Vai trò của hoạt động thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt

Về mặt hạn chế thì thuế TTĐB nổi lên vấn đề chủ yếu là từ việc áp dụng hệ thống thuế suất cao của Thuế TTĐB có nguy cơ tiềm ẩn hành vi trốn lậu thuế thông qua hoạt động chuyển giá.Trong đó, chuyển giá là hành vi do các cơ sở kinh doanh thực hiện nhằm thay đổi giá hàng hóa, dịch vụ trong các giao dịch mua bán giữa các cơ sở kinh doanh có mối quan hệ đặc biệt với mục đích giảm thiểu tới mức có thể nghĩa vụ thuế của các bên trong giao dịch đối với nhà nước. Việc tìm hiểu rõ sự hạn chế này của thuế TTĐB sẽ giúp nhà nước ngăn chặn hành vi trái pháp luật trên thực tế, góp phần hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật.

docx15 trang | Chia sẻ: lamvu291 | Lượt xem: 1660 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của hoạt động thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A, ĐẶT VẤN ĐỀ Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) là loại thuế được đưa vào áp dụng ở nước ta từ năm 1990. Trải qua hơn hai mươi năm thi hành, thuế TTĐB đã có nhiều đóng góp cho nên kinh tế-xã hội, mà trước hết là đối với nguồn NSNN. Hiện nay, pháp luật đã quy định khá đầy đủ các vấn đề xoay quanh loại thuế này. Và việc thực thi pháp luật thuế hiện nay chịu ảnh hưởng từ rất nhiều các yếu tố, việc tìm hiểu các yếu tố ấy góp phần cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật đồng thời cũng làm cho quá trình thực thi pháp luật thuế được hiểu quả hơn. Xuất phát từ vấn đề trên, tại bài viết này, em xin trình bày nội dung là Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt; Ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế.Bài làm của em cụ thể như sau: B, GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I, KHÁI QUÁT VỀ THUẾ TIÊU THỤ ĐẶC BIỆT Trước khi tìm hiểu về các yếu tố ảnh hưởng đến thực thi pháp luật thuế TTĐB chúng ta sẽ tìm hiểu một số vấn đề lí luận về lọai thuế này. 1) Khái niệm thuế tiêu thụ đặc biệt. 1.1, Định nghĩa Mặc dù Luật thuế TTĐB không quy định cụ thể khái niệm nhưng xét dưới các góc độ nghiên cứu cả về lí luận và thực tiễn chúng ta có thể hiêu khái niệm về loại thuế này như sau: Thuế tiêu thụ đặc biệt đánh vào một số loại hàng hóa dịch vụ đặc biệt, cần điều tiết mạnh nhằm hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng đồng thời làm tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước Trường Đại học Luật Hà nội, giáo trình Luật thuế Việt Nam, Tr.105, Nxb.CAND, Hà nội, năm 2010 . 1.2, Đặc điểm thuế tiêu thụ đặc biệt. Ngoài các đặc điểm chung như các loại thuế khác như không mang tính đối giá, phải nộp vào NSNN và gắn liền với yếu tố quyền lực thì thuế TTĐB còn có những đặc điểm riêng, đó là: Thứ nhất, thuế TTĐB có diện đánh thuế hẹp, nó chỉ tập trung điều tiết một số mặt hàng và dịch vụ nhất định không được nhà nước cho khuyến khích tiêu dùng. Thứ hai, thuế suất thuế TTĐB có thể là thuế suất cố định cũng có thể là thuế suất tỉ lệ và thường cao hơn so với thuế suất của các loại thuế gián thu khác. Thứ ba, thuế TTĐB chỉ được thu một lần ở khâu sản xuất hoặc nhập khẩu. 1.3, Vai trò của thuế tiêu thụ đặc biệt Là một loại thuế gián thu đặc biệt, thuế TTĐB có các vai trò sau: Thứ nhất, Thuế TTĐB là một trong những công cụ giúp Nhà nước thực hiện chính sách quản lí đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh và nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ, góp phần thúc đẩy sản xuất, kinh doanh đối với một số hàng hóa và dịch vụ. Thứ hai, thuế TTĐB còn là công cụ kinh tế để nhà nước điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư có thu nhập