi loại hình nghệ thuật đều dựa vào những vật liệu riêng của nó, những phương tiện vật chất đặc thù để xây dựng nên hình tượng trong tác phẩm. Âm nhạc phải dựa vào âm thanh. Chỉ với chất liệu, vẫn chưa đủ để xây dựng thành tác phẩm nghệ thuật. Người nghệ sĩ phải sắp xếp, nhào nặn, chỉnh lí theo một cách thức nhất định. Cách thức mà người nghệ sĩ dùng để điều khiển chất liệu đó là phương tiện diễn tả nghệ thuật. Mỗ loại hình nghệ thuật có một hệ thống những phương tiện diễn tả của nó. Chất liệu đặc thù cùng với phuơng tiện diễn tả riêng tạo thành ngôn ngữ nghệ thuật. 1.3.2. Ngôn ngữ âm nhạc: âm và thanh Ngôn ngữ âm nhạc là ngôn ngữ âm thanh. Âm nhạc sử dụng âm thanh như một thứ ngôn ngữ để diễn đạt, thông tin một nội dung nhất định. Nhưng cần phân biệt âm thanh trong ngôn ngữ âm nhạc và âm thanh trong cuộc sống tự nhiên và xã hội. Âm thông qua tai nghe và được thẩm định về cao thấp, về ngắn dài, mạnh yêu, về màu sắc…mới trở thành thanh. Âm và thanh giống nhau ở chỗ hình thành trong thời gian, có cường độ, có tốc độ. Nhưng khác nhau ở chỗ thanh phải có tần số cố định để có thể so sánh về độ cao, được chọn lọc, sắp xếp theo một quy định nhất định. Có thể nói, thanh và âm đã bước đầu được xác định về độ cao, độ vangvà kể cả màu sắc nữa. Như vậy, thanh chỉ xuất hiện trong mối quan hệ với con người, mang bản chất con người. Từ âm đến thanh, đó là một quá trình con nguời đồng hoá hiện tại, nhằm nắm bắt và nhận thức thực tại. Thanh mới thực sự là chất liệu chủ yếu để nhạc sĩ xây dựng nên tác phẩm âm nhạc. 1.3.3.Những thành tố chue yếu trong ngôn ngữ âm nhạc. a. Giai điệu. Giai điệu là tổ chức về độ cao, độ dài giữa âm thanh nối tiếp nhau thành một bè. Cách tổ chức đó phải theo một quy luật về cấu trúc về độ cao và cả độ dài của nó, và phải có tác dụng gợi lên trong trí óc người nghe một bức tranh với những đường nét chính về cuộc sống. Có thể gọi giai điệu là một bản phác thảo của một hình tượng âm nhạc nhất định. b. Tiết tấu. Trong âm nhạc, tạo được giai điệu chưa đủ; phải có cách sắp xếp, tổ chức của giai điệu về mặt thời gian- đó chính là tiết tấu. Nói cách khác, đó là sự tương quan chuyển đổi của các âm thanh nối tiếp nhau. Ý niệm về tiết tấu xuất hiện do cuộc sống xã hội và nhất làtự nhiên đem lại. Tiếng sóng vỗ, tiếng suối chảy, tiếng vó ngựa… đó là cơ sở của ý niệm về tiết tấu. Ý niệm chỉ có thể xuất hiện trên cơ sở ý niệm về thời gian trong nhận thức của con người. Như vậy, tiết tấu cần được hiểu là trật tự và tỷ lệ về thời gian khách quan đã được con người nhận thức và tạo nên những quy ước tương ứng nhất định trong âm nhạc. c. Phức điệu Phức điệu là một cách cấu trúc (phương tiện diễn tả) một tác phẩm âm nhạc gồm nhiều điệu, nhiều giọng, nhiều bè, tức là nhiều giai điệu âm nhạc mà mỗi giai điệu coá một cấu trúc riêng nhằm biểu đạt một nội dung riêng nhưng vẫn nằm trong sự thống nhất của một tác phẩm tồn tại với tích cáhc là môtk chỉnh thể. Nhờ phức điệu, âm nhạc có khả năng nói lên cùng một lúc được nhiều tầng, nhiều ý, nhiều lớp, nhiều xu thế, nhiều chiều hướng trong nội tâm của con người. d. Hoà thanh. Hoà thanh là sự tổ chức có tính quy luật của sự hoà hợp giữa hai âm thanh hay một chồng âm thanh, là cách tiến hành và nối tiếp của chồng âm thanh đó. e. Phối khí. Phối khí là một hệ thống phối hợp nhiều nhạc cụ hoặc cùng loại hoặc khác nhau. Phải làm thế nào để các âm thanh đó không lấn át