Chuyên đề Đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng xuất khẩu tại ngân hàng phát triển Việt Nam

Xuất khẩu có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc phát triển kinh tế, góp phần đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho nhập khẩu, tăng đầu tư và thúc đẩy phát triển kinh tế. Trong nền kinh tế thương mại toàn cầu, bất cứ quốc gia nào muốn phát triển đều phải quan tâm đến vấn đề xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ. Để hỗ trợ và thúc đẩy xuất khẩu hầu hết các quốc gia trên thế giới đều xây dựng chính sách hỗ trợ xuất khẩu và tín dụng xuất khẩu. Những năm qua, nhà nước Việt Nam đã chú trọng xây dựng và phát triển hệ thống chính sách tín dụng xuất khẩu nhằm hổ trợ các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu. Từ năm 2001, bên cạnh việc đẩy mạnh hoạt động tín dụng ngân hàng, Chính phủ còn tập trung các hoạt động tín dụng theo chính sách khuyến khích xuất khẩu vào kênh duy nhất là Quỹ hỗ trợ phát triển (nay là ngân hàng phát triển Việt Nam) thực hiện mục tiêu phát triển theo chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu của Chính phủ để khuyến khích mạnh mẽ sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu. Sau một thời gian hoạt động Quỹ hỗ trợ phát triển bộc lộ một số hạn chế, đồng thời Việt Nam đã gia nhập WTO. Để thực hiện cam kết gia nhập WTO, ngày 19/05/2006 Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định thành lập Ngân hàng phát triển Việt Nam trên cơ sở tổ chức lại Quỹ hỗ trợ phát triển, nhằm khắc phục những hạn chế của Quỹ hỗ trợ phát triển. Vì vậy, em chọn đề tài “ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG XUẤT KHẨU TẠI NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN VIỆT NAM” nhằm nghiên cứu, đánh giá hoạt động tín dụng xuất khẩu tại Ngân hàng phát triển Việt Nam để đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động tín dụng xuất khẩu.

doc24 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1607 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng xuất khẩu tại ngân hàng phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÝ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI Xuất khẩu có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc phát triển kinh tế, góp phần đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho nhập khẩu, tăng đầu tư và thúc đẩy phát triển kinh tế. Trong nền kinh tế thương mại toàn cầu, bất cứ quốc gia nào muốn phát triển đều phải quan tâm đến vấn đề xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ. Để hỗ trợ và thúc đẩy xuất khẩu hầu hết các quốc gia trên thế giới đều xây dựng chính sách hỗ trợ xuất khẩu và tín dụng xuất khẩu. Những năm qua, nhà nước Việt Nam đã chú trọng xây dựng và phát triển hệ thống chính sách tín dụng xuất khẩu nhằm hổ trợ các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu. Từ năm 2001, bên cạnh việc đẩy mạnh hoạt động tín dụng ngân hàng, Chính phủ còn tập trung các hoạt động tín dụng theo chính sách khuyến khích xuất khẩu vào kênh duy nhất là Quỹ hỗ trợ phát triển (nay là ngân hàng phát triển Việt Nam) thực hiện mục tiêu phát triển theo chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu của Chính phủ để khuyến khích mạnh mẽ sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu. Sau