cao, hướng dẫn tiêu dùng hợp lí. Thứ ba, thuế TTĐB là công cụ quan trọng được sử dụng nhằm ổn định và tăng cường nguồn thu cho NSNN. 1.4, Hạn chế của thuế TTĐB. Về mặt hạn chế thì thuế TTĐB nổi lên vấn đề chủ yếu là từ việc áp dụng hệ thống thuế suất cao của Thuế TTĐB có nguy cơ tiềm ẩn hành vi trốn lậu thuế thông qua hoạt động chuyển giá..Trong đó, chuyển giá là hành vi do các cơ sở kinh doanh thực hiện nhằm thay đổi giá hàng hóa, dịch vụ trong các giao dịch mua bán giữa các cơ sở kinh doanh có mối quan hệ đặc biệt với mục đích giảm thiểu tới mức có thể nghĩa vụ thuế của các bên trong giao dịch đối với nhà nước. Việc tìm hiểu rõ sự hạn chế này của thuế TTĐB sẽ giúp nhà nước ngăn chặn hành vi trái pháp luật trên thực tế, góp phần hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật. 2, Pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt. Có thể hiểu rằng, Pháp luật thuể TTĐB là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thu, nộp thuế TTĐB giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và người nộp thuế TTĐB nhằm hình thành nguồn thu NSNN để thực hiện các mục tiêu xác định trước Trường Đại học Luật hà nội, giáo trình luật thuế việt nam, Nxb. CAND, năm 2010 . 2.1, Khái niệm thực thi pháp luật thuế tiêu thục đặc biệt Thực thi pháp luật là một khái niệm có nội hàm khá rộng, tùy từng trường hợp mà nó có thể bao hàm các hoạt động như thực hiện, áp dụng, giải thích và thi hành pháp luật của các cơ quan nói riêng và của mọi người trong xã hội nói chung. Thực thi thuế tiêu thụ đặc biệt cũng vậy, xuất phát từ các căn cứ trên, chúng ta có thể hiểu rằng thực thi pháp luật thuế tiêu thục đặc biệt là nhóm các hoạt động liên quan đến việc thu thuế TTĐB , đóng thuế, kê khai thuế, tính thuế TTĐB và các hoạt động khác có liên quan được tiến hành bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các chủ thể nộp thuế và những tổ chức, cá nhân khác có liên quan. 2.2, Vai trò của hoạt động thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt. Việc thực thi pháp luật thuế TTĐB có vai trò trên nhiều mặt khác nhau, cụ thể như: Thứ nhất, đối với các quy định của pháp luật, thì việc thực thi giúp cho các quy định của pháp luật về thuế TTĐB được thực thi trên thực tế, thể hiện vai trò của nhà nước trong quan hệ pháp luật này. Thứ hai, việc thực thi pháp luật thuế TTĐB giúp cho nền kinh tế- xã hội được ổn định, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật nói chung và vi phạm pháp luật thuế TTĐB nói riêng. Thứ ba, về phía các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất, kinh doanh thì việc thực thi pháp luật ấy còn tạo điều kiện cho các đối tượng này tham gia vào quan hệ pháp luật thuế TTĐB, hơn nữa, nó còn hiện thực hóa quyền lợi cũng như nghĩa vụ của các đối tượng này trên thực tế. II, Các yếu tố ảnh hưởng tới việc thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt. Đây là một vấn đề vừa mang tính lí luận vừa mang tính thực tiến khá sâu sắc. Các yếu tố ảnh hưởng đên việc thực thi pháp luật thuế TTĐB bao gồm nhiều yếu tố khác nhau được thể hiện qua nhiều mặt. Cụ thể đó là: 1, Các quy định của Pháp luật 1.1, Các quy định của các ngành luật khác. Như chúng ta đã biết, hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa của Việt Nam là một thể thống nhất. Do vậy, giữa các ngành luật đều có những ảnh ảnh lẫn nhau. Đối với pháp luật nói chung và pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt nói riêng cũng vậy. Có thể nói, giữa chúng có mối quan hệ lẫn nhau. Chẳng hạn như Luật Hành chính, Luật Hình sự hay Luật Dân sự có ảnh hưởng đến Luật thuế tiêu thụ đặc biệt. Ví dụ như một