Chuyên đề Hoàn thiện công tác huy động vốn tại NHNN&PTNT Việt Nam chi nhánh Nam Hà Nội

Ngày nay, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là một su thế tất yếu của mọi nền kinh tế trên thế giới. Bởi vì, chỉ có sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới thì nền kinh tế của một quốc gia mới có thể phát huy hết những thế mạnh của mình, đồng thời tiếp thu được những tinh hoa của thế giới. Và cùng với sự hội nhập thì một điều tất yếu là các doanh nghiệp sẽ phải đương đầu với sự cạnh tranh khốc liệt của các doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài, điều đó đời hỏi các doanh nghiệp luôn phải đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới trang thiết bị công nghệ. Do đó cần có một thị trường tài chính hiện đại để đáp ứng nhu cầu huy động vốn của các doanh nghiệp, cũng như các thành phần kinh tế khác. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, việc đẩy mạnh vai trò của các ngân hàng trên thị trường tài chính là một điều tất yếu. Hiện nay, hệ thống ngân hàng thương mại nước ta đã đạt được những bước phát triển rất mạnh mẽ, và đã trở thành một mắt xích quan trọng cấu thành sự vận động liên tục của nền kinh tế. Cùng với các thành phần khác trong thị trường tài chính hệ thống ngân hàng thương mại đóng một vai trò quan trọng trong việc tham gia bình ổn thị trường tiền tệ, kìm chế lạm phát, phát triển thị trường ngoại hối. Trong những năm qua các ngân hàng thương mại nước ta đã thực hiện huy đông được một lượng vốn đánh kể cho việc phát triển kinh tế, từ đó tạo công ăn việc làm cho người lao động. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam Chi nhánh Nam Hà Nội là một chi nhánh của ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. Ngay từ khi thành lập, ngân hàng đã không ngừng từng bước lớn mạnh bắt nhịp với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Thấy được tầm quan trọng của công tác huy động vốn đối với hoạt động của mình, chi nhánh đã đề ra rất nhiều những biệm pháp để tăng cường công tác huy động vốn. Vì vậy, sau quá trình thực tập tại chi nhánh em đã chọn đề tài: “Hoàn thiện công tác huy động vốn tại NHNN&PTNT Việt Nam chi nhánh Nam Hà Nội” Nội dung chuyên dề gồm có 3 chương: Chương1 - Công tác huy động vốn của Ngân hàng thương mại Chương2 - Thực trạng công tác huy động vốn của NHNN&PTNT Việt Nam Chi nhánh Nam Hà Nội Chương3 - Giải pháp hoàn thiện công tác huy động vốn tại NHNN&PHNT Việt Nam chi nhánh Nam Hà Nội Vì kinh nghiệm thực tế của bản thân còn nhiều hạn chế, nên những vấn đề mà em xem xét trong nội dung chuyên đề thực tập còn rất nhiều thiếu góp ý. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo, các anh chị, cô chú tại NHNN&PHNT Việt Nam chi nhánh Nam Hà Nội để đề tài được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo và giúp đỡ tận tình của thầy giáo tiến sĩ Trần Đăng Khâm và toàn thể nhân viên NHNN&PTNT chi nhánh Nam Hà Nội đã giúp đỡ em trong quá trình hoàn thành chuyên đề này.

