Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên trong thời kỳ đổi mới

Tây Nguyên (bao gồm 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng) có hơn 46 dân tộc anh em sinh sống (ïcó 12 dân tộc bản địa). Đây là địa bàn có vịchiến lược đặc biệt quan trọng vềchính trị, kinh tếvà quốc phòng, an ninh; có tuyến biên giới dài 591 km, trong đó có 150 km tiếp giáp với tỉnh Atôpơ của Lào và 441 km tiếp giáp với hai tỉnh Mônđônkiri, Ratanakiri của Cămpuchia. Quán triệt Nghịquyết 22 của BộChính trị, Quyết định 72 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), Chỉthị525 của Thủtướng Chính phủ, đặc biệt là Nghị quyết 10 của BộChính trịngày 18 tháng 01 năm 2002, sau 20 năm đổi mới, kinh tế - xã hội Tây Nguyên đã có những bước phát triển khá toàn diện và đang chuyển mạnh sang sản xuất hàng hóa. Hệthống chính trịcơsở được kiện toàn, khối đại đoàn kết các dân tộc được giữvững. Các cấp ủy đảng ởTây Nguyên đã tập trung xây dựng cơsởchính trịngày càng vững mạnh, phát huy được vai trò lãnh đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quảcác chương trình kinh tế, xã hội và duy trì tốt các phong trào chính trịxã hội của địa phương. Thếtrận quốc phòng toàn dân vàan ninh nhân dân từng bước được củng cốvà tăng cường, trật tựan toàn xã hội được đảm bảo. Quán triệt những chủtrương, chính sách vềcủng cốvà tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc của Đảng, nhận thức đúng đắn vịtrí và đặc điểm của vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đảng bộcác tỉnh Tây Nguyên đã ban hành nhiều nghịquyết chuyên đềvềcủng cốvà tăng cường xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ởTây Nguyên, công tác vận động đồng bào các dân tộc, củng cốcơsởchính trị, đầu tư phát triển kinh tế- xã hội, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc và thếtrận quốc phòng toàn dân. Vì vậy, khối đại đoàn kết dân tộc ởcác tỉnh Tây Nguyên đã được củng cốvà tăng cường. Công tác dân vận được triển khai đồng bộ, toàn diện với nhiều hình thức phong phú, đa dạng; nội dung cụthể, thiết thực, sát hợp, hướng hoạt động vềcơsở, địa bàn khu dân cư.

pdf358 trang | Chia sẻ: truongthanhsp | Lượt xem: 1534 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên trong thời kỳ đổi mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ – HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - - - Y Z - - - BÁO CÁO TỔNG HỢP KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI CẤP BỘ NĂM 2007 XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC Ở TÂY NGUYÊN TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI (Mã số: B. 07 - 29) Cơ quan chủ trì: Học viện Chính trị khu vực III Chủ nhiệm đề tài: PGS.TS. Trương Minh Dục 6806 17/4/2008 Đà Nẵng, tháng 12 năm 2007 2 CÁC CHỮ VIẾT TẮT BCH: Ban Chấp hành BCĐ : Ban chỉ đạo CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNXH: Chủ nghĩa xã hội CT : Chỉ thị CTQG: Chính trị quốc gia DTTS: Dân tộc thiểu số ĐCĐC: Định canh, định cư HTCT: Hệ thống chính trị NHNN: Ngân hàng nông nghiệp Nxb: Nhà xuất bản QĐ : Quyết định TTg : Thủ tướng TU : Tỉnh ủy TW: Trung ương 3 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tây Nguyên (bao gồm 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng) có hơn 46 dân tộc anh em sinh sống (ïcó 12 dân tộc bản địa). Đây là địa bàn có vị chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế và quốc phòng, an ninh; có tuyến biên giới dài 591 km, trong đó có 150 km tiếp giáp với tỉnh Atôpơ của Lào và 441 km tiếp giáp với hai tỉnh Mônđônkiri, Ratanakiri của Cămpuchia. Quán triệt Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị, Quyết định 72 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), Chỉ thị 525 của Thủ tướng Chính phủ, đặc biệt là Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị ngày 18 tháng 01 năm 2002, sau 20 năm đổi mới, kinh