Nghị định của luật hành chính về giao thông ban ra có ảnh hưởng đến việc sử dụng các phương tiện giao thông, trong đó có Ôtô, nghĩa là, văn bản hành chính ấy có thể thúc đẩy hay kìm hãm nhu cầu sử dụng ô tô trong nội địa nước ta, mà việc mua ô tô từ nước ngoài chịu ảnh hưởng sâu sắc từ thuế tiêu thụ đặc biệt. Hay ví dụ như Bộ luật hình sự có quy định về tội trốn thuế, thì ta thấy rằng việc quy định ấy sẽ phần nào ngăn ngừa tình trạng trốn thuế nói chung và trốn thuế TTĐB nói riêng… Như vậy, các quy định của ngành luật khác phần nào trực tiếp hay gián tiếp ảnh hưởng đến việc thực thi quy định của pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt. 1.2, Các quy định của pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt. 1.2.1, Về đối tượng chịu thuế: Đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là các loại hàng hóa và dịch vụ được pháp luật quy định tại Danh mục hàng hóa trong Luật thuế tiêu thụ đặc biệt. Vậy tại sao đối tượng chịu thuế TTĐB lại ảnh hưởng đến quá trình thực thi pháp luật của loại thuế này. Bởi lẽ, chỉ khi nào pháp luật thuế TTĐB quy định phù hợp các loại hàng hóa hay dịch vụ chịu thuế một cách đầy đủ và hợp lí thì mới góp phần tạo điều kiện tốt cho việc thực thi pháp luật. Thực tế cho thấy, luật thuế TTĐB năm 2005 chỉ đánh vào 8 nhóm hàng hóa và 5 nhóm dịch vụ. Con số này nếu so sánh với các quốc gia khác thì khá khiêm tốn vàcó vẻ đơn giản hơn. Trong quá trình thực thi, tổng kết của chính phủ việc thực hiện luật thuế tiêu thụ đặc biệt 2005 cho thấy đã tồn tại nhiều bất cập dẫn đến việc khó thực thi và bỏ sót nhiều mặt hàng. Ví dụ: Tàu bay, du thuyền vì giá trị của nó lớn hơn ô tô mà lại không bị đánh thuế gây tâm lý ức chế cho những người mua ô tô, khiến cho qúa trình thực thi gặp nhiều khó khăn. Xuất phát từ vấn đề trên nên Luật thuế TTĐB năm 2008 đã bổ sung thêm và hiện hành quy định 10 nhóm hàng hóa và 6 loại dịch vụ chịu thuế. 1.2.2 Thuế suất Thuế suất nói chung được hiểu là mức độ mà dựa trên đó, người nộp thuế phải nộp một khoản tiền nhất định, tính trên một đơn vị đối tượng chịu thuế Trường Đại học Luật Hà nội, giáo trình Luật thuế Việt Nam, Tr.105, Nxb.CAND, Hà nội, năm 2010 . Đối với pháp luật thuế nói chung và pháp luật thuế TTĐB nói riêng ảnh hưởng khá lớn đến việc thực thi pháp luật thuế TTĐB. Cụ thể, nếu thuế suất càng cao thì sẽ gây áp lực, tâm lí, gánh nặng cho người nộp thuế càng lơn; ngược lại, nếu thuế suất càng nhỏ hay xóa bỏ thì sẽ tạo điều kiện cho các chủ thể nộp thuế có cơ hội kinh doanh, tạo sự an tâm, tự giác hay trung thực trong việc đăng kí, kê khai hay nộp thuế. 1.2.3 Phương pháp tính thuế Có thể nói phương pháp tính thuế là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thực thi pháp luật thuế TTĐB. Sự ảnh hưởng của yếu tố này được thể hiện qua nhiều nội dung khác nhau với chủ thể khác nhau. Đối với các cơ quan thu thuế (cơ quan thuế, hải quan, tài chính), nếu việc quy định không cụ thể, rõ rang, khoa khọc phương pháp tính thuế thì sẽ dẫn đến việc tình thuế không thống nhất, việc này sẽ ảnh hưởng đến sự thống nhất của pháp luật, làm thiệt hại về tài chình cho NSNN hay cho “túi tiền” của người nộp thuế. Còn đối với người nộp thuế, nếu quy định về Phuong pháp tính thuế không rõ ràng sẽ gây ra sự hiểu sai, tính nộp và nộp sai, gây mât thời gian cho việc thực hiện nghĩa vụ tài chính này đối với nhà nước. Hiện nay, tại Luật thuế TTĐB năm 2008 và nghị định số 26/2009/NĐ-CP ngày 16 tháng 3 năm 2009 về quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật thuế TTĐB quy định chi tiết việc tính thuế TTĐB đã quy định khá cụ thể và đầy đủ về phuong pháp