Xây dựng mô hình hoạt động trải nghiệm trong dạy học mĩ thuật ở trường phổ thông

Building a model of experience activities in teaching Art at schools to orient and create conditions for students to participate in practical activities; encourage and motivate students to actively observe, think, research, find new solutions, create new ones on the basis of artistic knowledge learned at schools and what has been experienced in reality life, thereby forming consciousness, quality, life skills and competencies for students. Researching to build a model of experience in Fine Art in order to meet the goal of renewing the general education curriculum in general and Art education in particular. The article presents the nature of experiential activities, thereby suggesting an model of experience activities in Fine Arts.

pdf7 trang | Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 562 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xây dựng mô hình hoạt động trải nghiệm trong dạy học mĩ thuật ở trường phổ thông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 264-270 264 XÂY DỰNG MÔ HÌNH HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM TRONG DẠY HỌC MĨ THUẬT Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG Trần Thị Vân - Trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương Ngày nhận bài: 18/03/2019; ngày sửa chữa: 04/04/2019; ngày duyệt đăng: 26/04/2019. Abstract: Building a model of experience activities in teaching Art at schools to orient and create conditions for students to participate in practical activities; encourage and motivate students to actively observe, think, research, find new solutions, create new ones on the basis of artistic knowledge learned at schools and what has been experienced in reality life, thereby forming consciousness, quality, life skills and competencies for students. Researching to build a model of experience in Fine Art in order to meet the goal of renewing the general education curriculum in general and Art education in particular. The article presents the nature of experiential activities, thereby suggesting an model of experience activities in Fine Arts. Keywords: Experience, experiential activities, Fine art, student. 1. Mở đầu Cùng với các môn học khác, môn học Mĩ thuật (MT) trong trường phổ thông có vai trò hết sức quan trọng, cần thiết, góp phần vào việc hình thành, phát triển năng lực thẩm mĩ và các năng lực khác cho mỗi học sinh. Với đặc thù về nội dung và phương pháp dạy học, môn học không chỉ cung cấp những kiến thức mang tính lí thuyết ở trong lớp học mà còn thông qua các hoạt động trải nghiệm (HĐTN) để tạo cơ hội cho học sinh huy động, tổng hợp kiến thức, kĩ năng của các môn học và lĩnh vực giáo dục khác nhau để trải nghiệm thực tiễn; đồng thời, tham gia các hoạt động phục vụ cộng đồng và hoạt động hướng nghiệp dưới sự hướng dẫn, tổ chức của giáo viên, qua đó hình thành các năng lực như: hoạt động và tổ chức hoạt động; tổ chức và quản lí cuộc sống; tự nhận thức và tích cực hóa bản thân; định hướng nghề nghiệp; khám phá và sáng tạo... và các phẩm chất chủ yếu như: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm. Thực tiễn cho thấy, HĐTN trong môn MT đề cao những hoạt động của cá nhân trên cơ sở hợp tác tập thể, bên cạnh sự thúc đẩy, hỗ trợ của giáo viên; từ đó hướng đến hình thành và phát triển những phẩm chất, năng lực cho học sinh. Nghiên cứu xây dựng mô hình HĐTN trong môn MT nhằm đáp ứng mục tiêu đổi mới chương trình giáo dục phổ thông nói chung và giáo dục nghệ thuật - MT nói riêng. Với ý nghĩa đó, bài viết trình bày bản chất của HĐTN, từ đó đề xuất mô hình HĐTN trong môn MT. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Bản chất của hoạt động trải nghiệm HĐTN là các hoạt động giáo dục thực tiễn được tiến hành song song với hoạt động dạy học trong nhà trường và là một bộ phận của quá trình giáo dục. HĐTN được tổ chức ngoài giờ học các môn văn hoá ở trên lớp và có mối quan hệ bổ sung, hỗ trợ cho hoạt động dạy học [1]. Giáo dục qua trải nghiệm coi học sinh là “trung tâm” của quá trình giáo dục, học sinh được huy động tối đa kinh nghiệm có sẵn; được phát huy khả năng tự lập, làm việc theo nhóm, biết so sánh, phân tích, đánh giá các sự vật, hiện tượng dựa trên sự trải nghiệm của bản thân. Theo David Kolb [2], tất cả những gì con người đã trải nghiệm đều tham gia vào quá trình giáo dục và con người đạt đến tri thức mới bằng trải nghiệm. Giáo viên xây dựng quy trình tổ chức hoạt động giáo dục cho học sinh thông qua trải nghiệm theo một trình tự nhất định để có kết quả như mong muốn. Như vậy, giáo dục qua trải nghiệm có một số các đặc điểm cơ bản sau: - Giáo dục qua trải nghiệm là một quá trình liên tục theo đường xoắn trôn ốc dựa vào kinh nghiệm đã có của học sinh. - Giáo dục qua trải nghiệm đòi hỏi học sinh phải huy động vốn kinh nghiệm có sẵn để giải quyết các tình huống trong thực tiễn. Trong quá trình này, những kiến thức, kĩ năng thái độ của học sinh sẽ được bộc lộ trực tiếp, điều đó giúp các em có cơ hội phát huy được tính độc lập và khả năng tổng hợp được kinh nghiệm từ thực tiễn. Học sinh kết nối, kiểm nghiệm những kiến thức đã có với những kiến thức mới thu được từ trải nghiệm. Trong giáo dục qua trải nghiệm, giáo viên và học sinh có mối quan hệ chặt chẽ: giáo viên là người thiết kế, tổ chức hướng dẫn các HĐTN; học sinh tự lực chiếm lĩnh và chủ động đạt được mục tiêu giáo dục về kiến thức, kĩ năng, thái độ. Như vậy, HĐTN trong trường phổ thông là nhiệm vụ học tập gắn với thực tiễn; hình thức tổ chức hoạt động đa dạng, linh hoạt; trong đó, học sinh được trải nghiệm đề xuất ý tưởng, trải nghiệm thiết kế, tổ chức và VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 264-270 265 đánh giá kết quả thực hiện. Thông qua đó, học sinh vừa lĩnh hội được nội dung học tập, vừa hình thành các kĩ năng sống, kĩ năng tư duy và vận dụng kiến thức, kinh nghiệm để giải quyết một cách linh hoạt, chủ động, sáng tạo những vấn đề nhận thức và thực tiễn. 2.2. Xây dựng mô hình hoạt động trải nghiệm trong môn Mĩ thuật 2.2.1. Mô hình học tập qua trải nghiệm của David Kolb David Kolb là một nhà lí luận giáo dục người Mĩ. Các ấn phẩm, tạp chí của ông chủ yếu tập trung vào lĩnh vực học tập dựa trên kinh nghiệm, phát triển nghề nghiệp, giáo dục cho người lớn. Khi nghiên cứu về học tập dựa trên kinh nghiệm, Kolb tin rằng, phong cách học tập của mỗi người là kết quả từ một tương tác giữa đặc điểm bên trong một cá nhân và môi trường, hoàn cảnh bên ngoài của họ nhằm thu nhận và xử lí thông tin trong các tình huống học tập. Đây chính là nền tảng tư tưởng để ông phát triển mô hình học tập dựa trên kinh nghiệm, mối quan hệ của nó với phong cách học tập của mỗi cá nhân (sơ đồ 1). Sơ đồ 1. Mô hình học tập dựa trên kinh nghiệm của Kolb [2] Bản chất của mô hình học tập dựa trên kinh nghiệm của Kolb là một vòng xoắn ốc mô tả quá