tế - xã hội Tây Nguyên đã có những bước phát triển khá toàn diện và đang chuyển mạnh sang sản xuất hàng hóa. Hệ thống chính trị cơ sở được kiện toàn, khối đại đoàn kết các dân tộc được giữ vững. Các cấp ủy đảng ở Tây Nguyên đã tập trung xây dựng cơ sở chính trị ngày càng vững mạnh, phát huy được vai trò lãnh đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả các chương trình kinh tế, xã hội và duy trì tốt các phong trào chính trị xã hội của địa phương. Thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân từng bước được củng cố và tăng cường, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Quán triệt những chủ trương, chính sách về củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc của Đảng, nhận thức đúng đắn vị trí và đặc điểm của vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đảng bộ các tỉnh Tây Nguyên đã ban hành nhiều nghị quyết chuyên đề về củng cố và tăng cường xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên, công tác vận động đồng bào các dân tộc, củng cố cơ sở chính trị, đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc và thế trận quốc phòng toàn dân. Vì vậy, khối đại đoàn kết dân tộc ở các tỉnh Tây Nguyên đã được củng cố và tăng cường. Công tác dân vận được triển khai đồng bộ, toàn diện với nhiều hình thức phong phú, đa dạng; nội dung cụ thể, thiết thực, sát hợp, hướng hoạt động về cơ sở, địa bàn khu dân cư. Trong quá trình tổ chức vận động các tầng lớp nhân dân đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công tác dân vận đã coi trọng vận 4 động quần chúng đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực, kịp thời giải quyết các “điểm nóng“ từ khi mới phát sinh, góp phần giữ vững an ninh chính trị và ổn định ở Tây Nguyên. Nhiều mô hình dân vận tốt đã xuất hiện và được nhân rộng như mô hình thành lập các đội công tác, mô hình kết nghĩa, đỡ đầu của các đơn vị, cơ quan ban, ngành với các xã vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ địa... đạt nhiều hiệu quả trong việc xóa đói, giảm nghèo; xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, chăm sóc sức khỏe nhân dân; xây dựng đời sống văn hóa mới ở các bản làng, khu dân cư. Tuy nhiên, trong thời gian qua, khối đại đoàn kết dân tộc ở các tỉnh Tây Nguyên tuy được củng cố và tăng cường nhưng chưa thật vững chắc. Một số cấp ủy đảng địa phương chưa có nhận thức đúng đắn về vị trí của công tác xây dựng và củng cố khối đoàn kết dân tộc, chưa quán triệt chủ trương về đổi mới công tác dân vận của Đảng trong tình hình mới. Nội dung, hình thức hoạt động của công tác dân vận chưa thiết thực, cụ thể, thiếu chiều sâu. Cơ chế phối hợp giữa các ban ngành, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể chưa chặt chẽ, đồng bộ, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả của phong trào. Đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận, nhất là ở cơ sở còn hạn chế về năng lực, trình độ, chưa được đào tạo cơ bản. Lợi dụng những khó khăn về đời sống, đặc điểm tâm lý, phong tục tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số và những thiếu sót, sơ hở trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Đảng, và Nhà nước, các thế lực thù địch và phản động đã tăng cường hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng. Thông qua việc truyền đạo Tin lành trái phép, các lực lượng phản động đã kích động xu hướng ly khai, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, âm mưu thành lập nhà nước “Đề ga độc lập“ (điển hình là các vụ bạo loạn mang tính chất chính trị vào tháng 2 - 2001 và tháng 4 - 2004) Tình hình trên đây cho thấy, việc xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc ở các tỉnh Tây Nguyên đang đặt ra những vấn đề hết sức cấp bách. Công tác vận động, tập hợp quần chúng thực sự trở thành một cuộc đấu tranh gay go, phức tạp, quyết liệt chống lại âm mưu, ý