một thời gian hoạt động Quỹ hỗ trợ phát triển bộc lộ một số hạn chế, đồng thời Việt Nam đã gia nhập WTO. Để thực hiện cam kết gia nhập WTO, ngày 19/05/2006 Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định thành lập Ngân hàng phát triển Việt Nam trên cơ sở tổ chức lại Quỹ hỗ trợ phát triển, nhằm khắc phục những hạn chế của Quỹ hỗ trợ phát triển. Vì vậy, em chọn đề tài “ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG XUẤT KHẨU TẠI NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN VIỆT NAM” nhằm nghiên cứu, đánh giá hoạt động tín dụng xuất khẩu tại Ngân hàng phát triển Việt Nam để đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động tín dụng xuất khẩu. 2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 2.1. Mục tiêu chung: Tìm hiểu và đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng xuất khẩu tại Ngân hàng phát triển Việt Nam. Từ đó, tìm ra những hạn chế còn tồn tại trong hoạt động tín dụng xuất khẩu và nguyên nhân của nó để từ đó đưa ra những giải pháp phù hợp nhằm hoàn thiện hơn hoạt động tín dụng xuất khẩu tại Ngân hàng phát triển Việt Nam. 2.2. Mục tiêu cụ thể: - Tìm hiểu thực trạng hoạt động tín dụng xuất khẩu tại Ngân hàng phát triển Việt Nam, chủ yếu tập trung vào các khoảng cho vay ngắn hạn để hỗ trợ xuất khẩu. - Đánh giá hoạt động tín dụng xuất khẩu tại Ngân hàng phát triển Việt Nam từ đó tìm ra những hạn chế còn tồn tại của hoạt động tín dụng xuất khẩu và nguyên nhân của nó. - Đề ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn hoạt động tín dụng xuất khẩu. 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Phương pháp thu thập số liệu: Thu thập số liệu từ website của Ngân hàng phát triển Việt Nam, trên các báo, tạp chí kinh tế. 3.2. Phương pháp xử lý số liệu: Sử dụng các kiến thức đã học như thống kê, so sánh … và nhận định của cá nhân để phân tích, đánh giá hoạt động tín dụng xuất khẩu tại ngân hàng phát triển Việt Nam từ đó đưa ra kết luận và kiến nghị. 4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU 4.1. Phạm vi không gian: Tìm hiểu tình hình hoạt động tín dụng xuất khẩu tại Ngân hàng phát triển Việt Nam 4.2. Phạm vi thời gian: Số liệu được thu thập được chia thành 2 giai đoạn là trước khi gia nhập WTO từ 2001 – 2006, và sau khi gia nhập WTO từ 2007 - 2009 PHẦN NỘI DUNG Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG XUẤT KHẨU CỦA NHÀ NƯỚC 1.1. VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ 1.1.1. Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thông qua hoạt động xuất khẩu các quốc gia hướng sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo mục tiêu đã đề ra. Các ngành sản xuất hàng xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi. Chẳng hạn, khi phát triển ngành dệt may xuất khẩu tạo cơ hội cho phát triển các ngành xuất khẩu nguyên liệu như bông hay thuốc nhuộm. Sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu kéo theo sự phát triển của ngành công nghiệp sản xuất thiết bị chế biến. Xuất khẩu giúp cho việc gia tăng nhu cầu sản xuất, kinh doanh ở những ngành liên quan khác. Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, giúp cho sản xuất ổn định và kinh tế phát triển. Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Thông qua cạnh tranh trong xuất khẩu, buộc các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến sản xuất, tìm ra những cách thức kinh doanh sao cho có hiệu quả, giảm chi phí và tăng năng suất. 1.1.2. Xuất khẩu tạo nguồn vốn ngoại tệ cho nền kinh tế Để nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ hiện đại, nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất, hàng hóa tiêu dùng mà trong nước chưa sản xuất được thì cần phải có nguồn vốn ngoại tệ lớn để thực hiện. Nguồn vốn ngoại tệ chủ yếu từ các nguồn: xuất khẩu, đầu tư nước ngoài, vay vốn, viện trợ, thu từ hoạt động du lịch, các dịch vụ có thu ngoại tệ, xuất khẩu lao động ... Trong đó nguồn ngoại tệ thu về từ hoạt động xuất khẩu là nguồn chủ yếu để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho nền kinh tế. 1.1.3. Xuất khẩu có tác động tích cực đến giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân Xuất khẩu gia tăng sẽ tạo thêm công ăn việc làm trong nền kinh tế, nhất là trong ngành sản xuất cho hàng hoá xuất khẩu, xuất khẩu làm gia tăng đầu tư trong ngành sản xuất hàng hoá xuất khẩu. Chính các ngành sản xuất hàng xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động vào làm việc với thu nhập không thấp. Xuất khẩu làm tăng GDP, làm gia tăng nguồn thu nhập quốc dân, từ đó có tác động làm tăng tiêu dùng nội địa. Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng ngày càng phong phú thêm các nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Quan trọng hơn cả, xuất khẩu tác động trực tiếp đến sản xuất làm cho cả quy mô lẫn tốc độ sản xuất tăng lên, các ngành nghề cũ được khôi phục, ngành nghề mới ra đời, sự phân công lao động mới đòi hỏi lao động được sử dụng nhiều hơn, năng suất lao động cao và đời sống nhân dân được cải thiện. 1.1.4. Xuất khẩu là cơ sở mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại lẫn nhau. Chằng hạn, hoạt động xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế… Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại này lại tạo điều kiện mở rộng hoạt động xuất khẩu. 1.2. TÍN DỤNG XUẤT KHẨU NHÀ NƯỚC 1.2.1. Khái niệm: Tín dụng Nhà nước [Nguyễn Thị Kim Phượng (2008), tr.29]: là quan hệ tín dụng, mà trong đó Nhà nước là người đi vay để đảm bảo các khoản chi tiêu của Ngân sách Nhà nước, đồng thời là người cho vay để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình trong quản lý kinh tế - xã hội và phát triển quan hệ đối ngoại. Tín dụng xuất khẩu (Tín dụng hỗ trợ xuất khẩu) [Nguyễn Thị Kim Phượng (2008), tr.51] : có thể coi là sự cam kết, hỗ trợ về mặt tài chính để các nhà xuất khẩu nước sở tại đẩy mạnh sản xuất, khuyến khích xuất khẩu, đồng thời giúp các nhà nhập khẩu nước ngoài có đủ các điều kiện về tài chính để nhập khẩu hàng hoá của nước đó. TDXK của Nhà nước: về bản chất cũng là tín dụng Nhà nước, nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và cá nhân phát triển sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu theo chính sách khuyến khích xuất khẩu của Nhà nước. 1.2.2. Bản chất của tín dụng xuất khẩu nhà nước: Thứ nhất, hoạt động TDXK của Nhà nước không vì mục tiêu lợi nhuận mà là nhằm hỗ trợ về tài chính cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân tham gia sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu để có điều kiện đầu tư sản xuất, đổi mới công nghệ, giảm chi phí hạ giá thành, nâng cao năng chất lượng