docx69 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1159 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Hoàn thiện công tác huy động vốn tại NHNN&PTNT Việt Nam chi nhánh Nam Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Ngày nay, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là một su thế tất yếu của mọi nền kinh tế trên thế giới. Bởi vì, chỉ có sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới thì nền kinh tế của một quốc gia mới có thể phát huy hết những thế mạnh của mình, đồng thời tiếp thu được những tinh hoa của thế giới. Và cùng với sự hội nhập thì một điều tất yếu là các doanh nghiệp sẽ phải đương đầu với sự cạnh tranh khốc liệt của các doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài, điều đó đời hỏi các doanh nghiệp luôn phải đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới trang thiết bị công nghệ. Do đó cần có một thị trường tài chính hiện đại để đáp ứng nhu cầu huy động vốn của các doanh nghiệp, cũng như các thành phần kinh tế khác. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, việc đẩy mạnh vai trò của các ngân hàng trên thị trường tài chính là một điều tất yếu. Hiện nay, hệ thống ngân hàng thương mại nước ta đã đạt được những bước phát triển rất mạnh mẽ, và đã trở thành một mắt xích quan trọng cấu thành sự vận động liên tục của nền kinh tế. Cùng với các thành phần khác trong thị trường tài chính hệ thống ngân hàng thương mại đóng một vai trò quan trọng trong việc tham gia bình ổn thị trường tiền tệ, kìm chế lạm phát, phát triển thị trường ngoại hối. Trong những năm qua các ngân hàng thương mại nước ta đã thực hiện huy đông được một lượng vốn đánh kể cho việc phát triển kinh tế, từ đó tạo công ăn việc làm cho người lao động. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam Chi nhánh Nam Hà Nội là một chi nhánh của ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. Ngay từ khi thành lập, ngân hàng đã không ngừng từng bước lớn mạnh bắt nhịp với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Thấy được tầm quan trọng của công tác huy động vốn đối với hoạt động của mình, chi nhánh đã đề ra rất nhiều những biệm pháp để tăng cường công tác huy động vốn. Vì vậy, sau quá trình thực tập tại chi nhánh em đã chọn đề tài: “Hoàn thiện công tác huy động vốn tại NHNN&PTNT Việt Nam chi nhánh Nam Hà Nội” Nội dung chuyên dề gồm có 3 chương: Chương1 - Công tác huy động vốn của Ngân hàng thương mại Chương2 - Thực trạng công tác huy động vốn của NHNN&PTNT Việt Nam Chi nhánh Nam Hà Nội Chương3 - Giải pháp hoàn thiện công tác huy động vốn tại NHNN&PHNT Việt Nam chi nhánh Nam Hà Nội Vì kinh nghiệm thực tế của bản thân còn nhiều hạn chế, nên những vấn đề mà em xem xét trong nội dung chuyên đề thực tập còn rất nhiều thiếu góp ý. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo, các anh chị, cô chú tại NHNN&PHNT Việt Nam chi nhánh Nam Hà Nội để đề tài được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo và giúp đỡ tận tình của thầy giáo tiến sĩ Trần Đăng Khâm và toàn thể nhân viên NHNN&PTNT chi nhánh Nam Hà Nội đã giúp đỡ em trong quá trình hoàn thành chuyên đề này. CHƯƠNG 1:CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Khái quát về ngân hàng thương mại 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của ngân hàng thương mại Hình thức sơ khai của các ngân hàng thương mại được hình thành và phát triển từ hoạt động kinh doanh của thợ vàng trước đây. Các thợ vàng trước đây thường là những người giàu có, vì vậy họ có điều kiện về vốn để thực hiện hoạt động cho vay để thu lãi. Ngoài ra, để đáp ứng nhu cầu cất trữ tiền, họ thường có két tốt để cất trữ tiền một cách an toàn. Do yêu cầu cất trữ tiền của các lãnh chúa, cũng như các nhà buôn… các thợ vàng cũng thực hiện luôn việc cất trữ tiền hộ để thu các khoản phí. Và chính hoạt động cất trữ hộ đã làm tăng lượng tiền tạm có của các thợ vàng. Thực tiễn cho thấy luôn có một lượng tiền được gửi vào và một lượng tiền được rút ra, song tất cả người gửi tiền và người rút tiền đều không thực hiện cùng một lúc, đã tạo số dư thường xuyên trong két. Do vậy, họ có thể sử dụng tạm thời khoản tiền này để thực hiện hoạt động cho vay, từ đây bắt đầu hình thành các hoạt động tín dụng sơ khai của ngân hàng thương mại. Mặt khác, với việc mỗi một quốc gia đều có một đồng tiền riêng được sử dụng trong hoạt động lưu thông trao đổi mua bán hàng hoá đã tạo điều kiện cho những người thợ vàng thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ bằng cách đổi ngoại tệ lấy bản tệ và ngược lại. Lợi nhuân thu được là chênh lệch giữa giá mua và giá bán. Đó là hoạt động mua bán ngoại tệ sơ khai, từ đó hính thành lên hoạt động trao đổi mua bán ngoại tệ của các ngân hàng thương mại. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật cũng như của toàn bộ nền kinh tế thế giới, thì quá trình hoạt động kinh doanh trên thị trường của các ngân hàng thương mại cũng đã có rất nhiều thay đổi quan trọng. Ngày nay, các ngân hàng hoạt động dưới rất nhiều các hình thức khác nhau để đáp ứng nhu cầu hoạt động riêng. Quá trình gia tăng nguồn vốn để đưa và kinh doanh đã dẫn đến sự ra đời và phát triển của các ngân hàng cổ phần. Và để tăng cường khả năng kiểm soát, cũng như điều tiết kinh tế của nhà nước đã dẫn đến sự hình thành lên các ngân hàng quốc doanh, ngoài ra các ngân hàng còn tồn tại dưới hình thức là các ngân hàng liên doanh, các tập đoàn ngân hàng… Và song song với quá trình đó là quá trình đa dạng hoá trong hoạt động của các ngân hàng, nhiều nghiệp vụ ngân hàng mới đang ngày càng phát triển. Ngân hàng thương mại từ chỗ chỉ cho vay ngắn hạn là chủ yếu đã đi đến cho vay trung và dài hạn, cho vay để đầu tư vào bất động sản. Ngoài ra, nhiều ngân hàng còn tiến hành cho vay tiêu dùng, kinh doanh chứng khoán, cho thuê… Bên cạnh đó, các hình thức huy động vốn cũng trở lên ngày càng phong phú. Bên cạnh các hình thức huy động vốn truyền thống như nhận tiền gửi, các ngân hàng còn mở rộng các hình thức đi vay như vay ngân hàng trung ương, vay trên thị trường tín dụng. Ngày nay, tuy hệ thống ngân hàng thương mại cũng như ngân hàng quốc doanh đã trở lên rất đa dạng và phong phú về loại hình hoạt động, cũng như các dịch vụ cung cấp, nhưng nhìn chung các hoạt động chủ yếu của các ngân hàng thương mại vẫn không thay đổi về bản chất, mà nó chỉ tiện lợi hơn, đa dạng hơn. Sự hình thành và phát triển của hệ thống ngân hàng ngay từ đầu đã luôn đóng vai trò quan trọng là thước đo, là huyết mạch và còn là thước đo cho sự hoạt động của một nền kinh tế. Tóm lại, ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế. Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ, hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Thực tế, rất nhiều tổ chức trung gian tài chính- bao gồm cả các công ty kinh doanh chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán, quỹ tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ ngân hàng. Ngược lại, ngân hàng cũng đang mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ về bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện nhiệm vụ môi giới khác. Mặc dù đã trải qua quá trình phát triển lâu dài, nhưng cho đến nay khái niệm về cụ thể về Ngân hàng thương mại vẫn chưa được thực sự thống nhất, mà vẫn còn có nhiều các khái niệm khác nhau. Theo cách tiếp cận trên phương diện các loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp thì cho rằng: “ Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tài chính, cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế” . Cũng có một quan điểm khác cho rằng: “ Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp hoạt động và kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và tín dụng “ . Và theo luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội khoá X ( kỳ họp thứ hai, từ ngày 21 tháng 11 đến ngày 12 tháng 12 năm 1997) thông qua thì “ Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”. Như vậy, ta có thể thấy có rất nhiều những quan điểm cũng như những cách nhìn nhận khác nhau về khái niệm ngân hàng thương mại. Các quan điểm nhìn nhận về khái niệm ngân hàng thương mại tuỳ thuộc vào từng quốc gia, từng khu vực, cũng như từng khía cạnh. Tuy nhiên nhìn chung thì các quan niệm này đều cho thấy các hoạt động và các dịch vụ mà các ngân hàng cung cấp. Đặc điểm Đặc điểm đầu tiên phải kể đến của các ngân hàng thương mại chính là nó có một sự ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển kinh tế. Bởi vì, ngân hàng là tổ chức huy động tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế- xã hội đều gửi tiền trong ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò là người thủ quỹ của toàn xã hội. Thu nhập từ ngân hàng là thu nhập quan trọng của nhiều ngân hàng. Ngoài ra ngân hàng còn là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với nhà nước ( thành phố, tỉnh ). Đối với các doanh nghiệp, ngân hàng là tổ chức cung cấp hệ thống tín dụng để phục vụ cho việc mua sắm trang thiết bị, xây dựng nhà máy, mua hàng hoá dự trữ. Khi doanh nghiệp hoặc người