trình học tập gồm 04 giai đoạn cơ bản, phù hợp với 04 phong cách học tập bao gồm: - Trải nghiệm cụ thể (Concrete Experience): Giai đoạn này được bắt đầu từ hành động, trong đó học sinh được thực hành những điều đã học được, được kiểm nghiệm và điều chỉnh hành vi của mình với mọi người xung quanh. Lúc này học sinh thực hiện những hoạt động, tình huống cụ thể và thực tế, nó như nguyên liệu đầu vào, là điều kiện cần của trải nghiệm. Sự trải nghiệm ở đây có chất lượng cao hay thấp phụ thuộc vào mức độ tham gia của trẻ, vào chất lượng của tình huống cụ thể, thực tế để trải nghiệm. - Quan sát phản ánh (Reflective Observation): Nếu giai đoạn trải nghiệm cụ thể, học sinh sử dụng kinh nghiệm đã có của mình để xử lí các sự việc, sự kiện đang xảy ra thì ở giai đoạn này học sinh sẽ phản hồi, chia sẻ những điều thu được qua trải nghiệm. Trong giai đoạn quan sát phản ánh này, tiến trình suy nghĩ của trẻ đi theo cấp độ từ thấp (ghi nhận, mô tả thông tin) đến cao (tìm hiểu nguyên nhân, mối quan hệ), phân tích những hành vi, những biểu hiện theo chuẩn mực giá trị nhân ái: đã thể hiện được giá trị nhân ái như thế nào; sự phù hợp tình huống, phù hợp giá trị, lựa chọn cách thể hiện tối ưu; những tác động và kết quả đến người cho và người nhận. - Khái quát hoá kết quả trải nghiệm (Abstract Conceptualisation): Là giai đoạn định hình kiến thức và kinh nghiệm mới, tạo ra những hiểu biết mới. Đây là giai đoạn trẻ dựa trên cơ sở lấy phân tích kết quả, đánh giá kinh nghiệm ở giai đoạn 2 (quan sát, phản ánh) để tổng hợp, tự phát hiện kiến thức mới. - Thực hành chủ động (Active Experimentation): Giai đoạn này tương ứng với việc trẻ áp dụng những kiến thức và kinh nghiệm vừa mới lĩnh hội (qua cả ba giai đoạn trên) vào các bối cảnh hoặc sự việc mới trong cuộc sống và kinh nghiệm cứ thế được tạo ra; hiểu biết và kinh nghiệm của trẻ ngày càng được nâng cao. Mô hình giáo dục cho trẻ qua trải nghiệm là một xâu chuỗi logic của 04 giai đoạn. Kết quả của giai đoạn trước là điểm khởi đầu, điểm tựa của giai đoạn sau. Kiến thức kinh nghiệm mới được hình thành, được đưa vào kiểm nghiệm trong tình huống mới và nó lại trở thành kinh nghiệm có sẵn, kinh nghiệm cụ thể và là khởi đầu của một chu trình giáo dục trải nghiệm mới. Khung thời gian cho mỗi giai đoạn thay đổi tùy vào đặc điểm nhận thức, kinh nghiệm của trẻ. 2.2.2. Đề xuất mô hình hoạt động trải nghiệm trong dạy học môn Mĩ thuật Dựa trên lí thuyết học tập trải nghiệm của Kolb, dựa trên đặc thù của môn học nghệ thuật thị giác/MT tạo hình, đồng thời căn cứ vào kết quả khảo sát định tính thông qua phương pháp phỏng vấn giáo viên dạy môn MT và học sinh ở trường phổ thông, chúng tôi đề xuất xây dựng mô hình HĐTN MT gồm 04 bước như sau: Bước 1: Trải nghiệm; Bước 2: Phản ánh; Bước 3: Thực hành - sáng tạo; Bước 4: Đánh giá. Tuy nhiên, để phù hợp với đặc điểm tâm lí lứa tuổi và khả năng thể hiện ngôn ngữ tạo hình của học sinh phổ thông, chúng tôi đã kết hợp bước “phản ánh” và bước “khái quát hoá kết quả trải nghiệm” trong mô hình học qua trải nghiệm của David Kolb thành một bước “phản ánh”; bước “thực hành chủ động” được chuyển hoá thành “thực hành - sáng tạo” để phù hợp với đặc thù môn học VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 264-270 266 MT - môn học sáng tạo; đồng thời triển khai thêm bước “đánh giá” - là bước cần thiết để học sinh nhìn lại quá trình thực hiện, hệ thống hoá kiến thức và tìm ra cách thể hiện mới, sáng