nhau về âm lượng, về cường độ, đảm bảo được độ dày và không bị trống, không cáhc quãng quá xa nhau và tôn nhau lênn trong những net nhạc cần thiết. phải nắm cho được cái sở truờng, kỹ xảo và âm sắc riêng biệt của từng nhạc cụ, bảo đảm được hiệu quả cao nhất cho tác phẩm âm nhạc. g. Ca từ Toàn bộ phần ngôn ngữ trong âm nhạc bao gồm từ tên tác phẩm, tiêu đề cho đến lời ca, thơ viết để phổ nhạc, kịch bản cho nhạc cảnh, nhạc kịch…gộp chung gọi là ca từ. Như vậy, ca từ là một phương tiện diễn tả của âm nhạc nói chung và loại nhạc nói riêng. Dù có vai trò dẫn dắt, gợi mở, ca từ vẫn chỉ là một bộ phận nằm trong cái tổng thể của một tác phẩm, chịu sự chi phối có tính chất quyết định của quy luật âm nhạc. 1.4. Vai trò và vị trí của âm nhạc trên sóng phát thanh 1.4.1.Không gian: Không gian âm nhạc trên sóng phát thanh có vai trò hết sức quan trọng bởi địa bàn và cũng là đối tượng người nghe của nó là từ thành thị đến nông thôn, từ vùng núi đến hải đảo xa xôi… trên phạm vi cả nước. Đó là chưa nói đến công chúng người nghe là kiều bào ở nước ngoài và còn cả những người mến mộ nền âm nhạc Việt Nam trên cả trái đất này. 1.4.2. Về thời gian, Âm nhạc trên sóng phát thanh lại có một sự tác động khá đặc biệt: 24/24giờ/ ngày. Hơn nữa, mỗi người trong mỗi ngày, còn có những “giây phút âm nhạc” khác nhau - khoảng thời gian mà mỗi người trở về với chính mình để suy tư, ngẫm nghĩ, lúc này là lúc âm nhạc phát huy tác dụng như những lời tâm tình, tâm sự thủ thỉ và những lời gợi mở nhiều điều. 1.4.3. Nó đưa đến cho thính giả một lượng thông tin âm nhạc khá phong phú và đa dạng, thông qua những tác phẩm khí nhạc cũng như thanh nhạc, trên cơ sở đó, giúp người nghe tạo được đời sống tinh thần lành mạnh, từ đó tạo nên những hưng phấn trong công việc đời thường của mình. 1.4.4. Với công chúng, Ngay trong tổng thể một chương trình phát thanh, âm nhạc trên song còn là tín hiệu: nhạc hiệu để phân biệt giữa các đài phát thanh thậm chí có lúc, là chỗ dựa để hiệu chỉnh giờ giấc, nhạc điệu của từng chương trình phát thanh. 1.4.5.Nhìn chung, âm nhạc ở đây giữ vai trò điều chỉnh, lúc thì tách rời, lúc liên kết khi thì dẫn dắt làm cho chương trình phát thanh trở nên hài hoà, kết dính với nhau trong tổng thể liên hoàn. 1.4.6. Do địa bàn phủ sosng rộng lớn nên công chúng của âm nhạc trên sóng phát thanh đông đảo hơn so với truyền hình. Chỉ bằng chiếc máy thu thanh nhỏ, lên nương rãy, ra đồng ruộng hay khi đi làm những công việc thủ công… thính giả có thể cộng hưởng tâm hồn theo giai điệu mà họ yêu thích. Với nhiều chương trình, âm nhạc trên song phát thanh đáp ứng đầy đủ nhu cầu của từng lứa tuổi, tầng lớp như: ca nhạc thiếu nhi, mẫu giáo, nhạc dân tộc, nhạc dân ca… Thực tế cho thấy, công chúng vẫn yêu thích ca nhạc trên song phát thanh. Bằng nghệ thuật và vượt ra khỏi giới hạn của nghệ thuật, những tác phẩm âm nhạc trên song phát thanh đã đem đến cho người nghe một hình tượng âm nhạc vừa dung dị, giản dị vừa gần gũi với cuộc sống hiện tại. Nói rõ hơn, tính thời sự của các chương trình ca nhạc trên sóng phát thanh đã có tác dụng tốt về nhiều mặt. Chẳng hạn có nhiều chương trình phát thanh theo yêu cầu khán giả, đối với những người đã trải qua hai cuộc kháng chiến - qua các bài hát ghi đậm dấu ấn lịch sử, bằng sự thể hiện của các ca sĩ có tên tuổi, họ như được sống lại những ngày tháng hào hùng của dân tộc. Hoặc các bài hát về các miền quê