đồ của các thế lực phản động để giữ vững trận địa lòng dân, củng cố niềm tin của đồng bào vào sự lãnh đạo của Đảng, tích cực xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 5 Vì vậy, việc nghiên cứu, đánh giá quá trình lãnh đạo thực hiện xây dựng khối đại đoàn kết dân dân tộc ở Tây Nguyên trong những năm đổi mới, từ đó rút ra những kinh nghiệm để góp phần hoàn thiện các chủ trương, biện pháp, thực hiện có hiệu quả công tác dân vận, nhằm củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Xuất phát từ lý do đó, chúng tôi chọn vấn đề “Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên trong những năm đổi mới (1986 - 2006)” làm đề tài nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu Do vị trí và tầm quan trọng của vùng địa lý - dân tộc học, từ lâu Tây Nguyên đã thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia và nhiều nhà nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước. - Cách đây hơn một ngàn năm, các bia ký Chăm và sử biên niên Campuchia đã nhắc đến người ở Tây Nguyên. Trong các văn bản, thư tịch của nước ta, từ thời Lê Thánh Tông, vùng Tây Nguyên được gọi là "nước Nam Bàn", và trong cuốn sử biên niên của nước ta thế kỷ XVI - XVIII đã thấy nhắc đến nơi này. Trong tác phẩm Phủ biên tạp lục, nhà Bách khoa thư nổi tiếng Lê Quý Đôn cũng nhắc đến vùng này. Đến thời Nguyễn, mối quan hệ giữa triều đình và vùng cao nguyên càng chặt chẽ hơn. Nhiều tài liệu về Thuỷ Xá và Hoả Xá đã được ghi lại. Tài liệu về Tây Nguyên rải rác còn được tìm thấy trong các sách: Đại Nam thực lục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Đại Nam chính biên liệt truyện, v.v... - Người Pháp chú ý đến Tây Nguyên từ đầu thế kỷ XVIII. Để thực hiện âm mưu xâm lươûc nước ta, cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, cùng với việc truyền bá đạo Kitô làm đội quân tiền phong, người Pháp chú ý đến việc nghiên cứu Tây Nguyên. Công trình đầu tiên có ý nghĩa hơn cả là Les jung les mọi của Henri Maitre, năm 1912. Các tác phẩm vào thời kỳ này chủ yếu nhằm phục vụ cho công cuộc "bình định" của thực dân Pháp ở Đông Dương. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, xuất hiện một số công trình có chất lượng khoa học hơn và quan điểm của tác giả có chiều hướng tiến bộ hơn. Đó là các công trình của G.Condominas về người M'nông Ga; của J. Dournes về người Gia Rai, của Bulbe về người Mạ;... 6 - Trong thời kỳ 1954 - 1975, để thực hiện chủ nghĩa thực dân mới trên vùng đất có vị trí chiến lược quan trọng này, Mỹ tăng cường nghiên cứu dân tộc học. Một số công trình về các dân tộc ở Tây Nguyên đã được xuất bản. Đáng chú ý là công trình Những nhóm tộc người chính ở Nam Việt Nam của G.Hickey, 1967; Những nhóm thiểu số ở Cộng hoà Nam Việt Nam do tướng Westmoreland chủ biên và cuốn Cao nguyên miền Thượng của Long Giang và Toan Ánh (1974)1. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, việc nghiên cứu về Tây Nguyên nói chung; nghiên cứu về vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc nói riêng nhằm đưa ra những luận cứ khoa học để khai thác tiềm năng, thế mạnh về điều kiện tự nhiên, những đặc điểm về văn hóa - xã hội của quá trình xây dựng cuộc sống mới ấm no, hạnh phúc cho đồng bào các dân tộc thiểu số, thực hiện mục tiêu bình đẳng, đoàn kết dân tộc được Đảng, Nhà nước ta và các nhà khoa học quan tâm. Trong văn kiện các đại hội, các nghị quyết của Đảng đều đề cập đến đặc điểm dân tộc, dân cư và có chính sách, chủ trương phù hợp. Cố Tổng bí thư Lê Duẩn trong bài báo: "Tây Nguyên đoàn kết tiến lên" (Tạp chí Cộng Sản -1978) và Cố Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh trong bài "Đưa đồng bào các dân tộc Đắk Lắk lên chủ nghĩa xã hội" (Tạp chí Cộng Sản, 1983) đã phân tích những đặc thù về dân tộc, dân cư và chỉ đạo các đảng bộ Tây Nguyên phải nghiên cứu, vận dụng để đề ra chủ trương, giải