sản phẩm tạo sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Thứ hai, nguồn vốn cho vay TDXK thuộc nguồn vốn tín dụng Nhà nước được Chính phủ bố trí giao kế hoạch. Hàng năm căn cứ vào định hướng phát triển kinh tế - xã hội, Nhà nước bố trí một mức vốn nhất định để dành cho hoạt động TDXK. Thứ ba, Cơ chế cho vay vốn ưu đãi hơn hình thức cho vay thông thường như ưu đãi về lãi suất, bảo đảm tiền vay ... Lãi suất cho vay là lãi suất ưu đãi thường thấp hơn lãi suất cho vay của các NHTM, với mục đích hỗ trợ cho doanh nghiệp có điều kiện giảm chi phí đầu vào, hạ giá thành sản phẩm nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng được thị trường xuất khẩu. Về bảo đảm tiền vay, khi vay vốn tại NHTM các đơn vị phải thế chấp tài sản và giá trị thế chấp thường cao hơn giá trị khoản vay; tuy nhiên, không phải đơn vị nào cũng có đủ tài sản để thế chấp khi vay vốn NHTM. TDXK có tính chất hỗ trợ ưu đãi của Nhà nước nên đòi hỏi về bảo đảm tiền vay cũng có tính hỗ trợ không khắt khe như yêu cầu bảo đảm tiền vay tại các NHTM. Thứ tư, đối tượng được vay vốn TDXK của Nhà nước hạn chế so với đối tượng cho vay của các NHTM. Đối tượng vay vốn TDXK của Nhà nước phải có HĐXK đối với nhà xuất khẩu hoặc có hợp đồng nhập khẩu đối với nhà nhập khẩu, phương án sản xuất kinh doanh có lãi và thuộc danh mục mặt hàng được Nhà nước quy định khuyến khích xuất khẩu. Thứ năm, hình thức TDXK không chỉ là hoạt động cho vay mà còn thực hiện ở một số hoạt động tín dụng gián tiếp khác như bảo lãnh TDXK, bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Như vậy, bản chất của TDXK là một dạng của tín dụng ưu đãi nhà nước, là công cụ tài chính quan trọng của Nhà nước nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội thông qua con đường hỗ trợ thúc đẩy xuất khẩu. 1.2.3. Sự cần thiết của tín dụng xuất khẩu: 1.2.3.1. Đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng gia tăng cho hoạt động xuất khẩu : Ở các nước đang phát triển, việc tăng xuất khẩu những mặt hàng mới và công nghệ cao là cách tốt nhất để tăng tổng kim ngạch xuất khẩu và được coi là một nhân tố cơ bản trong chiến lược phát triển của các nước. Để có thể mở rộng xuất khẩu những mặt hàng này, các nước cần phải có một lượng vốn lớn để tài trợ cho hoạt động xuất khẩu. Đáp ứng nhu cầu vốn trong quá trình sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu. Với mục tiêu đạt được kim ngạch xuất khẩu cao, chính sách hỗ trợ xuất khẩu cần phải đảm bảo rằng một khối lượng lớn các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu tiếp cận tín dụng một cách dễ dàng và giá trị của khoản tín dụng ở mức lớn, thời gian phù hợp với chu kỳ kinh doanh. 1.2.3.2. Hỗ trợ các DN vừa và nhỏ tham gia các hoạt động thương mại quốc tế : Nguồn vốn hạn hẹp làm cho các DN thường gặp khó khăn trong việc mua sắm mới và nâng cấp trang thiết bị, đổi mới hiện đại hoá công nghệ, cải tạo môi trường, đào tạo nâng cao trình độ đội ngũ lao động mua nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất, khó khăn trong việc đưa sản phẩm đã sản xuất ra thị trường quốc tế. Hơn nữa, với quy mô nhỏ như trên, các DN này cũng khó có thể tiếp cận được những khoản tín dụng của ngân hàng và các tổ chức tín dụng theo nhu cầu thực tế của họ để phát triển sản xuất đáp ứng nhu cầu khách hàng mỗi khi