tạo mới (xem sơ đồ 2). Sơ đồ 2. Mô hình HĐTN trong dạy học MT - Trải nghiệm: HĐTN MT cần tạo ra nhiều loại hoạt động phù hợp với từng môi trường tổ chức, đảm bảo cho học sinh được trải nghiệm, từ đó rút ra kiến thức và vận dụng sáng tạo vào các tình huống mới. Tùy theo hoàn cảnh và đối tượng, tùy theo đặc trưng của nội dung mà khuyến khích các hình thức giáo dục trải nghiệm khác nhau. Trong HĐTN MT, 03 hình thức cơ bản được phối hợp là: vẽ qua quan sát; vẽ theo trí nhớ và vẽ từ sự tưởng tượng. Các hình thức này luôn luôn đan xen và hoà hợp với nhau trong quá trình sáng tạo. Để bắt đầu mỗi HĐTN, thông thường sẽ được khởi đầu bằng một trong ba hình thức trên [3]. Ví dụ: + Tổ chức HĐTN qua quan sát: Giáo viên cần xây dựng kế hoạch hoạt động, tổ chức cho học sinh được quan sát trực tiếp hình mẫu cụ thể như đồ vật, phong cảnh, con người,... hay quan sát gián tiếp qua tranh, ảnh, video,... để học sinh cảm nhận, ghi nhớ, phân tích, chia sẻ với nhau những hình ảnh đó làm cơ sở để trải nghiệm và khám phá kiến thức trong những hoạt động nối tiếp. + Tổ chức HĐTN qua trí nhớ: Giáo viên xây dựng một hoạt động hoặc dùng câu hỏi gợi mở về nội dung chủ đề/ đề tài giúp học sinh nhớ lại hình ảnh/ đối tượng cụ thể và tái hiện hình ảnh/ đối tượng cụ thể đó trong không gian hai chiều/ ba chiều. + Tổ chức HĐTN từ sự tưởng tượng: Học sinh liên tưởng những hình ảnh mới do mình cảm nhận khi quan sát những hình ảnh cụ thể ở trước mắt như: đám mây, những nếp gấp giấy, màu sắc ngẫu nhiên,... làm cơ sở sáng tạo những sản phẩm/tác phẩm MT theo sự liên tưởng về một nội dung chủ đề. Có thể thấy, trải nghiệm là giai đoạn học sinh sẵn sàng cho HĐTN mới thông qua việc thực hiện những hoạt động/tình huống cụ thể và thực tế. Học sinh tiến hành các hoạt động vẽ, xé dán, nặn,... trên đối tượng; hoặc có thể đọc một số tài liệu, nghe giảng, xem video và chủ đề đang học,... Tất cả các yếu tố đó sẽ tạo ra các kinh nghiệm nhất định cho người học, những kinh nghiệm này trở thành “nguyên liệu đầu vào” quan trọng của quá trình học tập. Tuy vậy, kinh nghiệm quan trọng nhất là những kinh nghiệm mà các giác quan có thể cảm nhận được. Như vậy, sự trải nghiệm ở đây cho thấy chất lượng của nó phụ thuộc vào mức độ người học tham gia và hơn nữa đó phải xuất phát từ tình huống thực tế thì trải nghiệm đó mới đáng giá, mới có ý nghĩa và được lựa chọn để người học trải nghiệm, được xem như là tạo tình huống có vấn đề cho người học. - Phản ánh: Đây là hoạt động tiếp nối sau HĐTN. Hoạt động phản ánh giúp học sinh có cơ hội quan sát, cùng nhau chia sẻ, thảo luận, so sánh về nội dung, hình thức, kĩ thuật tạo hình sản phẩm/tác phẩm MT đã thực hiện ở bước trải nghiệm; cùng nhau đưa ra vấn đề/câu hỏi cần thảo luận nhằm làm rõ trước khi thực hành - sáng tạo ở bước tiếp theo. Hoạt động này cũng khơi gợi ở học sinh khả năng cảm nhận về sự biểu cảm của các yếu tố tạo hình như màu sắc, đường nét, hình khối,... để từ đó rút ra kinh nghiệm điều chỉnh bài của mình. Đây là bước quan trọng giúp học sinh hệ thống những thông tin đã tiếp nhận ở bước trải nghiệm, đồng thời đưa ra cách thức thực hiện hiệu quả và sáng tạo nhất. Thông qua hoạt động này, học sinh được rèn luyện và phát triển năng lực thuyết trình; năng lực hợp tác. - Thực hành - sáng tạo: Sáng tạo là mức độ cao của quá trình nhận thức. Nói đến sáng tạo là nói đến sự thể hiện tính độc đáo và đặc sắc của con người. Sáng tạo biểu hiện ở sự tự phân tích, tự nhận