pháp cho phù hợp. - Một số công trình chuyên khảo về dân tộc học như: Tây Nguyên của Hoàng Văn Huyền (1980); Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam) (1984); Đại cương về các dân tộc Êđê, M'nông ở Đắk Lắk của Bế Viết Đẳng và các đồng tác giả (1982); Các dân tộc ở Gia Lai- Kon Tum do Đặng Nghiêm Vạn chủ biên (1981); Vấn đề dân tộc ở Lâm Đồng do Mạc Đường chủ biên (1983); Cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam của GS. Đặng Nghiêm Vạn (2003) đã giúp người đọc hiểu rõ nguồn gốc tộc người, đặc điểm kinh tế- xã hội của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. - Trên lĩnh vực kinh tế- xã hội. Đáng chú ý là Chương trình cấp nhà nước 48 - 09 do Uỷ ban Khoa học xã hội nay là Viện Khoa học xã hội Việt Nam thực hiện trong những năm 1980. Kết quả của chương trình được xuất bản thành 3 cuốn sách: Một số vấn đề kinh tế- xã hội Tây Nguyên (1986); Tây Nguyên trên đường phát triển 1 Xem Phan Hữu Dật (chủ biên): Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay. Nxb CTQG, H. 2001. 7 (1990); Một số vấn đề kinh tế - xã hội các dân tộc thiểu số ở Đắk Lắk (1990). Các công trình này đã tập trung nghiên cứu đặc điểm kinh tế- xã hội của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, đưa ra căn cứ khoa học để xác định các hình thức, bước đi trong quá trình đưa đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, do hạn chế trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội lúc đó, các tác giả chưa thấy được xu hướng phát triển của vấn đề dân tộc, quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Tây Nguyên. Ngoài ra, còn có các đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ như: Các hình thức kinh tế ở Tây Nguyên và xu hướng vận động trong quá trình chuyển sang kinh tế hàng hoá do TS Trương Minh Dục làm chủ nhiệm (1994- 1995); Phát triển kinh tế trang trại ở Tây Nguyên do TS Phạm Thanh Khiết chủ nhiệm (1999- 2000) đã nghiên cứu các hình thức kinh tế cổ truyền trong lịch sử, các hình thức kinh tế mới xuất hiện và sự vận động của chúng trong quá trình chuyển sang kinh tế hàng hoá; các đề tài cấp bộ, cấp nhà nước: Một số chính sách kinh tế -xã hội đối với các dân tộc ít người ở Tây Nguyên, do PGS, TS Nguyễn Văn Chỉnh làm chủ nhiệm đề tài (1997 - 1998). Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế-xã hội ở miền núi, do GS. Bế Viết Đẳng chủ biên (1996), đã đánh giá các chính sách của Đảng và Nhà nước ta được thực thi trong thực tiễn với những thành công và hạn chế, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện chính sách dân tộc của Đảng. - Vấn đề đất đai và sở hữu đất đai đã được một số công trình đề cập như các đề tài cấp bộ: Quản lý, sử dụng đất nông nghiệp ở Tây Nguyên do TS Nguyễn Thế Tràm làm chủ nhiệm đề tài (2001); Một số giải pháp quản lý nhằm bảo vệ và phát triển rừng ở Tây Nguyên do ThS. Phạm Phong Duể làm chủ nhiệm đề tài (2003). Đặc biệt, công trình nghiên cứu khá công phu của tập thể các nhà khoa học Vũ Đình Lợi, Bùi Minh Đạo và Vũ Thị Hồng (Viện Dân tộc học) thực hiện: Sở hữu và sử dụng đất đai ở các tỉnh Tây Nguyên (2000), trên cơ sở nghiên cứu sở hữu đất đai trong lịch sử, phân tích thực trạng sử dụng đất đai ở Tây Nguyên thời gian qua; từ đó đề xuất các giải pháp giải quyết vấn đề đất đai ở Tây Nguyên. Vấn đề đất đai chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến những "điểm nóng" ở Tây Nguyên thời gian qua. - Trên lĩnh vực chính trị đã có một số công trình như:"Một số vấn đề về xây dựng hệ thống chính trị ở Tây Nguyên" do PGS. TS Phạm Hảo - TS Trương Minh Dục đồng chủ biên (2003); Đề tài nhánh cấp nhà nước KX 05 - 11 về cơ cấu, tiêu 8 chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi mới hiện nay ở Đắk Lắk (1993 - 1994); "Một số vấn đề về xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện người các dân tộc ở Tây