tính thuế.Có thể xem đây là hành lang pháp lý quan trọng nhất để tiến hành việc thực thi pháp luật thuế TTĐB. Đây cũng là một điểm rất tiến bộ của luật thuế TTĐB 2008. Các cơ quan quyền lực sẽ dựa vào các quy định này để thực thi luật chính xác, tránh việc bỏ sót các trường hợp hoặc việc không tuân thủ của các doanh nghiệp và người tiêu dùng vì lý do không quy định cụ thể nên có cách áp dụng khác nhau. 1.2.4 Chế độ hoàn thuế, giảm thuế, khấu trừ thuếTTĐB Hoàn thuế là việc trả lại cho người nộp thuế một phần hay toàn bộ số thuế mà người nộp thuế đã nộp vào NSNN. Khấu trừ thuế TTĐB chỉ áp dụng trong trường hợp người nộp thuế sản xuất hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế TTĐNvà chỉ khi người nộp thuế có chứng từ hợp pháp. Miễn giảm thuế TTĐB là một chế định còn nhiều tranh cãi về việc cần hay không cần thiết áp dụng đối với người nộp thuế. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, chế định này vẫn được áp dụng. Ba chế định trên đây tồn tại độc lập nhau nhưng chung đều ảnh hướng đến việc thực thi pháp luật. Nội dung của nó là nếu quy định của pháp luật càng cụ thể, chi tiết thì việc thi hành càng thuân lợi hơn, tạo điều kiện bảo vệ quyền lợi của người nộp thuế và NSNN. Tại sao lại như vậy,bởi lẽ hiện nay các chế định này vẫn còn nhiều tranh cãi, việc áp dụng còn thiếu sự thống nhất, tính hợp pháp từ các giấy tờ của người nộp thuế còn thiếu và chưa thống nhất. 1.2.5 Chế độ hóa đơn chứng từ Hóa đơn, chứng từ mua bán, nhập khẩu hàng hóa, cung ứng dịch vụ là những yếu tố quan trọng không chỉ với đối cơ sở kinh doanh hoạt động kế toán, kiểm toán mà còn đối với cả Nhà nước trong việc xác định đúng, đủ nghĩa vụ thuế của cơ sở kinh doanh đối với Ngân sách nhà nước. Vì vậy, trong việc thực thi thuế TTĐB không thể không kể tới việc giữ gìn hóa đơn, chứng từ. Đây là cơ sở để người nộp thuế báo cáo về việc thực thi pháp luật của mình. Đây cũng là cơ sở để các cơ quan quản lý, quản lý việc tuân theo pháp luật của người có nghĩa vụ nộp thuế và quản lý số thu cho NSNN, tránh sự tùy tiện. 1.3 , Về vấn đề quản lý thuế Hiện nay, pháp luật dành cả một văn bản về quản lí thuế, đó là Luật quản lí thuế năm 2006, có hiệu lực năm 2007. Trong luật quản lí thuế năm 2006, pháp luật đã quy định khá cụ thể về các nội dung quản lí như nguyên tắc, phương pháp, trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan quản lí thuế, khen thưởng, xử phạt, khiếu nại...Như vậy, có thể nói nội dung về quản lí thuế noi chung và thuế TTĐB nói riêng hiện nay quy định đã khá cụ thể và đầy đủ. Vậy vấn đề quản lí thuế nói chung và thuế TTĐB nói riêng có ảnh hưởng như thế nào đền việc thực thi pháp luật thuế TTĐB. Như chúng ta đã biệt, thực thi pháp luật thuế là cả một quá trình bao gồm nhiều giai đoạn với nội dung khác nhau, và tất nhiên, quá trình ấy chỉ hoạt động một cách bài bản, hiệu quả khi có một sự quản lí phù hợp. Như vậy, có thể nói rằng, sự quản lí của nhà nước về thuế có sự ảnh hướng mạnh đến việc thực thi, quản lí tốt thì góp phần thực thi tốt và ngược lại, quản lí kém, thiếu sự khoa học, pháp chế thì sẽ tạo sự thiếu thông nhất, hiệu quatr trong việc thực hiện pháp luật về thuế. 2, Các yếu tố khác 2.1, Kinh tế. Ở nước ta, thuế TTĐB được Quốc hội khoá IX ban hành Luật Thuế TTĐB và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/10/1990 và đã qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong từng thời kỳ. Trong đó những lần sửa đổi quan trọng vào các năm 1998, 2003 và 2005. Năm 2008, Luật thuế TTĐB (sửa đổi) được trình Quốc hội thông qua vào tháng 11/2008, có hiệu lực thi hành kể từ 01/04/2009. Như vậy, nhìn