thức, tự bộc lộ những hiểu biết và cảm xúc của con người. Tư duy tưởng tượng, sáng tạo là hoạt động nhận thức trong học tập. Đây là yếu tố và yêu cầu quan trọng đối với nghệ thuật nói chung và MT nói riêng khi thể hiện ý tưởng, cảm xúc của mỗi cá nhân nhằm thực hiện và hoàn thành tác phẩm/sản phẩm nghệ thuật. Bước thực hành - sáng tạo đóng vai trò quan trọng trong quá trình học tập MT của học sinh, là hoạt động nối tiếp sau hoạt động phản ánh để học sinh ứng dụng những chia sẻ, rút kinh nghiệm từ hoạt động 2 nhằm điều chỉnh sản phẩm của mình tốt hơn; đồng thời mở rộng ý tưởng tạo hình, kết hợp học tập hợp tác để tạo sản phẩm nhóm. Hoạt động thực hành - sáng tạo đòi hỏi học sinh ngoài việc biết sử dụng kiến thức, kĩ năng của môn học MT còn VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 264-270 267 phải biết vận dụng các kĩ năng, kiến thức khác về văn hoá, xã hội,... để tạo được sản phẩm/tác phẩm MT có tính thẩm mĩ và tính ứng dụng cao. Thông qua hoạt động thực hành - sáng tạo, học sinh được rèn luyện và phát triển năng lực cá nhân, năng lực hợp tác nhóm trong việc tập trung hoàn thành nhiệm vụ học tập. - Đánh giá: Hoạt động đánh giá là quá trình thu thập và xử lí thông tin về tình hình học tập của học sinh đối chiếu với mục tiêu đã đề ra nhằm xác nhận kết quả học tập của học sinh tại từng thời điểm trong quá trình học tập; xác nhận sự tiến bộ từng bước về kiến thức, kĩ năng của học sinh theo các mục tiêu học tập cụ thể trong suốt một đơn vị bài học. Hoạt động đánh giá cũng tạo điều kiện để giáo viên có cơ sở thực tế để nhìn nhận những điểm mạnh và điểm yếu của chính mình để tự hoàn thiện hoạt động dạy, nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học MT. Hoạt động đánh giá có vai trò quan trọng trong việc giúp học sinh rèn luyện và phát triển năng lực cảm thụ thẩm mĩ với các sản phẩm/ tác phẩm MT theo cách nhìn đa chiều; Phát triển năng lực phân tích, đánh giá các yếu tố tạo hình MT về đường nét, hình mảng và sắc thái cảm xúc; phát triển năng lực ngôn ngữ và khả năng biểu đạt bằng ngôn ngữ. Học sinh có khả năng tự đánh giá sự tham gia của bản thân vào quá trình học tập, sáng tạo, đồng thời đánh giá được phần trình bày của các nhóm trong lớp học. Qua hoạt động này, học sinh hiểu được mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống, hiểu thêm cách biểu đạt phong phú đa dạng của nghệ thuật tạo hình. Hoạt động này giúp nâng cao năng lực thuyết trình, hợp tác và chia sẻ kiến thức liên môn trong quá trình học tập. Dạy học MT theo hướng phát triển năng lực luôn chú trọng để học sinh tham gia giao tiếp, thảo luận, đánh giá tất cả các hoạt động trong tiết học MT; việc đánh giá sẽ trở nên thú vị, hấp dẫn với chính học sinh nếu các em được khuyến khích tự đánh giá, tự nhận xét và đánh giá đồng đẳng. Cuối cùng giáo viên mới đánh giá kết quả học tập của học sinh trên cơ sở các yếu tố như thái độ học tập; sự tập trung chú ý trong học tập; những kiến thức, kĩ năng; sự hợp tác với bạn bè; kế hoạch học tập; khả năng phát triển chủ đề;... 