họ có đơn hàng xuất khẩu, đặc biệt là nguyên nhân không đủ các điều kiện vay vốn về tài sản thế chấp. Với một cơ quan tài trợ xuất khẩu của Chính phủ cấp tín dụng xuất khẩu, các DN này có thể dễ tiếp cận nguồn vốn hơn để mở rộng sản xuất và kinh doanh hàng xuất khẩu. 1.2.3.3. Chia sẻ và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động thương mại quốc tế : Với việc thiết lập và phát triển hệ thống tài trợ xuất khẩu, các nhà xuất khẩu cũng như các ngân hàng cấp tín dụng cho nhà xuất khẩu chuyển giao một phần rủi ro hoặc giảm thiểu rủi ro thông qua việc mua bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, bảo lãnh tín dụng xuất khẩu từ một cơ quan của Chính phủ. 1.2.4. Các hình thức tín dụng xuất khẩu nhà nước: 1.2.4.1. Tín dụng xuất khẩu : v Tín dụng cho doanh nghiệp xuất khẩu trong nước : - Tín dụng xuất khẩu trước khi giao hàng: loại tín dụng đáp ứng nhu cầu vốn cho người xuất khẩu để thực hiện các chi phí: mua nguyên vật liệu, sản xuất hàng xuất khẩu, sản xuất bao bì cho xuất khẩu, chi phí vận chuyển hàng ra đến cảng, sân bay để xuất khẩu, bảo hiểm, thuế… - Tín dụng xuất khẩu sau khi giao hàng: đây là loại tín dụng dưới hình thức mua (chiết khấu) hối phiếu xuất khẩu hoặc bằng cách tạm ứng theo các chứng từ hàng hóa. Loại hối phiếu này cùng với các điều kiện thanh toán do người xuất khẩu và nhập khẩu thỏa thuận là những cơ sở quan trọng để nhà nước cấp tín dụng. v Tín dụng cho nhà nhập khẩu nước ngoài : Nhà nước cấp trực tiếp cho nhà nhập khẩu nước ngoài vay tiền với lãi suất ưu đãi để sử dụng số tiền đó mua hàng của nước cho vay. Nguồn vốn cho vay thường từ ngân sách Nhà nước. Các khoản cho vay này thường kèm theo các điều kiện kinh tế và chính trị có lợi cho nước cho vay. Hình thức này có tác dụng giúp cho doanh nghiệp đẩy mạnh được xuất khẩu vì có sẵn thị trường. Các nước cho vay thường là những nước có tiềm lực kinh tế. Hình thức nhà nước cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu nước ngoài trên khía cạnh nào đó giúp các nước giải quyết tình trạng dư thừa hàng hóa ở trong nước. 1.2.4.2. Bảo lãnh TDXK : v Bảo lãnh cho nhà xuất khẩu : Hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu thuộc các nước đang phát triển khi thực hiện các thương vụ đều phải vay vốn các NHTM. Nhưng muốn ngân hàng cấp tín dụng cần phải thế chấp hoặc cần có sự bảo lãnh. Trong trường hợp này nhà nước đứng ra bảo lãnh cho doanh nghiệp vay, nếu có rủi ro gì đối với khoản tín dụng đó thì nhà nước sẽ trả nợ thay cho doanh nghiệp. v Bảo lãnh khoản tín dụng mà nhà xuất khẩu cấp cho nhà nhập khẩu: Để chiếm lĩnh thị trường nước ngoài, nhiều doanh nghiệp thực hiện việc bán chịu hoặc trả chậm với lãi suất ưu đãi đối với người mua hàng nước ngoài. Việc bán hàng như vậy có những rủi dẫn đến sự mất vốn. Trong truờng hợp đó, để khuyến khích các doanh nghiệp mạnh dạn xuất khẩu hàng bằng cách bán chịu, Nhà nước đứng ra bảo lãnh. 1.2.4.3. Bảo lãnh dự thầu xuất khẩu : Trong thương mại quốc tế đấu thầu xuất khẩu thường được sử dụng để tìm được nguồn cung cấp tối ưu nhất. Mục đích của bảo lãnh dự thầu là nhằm bù đắp những thiệt hại về thời gian và chi phí cho chủ thầu do những vi phạm của người dự thầu gây ra. Để giúp cho các doanh nghiệp có thể tham gia dự thầu xuất khẩu hàng hóa Nhà nước sẽ đứng ra bảo lãnh cho