chung khung pháp lý cho thuế tiêu thụ đặc biệt xuất hiện muộn hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Nói chung nền kinh tế Việt Nam phát triển muộn hơn so với nhiều nước. Trước đây khái niệm hàng hóa đặc biệt còn khá xa lạ. Đối với thuế hàng hóa( được xem là tiền thân của thuế TTĐB) được quy định tại Quyết nghị 487- NQ/QHK4 quy định còn mang tính liệt kê, đánh cả vào những mặt hàng thiết yếu do lúc đó kinh tế Việt Nam còn mang tính bao cấp, những kinh doanh ngoài Nhà nước đều không được khuyến khích. Sau khi chuyển sang nền kinh tế thị trường Nhà nước chỉ đánh thuế TTĐB vào những mặt hàng không khuyến khích tiêu dùng nhằm khuyến kích phát triển kinh tế xã hội, bằng cách tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế trong xã hội. Cùng với sự phát triển của kinh tế Việt Nam các mặt hàng bị đánh thuế liên tục được điều chỉnh để phù hợp với tình hình kinh tế mới www.slideshare.net/pnquang/ta-netluat-thue-ttdb-072010 . Các yếu tố kinh tế thay đổi làm cho hành vi thực thi pháp luật thuế TTĐB cúng thay đổi. Khi các yếu tố kinh tế thay đổi sẽ có tác động tới việc thực hiện thuế TTĐB: Ví dụ: có nhiều loại mặt hàng, dịch vụ tương tự những mặt hàng bị đánh thuế TTĐB nhưng pháp luật chưa quy định, nên các doanh nghiệp sẽ trốn thuế bằng cách áp dụng các hàng hóa, dịch vụ mới này.Mặt khác, các mặt hàng được xem là xa xỉ như ô tô dưới 24 chỗ sẽ không phải là đối tượng của thuế TTĐB khi kinh tế tăng lên, đời sống cũng như cơ sở hạ tầng ở Việt Nam ngày càng đươc nâng cao… 2.2, Văn hóa – giáo dục Bất cứ một quốc gia nào trên thế giới đều có pháp luật để đảm bảo trật tự xã hội. Nhưng văn hóa để thực thi pháp luật ở mỗi quốc gia thì không như nhau. Pháp luật nói chung và pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt nói riêng luôn có một hệ thống pháp chế để đảm bảo thi hành, nhưng hoạt động của các cơ quan công quyền nếu không có văn hóa, không tôn trọng pháp luật thì việc thực thi pháp luật chắc chắn không đúng. Bên cạnh đó, nếu các chủ thể quyền lực này đã có văn hóa, ý thưc thực thi đúng pháp luật nhưng các chủ thể có nghĩa vụ không có văn hóa và ý thưc tôn trọng ý thức thực thi thuế sẽ dẫn tới hành vi trốn thuế, để thu được lợi nhuận cao hơn. Hành vi trốn thuế tiêu thụ đặc biệt đồng nghĩa với không thực thi thuế đối với một số mặt hàng nhất định, cơ quan có quyền lực đôi khi không thể tìm ra do nhiều nguyên nhân khác nhau. Văn hóa bắt nguồn từ việc giáo dục, giáo dục ở đây mang ý nghĩa rộng tức là giáo dục ý thức của người dân ở gia đình, nhà trường và cả xã hội. Đối với chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế cần giáo dục họ nghĩa vụ tôn trọng pháp luật và muốn làm được điều đó thì trước hết cần giáo dục nhóm chủ thể mang quyền lực được vai trò của thuế tiêu thụ đặc biệt, giáo dục sự tôn trọng một cách thực sự chứ không phải là nỗi khiếp sợ về các chế tài xử lý. 2.3, Hội nhập quốc tế Trong xu hướng phát triển toàn cầu, Việt Nam đã gia nhập rất nhiếu sân chơi chung của quốc tế. Trong đó, Việt Nam ra nhập WTO( tỏ chức thương mại thế giới). Bên cạnh những lợi ích đạt được như bình đẳng với các nước lớn hơn, được bảo vệ quyền lợi khi bị xâm phạm, việc ra nhập WTO cũng đặt ra đối với Việt Nam những thách thức và khó khăn mới trong việc thực thi pháp luật đang tồn tại. Đặc biệt với thuế tiêu thụ đặc biệt, Việt Nam đã có những hoạt động cụ thể như sau: Để thực hiện các cam kết hội nhập, việc quy định lộ trình từng bước tăng thuế đối với một số mặt hàng như ô tô sản xuất lắp ráp trong nước (2004-2005), thuốc lá, bia hơi (2006-2007) có ý nghĩa quan trọng đối với sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Một mặt, bảo đảm thực hiện nguyên tắc không phân biệt đối xử giữa hàng sản xuất trong nước với hàng nhập khẩu theo đúng các nguyên tắc của WTO. Mặt khác, đã hạn chế những tác động tiêu cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh mặt hàng thuốc lá, bia hơi khi phải thực hiện các cam kết hội nhập, giúp các doanh nghiệp có thời gian phục hồi và ổn định sản xuất, kinh doanh Đối với mặt hàng rượu: Theo cam kết, trong vòng 3 năm kể từ ngày gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới - WTO (tức là từ năm 2010), tại Việt Nam tất cả các loại rượu được chưng cất có nồng độ từ 20 độ cồn trở lên sẽ áp dụng một mức thuế tuyệt đối tính theo lít rượu cồn nguyên chất hoặc một mức thuế phần trăm. Đối với mặt hàng bia: Tương tự như rượu, theo cam kết, trong vòng 3 năm kể từ khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ áp dụng một mức thuế suất phần trăm (%) chung đối với các loại bia, không phân biệt hình thức đóng gói bao bì. Vì vậy, việc thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 2005 không còn phù hợp nữa. Và Việt Nam đã có những điều chỉnh cần thiết để việc thực thi luật thuế tiêu thụ đặc biệt không vấp phải sự phản đối của thế giới bằng cách sửa đổi Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 2008 để phù hợp với hoàn cảnh mới, đảm bảo thực thi diễn ra phù hợp trong sân chơi chung toàn thế giới. 2.4, Các biện pháp tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật. Như chúng ta đã biết, một chủ thể quan trọng, không thể thiếu trong quan hệ pháp luật thuế nói chung và pháp luật về thuế TTĐB nói riêng là người nộp thuế hay rộng hơn có thể tạm gọi là người dân. Hơn nữa, kiến thực pháp luật về thuế của người dân có hạn mà sự hiểu biết pháp luật là yếu tố quan trọng cho mỗi chủ thể khi tham gia vào một quan hệ pháp luật nhất định. Xuất phát từ vấn đề trên, chúng ta thấy rằng việc tuyên truyền, phố biến kiến thức pháp luật có ảnh hưởng quan trọng đến việc thực thi pháp luật thuế TTĐB. Tại sao như vậy, bởi lẽ, chỉ khi nào người nộp thuế có hiểu biết về pháp luật thuế TTĐB thì mới có thể thực hiện tốt nghĩa vụ cũng như quyền lợi của mình trong quan hệ pháp luật thuế TTĐB, khi đã thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của mình thì sẽ góp phần hiện thực hóa một cách hiệu quả các quy định của nhà nước trên thực tế. 2.5, Yếu tố từ tâm lý người dân. Người dân ở đây có thể hiểu là người dân nói chung hoặc người phải nộp thuể và người phải chịu thuế nói riêng. Như chúng ta đã biết, tâm lí là một yếu tố quan trọng để quyết định đến hành vi nói chung và thái độ thực hiện pháp luật nói riêng. Trong trường hợp này, thì tâm lí của các đối tượng sau sẽ ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế TTĐB, đó là: Tâm lý của các cơ quan sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ là đối tượng phải chịu thuế TTĐB: Do loại thuế này có mức thuế suất cao dẫn đến tâm lý 2 tâm lý: thứ nhất muốn trốn tránh để thu được lợi nhuận cao cho doanh nghiệp mình; thứ hai: Muốn giảm bớt thuế suất để giảm giá thành tạo sự cạnh tranh trên thị trường. Từ tâm lý sẽ dẫn tới hành động cụ thể. Nếu hành vi trốn thuế xảy ra doanh nghiệp đó sẽ bị xử lý bằng các biện pháp hành chính hoặc hình sự tùy vào mức vi phạm. Nhà nước cũng nhận thấy ngoài những chế tài xử phạt, muốn pháp thuế TTĐB được thực thi tốt cũng cần có sự tôn trọng thực sự từ phía các cơ quan này chứ không phải riêng chế tài xử phát. Vì vậy khi ban hành luật thuế TTĐB Nhà mước đã tham khảo ý kiến của một số doanh nghiệp sản xuất hàng hóa là đối tượng bị áp dụng th
Tài liệu liên quan