2.2.3. Ví dụ về thiết kế hoạt động trải nghiệm môn Mĩ thuật CHỦ ĐỀ 1: EM THIẾT KẾ THỜI TRANG (HÌNH THỨC IN HOẠ TIẾT TRÊN GIẤY - 3 tiết; Lớp 5) 1. Mục tiêu: (Dành cho học sinh) - Học sinh trải nghiệm thêm cách in mới; biết được kĩ thuật in hình tạo hoạ tiết trang trí; - In và ứng dụng được họa tiết in vào thiết kế trang phục, đồ dùng của trẻ em; - Có ý thức sáng tạo trong học tập. 2. Chuẩn bị: - Giáo viên: Sách MT lớp 5 theo định hướng phát triển năng lực; Kế hoạch dạy học. - Học sinh: Sách MT lớp 5 theo định hướng phát triển năng lực; Giấy, sáp màu, lá cây. 3. Phương pháp và hình thức dạy học chủ yếu: - Phương pháp dạy học: Trải nghiệm, trực quan, vấn đáp, quan sát. - Hình thức tổ chức: Cá nhân; nhóm. 4. Các hoạt động dạy học: HOẠT ĐỘNG 1: TRẢI NGHIỆM Tạo họa tiết trang trí bằng hình thức in (HĐTN này nhằm cung cấp tới học sinh kiến thức, kĩ năng về cách tạo hoạ tiết trang trí bằng hình thức in thông qua trải nghiệm để học sinh tự khám phá) a. Cách 1: - Hướng dẫn học sinh in lá cây bằng màu sáp theo các bước: + Đặt lá cây trên mặt phẳng + Đặt tờ giấy lên lá cây + Dùng bút sáp, bút chì chà xát lên phần giấy có lá cây bên dưới - Gợi ý học sinh sắp đặt lá cây theo các hướng khác nhau để in được nhiều hình phong phú hơn. - Có thể in hết trang giấy. VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 264-270 268 Hình 1. Tạo hoạ tiết trang trí bằng hình thức in với chất liệu sáp màu b. Cách 2: - Hướng dẫn học sinh in lá cây bằng màu nước theo các bước: + Bôi màu lên lá cây + Áp mặt lá vừa được bôi màu lên giấy để in + Có thể in bằng các vật liệu khác có hoạ tiết đẹp như chai, lọ, rau, củ, quả,... Hình 2. Tạo hoạ tiết trang trí bằng hình thức in với chất liệu màu nước HOẠT ĐỘNG 2: PHẢN ÁNH Chia sẻ, phân tích sản phẩm trải nghiệm (Hoạt động này giúp học sinh có cơ hội quan sát, chia sẻ, thảo luận, so sánh để từ đó rút ra kinh nghiệm điều chỉnh bài của mình sau trải nghiệm. Học sinh đánh giá lại kết quả công việc của mình để chỉnh sửa hoàn thiện sản phẩm) - Yêu cầu học sinh treo sản phẩm vừa in lên bảng và cùng nhau quan sát, chia sẻ về: + Cảm nhận sau khi thực hiện HĐTN; + So sánh cách in trên với cách vẽ lá cây bằng màu sáp. - Yêu cầu học sinh quan sát một số sản phẩm in; nêu kết quả sau khi thực hiện, đặt câu hỏi gợi mở để học sinh nhận xét về màu sắc của hoạ tiết; màu của hoạ tiết và nền; cách sắp xếp các hoạ tiết trên giấy: + Em đã tạo được hình gì trên tờ giấy? Em đã làm thế nào để có hình in đẹp và rõ nét? Em hãy chia sẻ kinh nghiệm đó cho các bạn? + Màu sắc của hình in đó như thế nào? + Nhận xét về cách sắp xếp các hoạ tiết lá trên giấy. Ví dụ: theo chiều nào? đan xen? xen kẽ? xoay chiều?... + Nhận xét về màu sắc của hoạ tiết lá và nền. - Đặt câu hỏi gợi mở để học sinh nhận thấy việc sử dụng các vật liệu khác nhau sẽ tạo được các hoạ tiết có hình dạng khác nhau. - Gợi mở để học sinh liên tưởng tới việc sử dụng hoạ tiết vừa in để tạo sản phẩm thời trang. Hình 3. Sản phẩm sau khi in VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 264-270 269 HOẠT ĐỘNG 3: THỰC HÀNH - SÁNG TẠO Thiết kế trang phục trẻ em (Hoạt động này đòi hỏi học sinh ngoài biết sử dụng kiến thức, kĩ năng về trang trí còn phải biết vận dụng các kĩ năng, kiến thức khác về văn hoá, xã hội,... để tạo được sản phẩm có tính thẩm mĩ và tính ứng dụng cao) - Yêu cầu học sinh tạo sản phẩm thời trang trẻ em từ hoạ tiết lá cây. Gợi ý học sinh thảo luận nhóm để thống nhất đặc điểm của loại trang phục phù hợp với các màu trong năm. Ví dụ: Trang phục mùa hè thường có màu sắc tươi sáng tạo sự mát mẻ, trang phục mùa đông thường có màu đậm tạo cảm giác ấm áp,... - Yêu cầu thiết kế các bộ phận trên trang phục phải cân đối, thuận mắt và phù hợp giới tính. - Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát một số cách thực hiện: Cách 1: Vẽ tạo dáng trang phục ra mặt sau tờ giấ