Nguyên" do GS. TS. Lê Hữu Nghĩa chủ biên (2001). Các công trình này đã trình bày những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình xây dựng HTCT và việc hình thành đội ngũ cán bộ các dân tộc thiểu số; đánh giá thực trạng hệ thống chính trị, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý người dân tộc thiểu số trong HTCT ở Tây Nguyên; đề xuất các giải pháp để xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay. Gần đây, nhà xuất bản Chính trị quốc gia đã xuất bản công trình “Một số giải pháp góp phần ổn định và phát triển ở Tây Nguyên hiện nay” của tập thể cán bộ kha học Học viện Chính trị khu vực III và các nhà hoạt động thực tiễn do PGS.TS. Phạm Hảo chủ biên (2007) đã nghiên cứu những nhân tố ảnh hưởng đến sự ổn định chính trị và những vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Tây Nguyên, cung cấp những luận cứ khoa học cho các giải pháp góp phần giữ vững ổn định chính trị ở các tỉnh Tây Nguyên trong giai đoạn hiện nay. - Trên lĩnh vực văn hoá, ngoài các công trình nghiên cứu về sử thi, luật tục, văn hoá dân gian, có một số công trình mang tính lý luận như: Giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá Tây Nguyên do PTS. Nguyễn Hồng Sơn và PTS. Trương Minh Dục đồng chủ biên (1996); Văn hoá các dân tộc Tây Nguyên - thực trạng và những vấn đề đặt ra do GS. TS. Trần Văn Bính chủ biên (2004). Các công trình này đã đánh giá các giá trị văn hóa của Tây Nguyên, thực trạng đời sống văn hóa của các dân tộc thiểu số, đồng thời dự báo xu hướng và đề xuất các giải pháp vừa cơ bản, vừa cấp bách nhằm xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần của các dân tộc, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa Tây Nguyên trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, các công trình này chưa thấy được sự xuất hiện tư tưởng dân tộc trên lĩnh vực văn hoá, tư tưởng tự bảo vệ văn hoá dân tộc đã xuất hiện trong thời gian qua. - Trên lĩnh vực quan hệ dân tộc, có công trình nghiên cứu: Xu hướng vận động của quan hệ dân tộc khu vực Tây Nguyên và đặc điểm chính sách dân tộc đối với Tây Nguyên là đề tài cấp bộ do PTS. Nguyễn Văn Nam là chủ nhiệm đề tài (1994- 1995). Các tác giả đã nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về xu hướng vận động của quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên, từ đó xác định phương hướng và các giải 9 pháp để xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc phù hợp với đặc điểm Tây Nguyên. Tuy nhiên, các tác giả mới đề cập đến xu hướng xích lại gần nhau của các dân tộc, chưa thấy được những mầm mống của những nguyên nhân làm rạn nứt khối đại đoàn kết dân tộc đã bắt đầu xuất hiện khi phát triển kinh tế thị trường, công nghiêp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đáng chú ý trong lĩnh vực này có các nghiên cứu khá công phu của GS.TS. Phan Hữu Dật và tập thể tác giả trong công trình: Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay (2001) bước đầu đã đánh giá những thành công và hạn chế trong việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng; phân tích các xu hướng xuất hiện trong quan hệ dân tộüc ở Tây Nguyên thời gian qua. - Trên lĩnh vực tôn giáo, có một số đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ như: Quá trình thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng, đưa đồng bào theo các đạo giáo ở Tây Nguyên đi lên CNXH 1975- 1995, do PTS Trần Quốc Long làm chủ nhiệm (1997); Đạo Tin Lành ở Tây Nguyên - quá trình xâm nhập, đặc điểm và việc thực hiên chính sách...do TS Nguyễn Văn Nam làm chủ nhiệm (2003). Các đề tài này bước đầu nghiên cứu các hình thức tôn giáo sơ khai; quá trình thâm nhập, phát triển của đạo Ki tô, Tin lành vào vùng các dân tộc thiểu số và chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ở Tây Nguyên. Từ năm 2002 Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã tiến hành chương trình nghiên cứu cấp bộ về Tổng kết thực hiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo ở Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ. Các tác giả đề tài nhánh Tây Nguyên đã tiến hành khảo sát thực tế ở 3 tỉnh Kon Tum, Gia Lai và Đắk Lắk, tổ chức hội thảo khoa học và đã hoàn thành các báo cáo chuyên đề, đặc biệt là báo cáo tóm tắt: Về thực hiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo ở Tây Nguyên- thực trạng, giải pháp và kiến nghị. Tiếc rằng sản phẩm nghiên cứu chưa được xã hội hoá. - Trên lĩnh vực đoàn kết dân tộc, từ trước đến nay đã có một số công trình nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau về quá trình thực hiện chính sách đoàn kết dân tộc của Đảng như: Đảng, Nhà nước, nhân dân ta nhất định xây dựng Tây 10 Nguyên thành địa bàn trù phú, tươi đẹp của Chủ tịch nước Trần Đức Lương1; Thực hiện chính sách đoàn kết, bình đẳng, giúp nhau cùng phát triển trong đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên của Lê Truyền2; Chuyên luận: Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết dân tộc, xây dựng khối đoàn kết dân tộc hiện nay ở Tây Nguyên (2004) của PGS. TS Trương Minh Dục3; các bài viết: "Công tác dân vận ở Tây Nguyên’’ của PTS. Thanh Tuyền, Báo Nhân Dân ngày 14. 2. 1998; ‘’Đắk Lắk với công tác vận động quần chúng’’ của Y Luyện Niê Kđăm. Tạp chí Dân vận số 6 . 2001;‘’ Một số vấn đề về công tác dân tộc ở Tây Nguyên “ của ThS. Hà Xuân Nguyên. Tạp chí Tư tưởng Văn hóa số 6.2003; Luận văn thạc sĩ lịch sử:"Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lãnh đạo công tác dân vận (1986 - 2002) của tác giả Nguyễn Mậu Linh (2003). Ngoài ra, còn một số bài báo khoa học đăng tải trên các tạp chí khoa học như: Nghiên cứu Lý luận, Thông tin Lý luận, Sinh hoạt Lý luận, Dân vận, Tư tưởng Văn hóa... Những công trình khoa học trên đã đề cập nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn trong quá trình thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng ở các tỉnh Tây Nguyên. Nhưng cho đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu sâu về quá trình lãnh đạo và thực hiện việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên trong những năm đổi mới. (từ 1986 đến nay) 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu a, Mục tiêu: Tổng kết toàn diện quá trình thực hiện xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc của Đảng ở các tỉnh Tây Nguyên trong những năm đổi mới, rút ra những kinh nghiệm thực tiễn. Trên cơ sở đó, xác định phương hướng và đề xuất các giải pháp để giải quyết vấn đề dân tộc, củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên trong thời gian đến. b, Nhiệm vụ 1 Trần Đức Lương: Đảng, Nhà nước, nhân dân ta nhất định xây dựng Tây Nguyên thành địa bàn trù phú, tươi đẹp. Báo Nhân dân, ngày 27-3-2006. 2 Lê Truyền: Thực hiện chính sách đoàn kết, bình đẳng, giúp nhau cùng phát triển trong đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, Báo Nhân dân ngày 27-3-2006. 3 In trong cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết với vấn đề phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong thời kỳ mới. Nxb CTQG, H, 2004 11 Để thực hiện mục tiêu trên, đề tài có các nhiệm vụ sau: - Trình bày quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết dân tộc, chủ trương đại đoàn kết dân tộc của Đảng ta làm cơ sở lý luận cho chủ đề nghiên cứu. - Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến việc củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên trong những năm đổi mới. - Trình bày quá trình xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở các tỉnh Tây Nguyên trong những năm đổi mới; rút ra một số kinh nghiệm bước đầu về lãnh đạo công tác dân vận vùng đồng bào dân tộc thiểu số. - Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu để xây dựng