DN. Nhà nước cam kết thanh toán cho người thụ hưởng (người chủ thầu) những chi phí tổn thất, một khi khách hàng của họ (người nhận thầu) không thực hiện đúng cam kết trong đơn dự thầu hoặc tự ý rút lui. 1.3. CÁC CHỈ TIÊU TÀI CHÍNH PHÂN TÍCH NGHIỆP VỤ CHO VAY [Thái Văn Đại (2007), tr.152] 1.3.1. Tổng dư nợ trên nguồn vốn huy động (%, lần) Chỉ số này xác định khả năng sử dụng vốn huy động vào cho vay. Nó giúp cho nhà phân tích so sánh khả năng cho vay của ngân hàng với nguồn vốn huy động. 1.3.2. Dư nợ ngắn hạn (trung, dài) trên tổng dư nợ (%) Chỉ số này dùng để xác định cơ cấu tín dụng theo thời hạn. Chỉ số này giúp nhà phân tích đánh giá được cơ cấu đầu tư như vậy hợp lý hay chưa và có giải pháp điều chỉnh kịp thời. 1.3.3. Nợ xấu, nợ quá hạn trên tổng dư nợ (%) Chỉ số này đo lường chất lượng nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng. Những ngân hàng có chỉ số này thấp có nghĩa là chất lượng tín dụng của ngân hàng này cao. 1.3.4. Doanh số thu nợ trên dư nợ bình quân (vòng) Chỉ tiêu này được gọi là vòng quay vốn tín dụng. Nó đo lường tốc độ luân chuyển vốn tín dụng, thời hạn thu hồi nợ vay nhanh hay chậm. 1.3.5. Hệ số thu nợ (%) Hệ số thu nợ = Doanh số thu nợ / Doanh số cho vay. Hệ số này đánh giá công tác thu hồi nợ vay của ngân hàng. Nếu hệ số này càng lớn chứng tỏ khả năng thu hồi nợ càng tốt. Tuy nhiên hệ số này chỉ mang tính chất tương đối Chương 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG XUẤT KHẨU TẠI NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN VIỆT NAM 2.1. GIỚI THIỆU VỀ NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN VIỆT NAM 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng phát triển Việt Nam : Vào ngày 8/7/1999, theo Nghị định số 50/1999/NĐ-CP, Quỹ HTPT được thành lập. Trong quá trình thực hiện chính sách TDĐT phát triển và TDXK của Chính phủ, Quỹ HTPT cũng đã bộc lộ những tồn tại vướng mắc cả về cơ chế chính sách, phạm vi quy mô hoạt động cũng như cơ cấu tổ chức dẫn đến việc hạn chế khả năng phát triển của Quỹ, ảnh hưởng đến độ an toàn trong hoạt động tài chính, nếu không được khắc phục kịp thời sẽ rất khó khăn trong việc hoàn thành nhiệm vụ được giao. Hơn nữa, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra một yêu cầu cấp bách đối với Việt Nam phải cải cách và điều chỉnh cơ chế chính sách, đặc biệt là các chính sách trợ cấp phù hợp với các cam kết quốc tế. Vì vậy, Ngân hàng Phát triển Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 108/2006/QĐ-TTg ngày 19 tháng 5 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở tổ chức lại Quỹ HTPT, để thực hiện chính sách TDĐT phát triển và TDXK của Nhà nước. Tên giao dịch quốc tế: The Vietnam Development Bank, Tên viết tắt: VDB. 2.1.2. Đặc điểm và tổ chức của Ngân hàng phát triển Việt Nam NHPT kế thừa mọi quyền lợi và trách nhiệm từ Quỹ HTPT. NHPT là một tổ chức tài chính Nhà nước, thực hiện chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển của Nhà nước. NHPT được tiếp nhận vốn ngân sách Nhà nước, vốn ODA do Chính phủ giao; huy động vốn của các thành phần kinh tế và vốn nước ngoài, nhận tiền gửi ủy thác của các tổ chức trong và ngoài nước. Hoạt động của NHPT không vì mục đích lợi nhuận, tỉ lệ dự trữ bắt buộc bằng 0%, không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi. NHPT được Chính phủ đảm bảo khả năng thanh toán, được miễn nộp thuế và các khoản nộp ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật Tổ chức và hoạt động của NHPT được quy định theo điều lệ tổ chức và hoạt động do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Với tính chất cho vay ưu đãi, hoạt động cho vay đầu tư của NHPT hiện nay có lãi suất thấp hơn lãi suất cho vay thương mại trên thị trường. v Tổ chức bộ máy của NHPTVN: Hội đồng quản lý Bộ máy điều hành Ban kiểm soát Các sở giao dịch Các chi nhánh NHPT tại địa phương Văn phòng đại diện tại nước ngoài Văn phòng đại diện trong nước Hình 2.1 : Sơ đồ tổ chức bộ máy của NHPTVN 2.2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG XUẤT KHẨU TẠI NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN VIỆT NAM 2.2.1. Tình hình hoạt động tín dụng của NHPTVN NHPTVN là một tổ chức tín dụng được thành lập để thực hiện chính sách TDĐT và TDXK của Nhà nước. Trong những năm qua, NHPT đã góp phần quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước… NHPT hỗ trợ vốn cho DN thông qua hình thức tín dụng với mức lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường, nhờ đó DN có được vốn với chi phí vốn thấp, có thể sản xuất ra sản phẩm với giá thành thấp hơn, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế - xã hội và đem lại lợi nhuận. Về TDĐT, NHPT đã phối hợp với các Bộ, ngành và DN thực hiện rà soát các dự án nhằm đảm bảo tập trung vốn cho các dự án có hiệu quả cần đẩy nhanh tiến độ để hoàn thành đầu tư, đưa vào sử dụng, đảm bảo hỗ trợ vốn cho các dự án có ý nghĩa lớn về an sinh xã hội (xử lý rác thải, cấp nước sinh hoạt, y tế, giáo dục), các dự án điện và dự án trọng điểm của Chính phủ. Ngoài ra NHPT còn có các biện pháp tạo điều kiện về tín dụng cho khách hàng (ví dụ: bảo đảm tiền vay, nâng mức tạm ứng vốn, linh hoạt về hình thức hỗ trợ...). Bên cạnh đó nhằm tạo điều kiện hỗ trợ các DN (trong đó chủ yếu là DN vừa và nhỏ) thiếu vốn sản xuất kinh doanh, trong năm 2008, NHPT cũng đã thí điểm hình thức cho vay ngắn hạn đối với các dự án đang vay vốn TDĐT tại NHPT. Mặc dù mới triển khai thí điểm trong thời gian ngắn, hình thức này đã phát huy hiệu quả hỗ trợ các DN, tăng cường phát huy công suất của các dự án, góp phần ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh của các DN. Hiện tại NHPT đang chủ trương đẩy mạnh hình thức tín dụng này nhằm hỗ trợ được nhiều hơn cho các DN, đặc biệt là các DN vừa và nhỏ theo chỉ đạo của Chính phủ. NHPT còn đẩy mạnh TDXK nhằm góp phần thúc đẩy xuất khẩu, giảm nhập siêu cho nền kinh tế; NHPT đã đảm bảo đủ nhu cầu vốn để thực hiện xuất khẩu cho các DN. Mức tăng trưởng TDXK của NHPT tăng nhanh qua các năm, đặc biệt là năm 2008. Doanh số cho vay xuất khẩu năm 2008 đã đạt được 25.300 tỷ đồng, gấp hơn 3 lần so với năm 2007. Dư nợ bình quân cả năm 2008 dự kiến đạt khoảng 10.200 tỷ đồng; gấp 2,55 lần so với kế hoạch được giao đầu năm, bằng 136% so với kế hoạch điều chỉnh; đạt an toàn tín dụng, nợ quá hạn chỉ chiếm 1,8% dư nợ. Kể từ khi thành lập, NHPTVN đã và đang quản lý cho vay trên 3.260 dự án với tổng mức vốn đầu tư khoảng 430.000, trong đó vốn NHPT cho vay đạt trên 190.000 tỷ đồng. Hiện nay ngoài các nghiệp vụ TDĐT, TDXK, vốn ODA cho vay lại, NHPT đang là đơn vị bảo lãnh cho h
Tài liệu liên quan