tiêu dùng phải thanh toán cho các khoản mua hàng hoá và dịch vụ, họ thường sử dụng séc, uỷ nhiệm chi, thẻ tín dụng hay tài khoản điện tử… Và khi cần thông tin tài chính hay lập kế hoạch tài chính, họ thường đến các ngân hàng để được tư vấn. Các khoản tín dụng của ngân hàng cho Chính phủ ( thông qua mua chứng khoán Chính phủ ) là nguồn tài chính qua trọng cho đầu tư và phát triển. Ngân hàng thực hiện các chính sách về kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ, vì vậy là công cụ quan trong trong chính sách kinh tế của Chính phủ nhằm phát triển kinh tế bền vững. Do đó vấn đề nghiên cứu và hiểu một cách cặn kẽ về loại hình tổ chức này để từ đó làm cơ sở cho việc đề ra các phương thức vận hành và quản lý nó một cách hiệu quả là một điều hết sức cần thiết. Trong thị trường tài chính thì các ngân hàng thương mại đóng vai trò là một trung gian tài chính. Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp súc với hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế là các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn; và thứ hai là các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hoá, dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm. Sự tồn tại của hai loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với ngân hàng. Điều tất yếu sẽ chuyển tiền từ nhóm thứ hai đến nhóm thứ một nếu cả hai cùng có lợi. Tuy nhiên quan hệ trực tiếp nhiều giới hạn do sự không phù hợp về quy mô thời gian và không gian… Điều này cảm trở quan hệ trực tiếp phát triển và là điều kiện nảy sinh trung gian tài chính. Do chuyên môn hoá các trung gian tài chính sẽ giảm được các chi phí giao dịch. Mặt khác, các ngân hàng sẵn sàng chấp nhận các khoản cho vay nhiều rủi ro trong khi lại phát hành các loại chứng khoán ít rủi ro cho người gửi tiền. Thực tế ngân hàng đã tham gia vào kinh doanh rủi ro. Đặc điểm tiếp theo phải kể đến là ngân hàng thương mại đóng vai trò tạo ra các phương tiện thanh toán cho nền kinh tế. Tiền có một vai trò quan trọng là lam phương tiện thanh toán. Giấy nợ do ngân hàng phát hành với ưu điểm nhất định đã đựơc sự chấp nhân rộng rãi. Như vậy, ban đầu các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán thay cho tiền kim loại dựa trên số tiền kim loại đang nắm giữ. Với nhiều ưu thế , dần dần giấy nợ của ngân hàng đã thay thế cho tiền kim loại làm phương tiện lưu thông và phươn tiện cất trữ nó trở thành tiền giấy. Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng nhận thấy họ có số dư tiền gửi trên tài khoản thanh toán, họ có thể chi trả để có được hàng hoá và các dịch vụ theo yêu cầu. Theo quan điểm hiện đại, đại lượng tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận. Thứ nhất là tiền giấy trong lưu thông, thứ hai là số dư tài khoản tiền gửi giao dịch của các khách hàng tại ngân hàng, thứ ba là tiền gửi trên các khoản tài khoản gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn… Khi ngân hàng cho vay, số dư tiền gửi trên tài khoản của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng mua hàng hoá hay dịch vụ. Do đó bằng việc cho vay, các ngân hàng đã tạo ra phương tiên thanh toán. Toàn bộn hệ thống ngân hàng cũng tạo ra phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Khi khách hàng sử dụng một khoản tiền vay để chi trả thì sẽ tạo lên một khoản thu ( tức làm tăng số dư tiền gửi ) của một khách hàng khác tại một ngân hàng khác từ đó tạo ra các khoản cho vay mới. Trong khi không một ngân hàng nào có thể cho vay lớn hơn dự trữ dư thừa, toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể toạ ra một khối lượng tiền gửi gấp bội thông qua hoạt động cho vay Ngoài ra các ngân hàng thương mại còn đóng vai trò của trung gian thanh toán. Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá dịch vụ. Để việc thanh toán được nhanh chóng và thuận tiện, đồng thời tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra nhiều hình thức thanh toán khác nhau như thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ… cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ thông qua ngân hàng Trung ương hoặc thông qua các trung gian thanh toán. 1.1.2. Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại Cùng với sự phát triển của kinh tế, thì các hoạt động của ngân hàng thương mại cũng dần dần được mở rộng và trở lên đa dạng hơn. Các ngân hàng thương mại ngày nay là một doanh nghiệp cung cấp rất nhiều các dịch vụ khác nhau cho công chúng và doanh nghiệp. Thành công của một ngân hàng phụ thuộc vào năng lực cung cấp và xác định các dịch vụ tài chínhàm xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách có hiệu quả. Dưới đây là một số những dịch vụ mà các ngân hàng thương mại thường hay cung cấp cho khách hàng. Mua bán ngoại tệ Dịch vụ mau bán, trao đổi ngoại tệ là một trong những dịch vụ đầu tiên mà ngân hàng thực hiện. Với dịch vụ này, các ngân hàng thương mại sẽ đứng ra mua một loaị ngoại tệ này để đổi lấy một loại ngoại tệ khác, từ đó thu về chênh lệch và hưởng phí giao dịch. Hiện nay điều này trở lên rất quan trọng đối với thương mại quốc tế, đặc biệt là đối với ngành du lịch. Đồng thời, dịch vụ này còn là một kênh huy động vốn cho ngân hàng, cho vay ngoại tệ. Nhận tiền gửi Cho vay được coi là một hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã tìm mọi cách để huy động tiền. Và một trong những nguồn quan trọng nhất trong việc huy động vốn của các ngân hàng thương mại đó là các khoản tiền gửi thanh toán và tiết kiệm của khách hàng. Ngân hàng mở dịch vụ tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền với cam kết trả đúng hạn. Trong cuộc cạnh tranh để giành được các khoản tiền gửi, các ngân hàng đã trả lãi cho khoản tiền gửi như một phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn sàng hy sinh nhu cầu chi tiêu trước mắt và cho phép ngân hàng sử dụng tạm thời số tiền này để đưa vào kinh doanh. Cho vay Hoạt động cho vay cũng là một trong những hoạt động đầu tiên của các ngân hàng thương mại. Hiện nay, các ngân hàng thương mại có các hình thức cho vay như sạu: - Cho vay thương mại và chiết khấu thương phiếu: Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng thương mại đã chiết khấu thương phiếu mà thực ra là cho vay đối với người bán ( người bán chuyển các khoản phải thu cho ngân hàng để lấy tiền trước). Sau đó ngân hàng cho vay trực tiếp đối với các khách hàng ( là người mua ), giúp họ có vốn để mua hàng hoá để mở rộng sản xuất kinh doanh. - Cho vay tiêu dùng:Trong giai đoạn đầu thành lập, các ngân hàng thương mại đều không tích cực với hoạt động cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình trong việc tiêu dùng, bởi vì họ tin rằng hoạt động cho vay tiêu dùng hàm chứa rủi ro cao, rất dễ dẫn đến phá sản. Tuy nhiên sau đó, cùng với sự phát triển không ngừng của các nền kinh tế, kéo theo sự tăng kên của thu nhập cá nhân, nhu cầu cho tiêu của cá nhân, cũng như hộ gia đình tăng cao hoạt động cho vay tiêu dùng cũng theo đó mà trở thành một hoạt động sinh lới cao. Mặt khác, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường ngày càng trở lên khốc liệt trong việc huy động vốn, điều này đã buộc các ngân hàng phải hướng đến các cá nhân và hộ gia đình như một khách hàng tiềm năng. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển. Mặc dù hiện nay tốc độ đã chậm lại do cành tranh tín dụng ngày càng lớn trong khi nền kinh tế phát triển chậm lại. Tuy nhiên cho vay tiêu dùng vẫn luôn là một hoạt động quan trong của các ngân hàng thương mại. -Cho vay tài trợ cho các dự án: Ngày nay, ngoài các hoạt động mang tính truyền thống như là cho vay ngắn hạn, các ngân hàng thương mại còn tham gia vào các hoạt động tài trợ và đồng tài trợ cho các dự án như xây dựng nhà máy , phát triển công nghệ cao, một số ngân hàng còn tham gia vào hoạt động cho vay để đàu tư vào đất. Hoạt động cho vay tài trợ cho các dự án nói chung thường hàm chứa rủi ro cao. Do vậy, hoạt động này thường được thực hiện với một công, hoặc một số công ty đầu tư, các thành viên của công ty sở hữu ngân hàng, cùng với sự hợp tác của các công ty khác để chua sẻ rủi ro. Ngoài ra, các ngân hàng còn tham gia vào việc tài trợ cho các chương trình văn hoá xã hội, các chương trình thể thao, các trương trình văn hoá xã hội… Bảo quản tài sản hộ Các ngân hàng thực hiệc việc lưu giữ vàng, các giấy tời có giá và các tài sảm khác cho khách hàng trong két (vì vậy còn gọi là dịch vụ cho thuê két). Ngân hàng thường giữ hộ các tài sản tài chính, giấy tờ cầm cố, hoặc những giấy tờ quan trọng khác của khách hàng với nguyên tắc an toán bí mật và thuận tiện. Dịch vụ này phát triển cùng với nhiều dịch vụ khác như mau bán hộ các giấy tờ có giá khác cho khách, thanh toán lãi hoặc cổ tức hộ… Mặt khác, các giấy chứng nhận do ngân hàng ký và phát cho khách hàng (ghi nhận về tái sản đang được lưu giữ ) có thể trao đổi mau bán như một loại tiền và đây là nền tảng cho việc hình thành các loại hình thanh toán hiện nay như séc, các loại thẻ… Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng không chỉ thực hiện bảo quản mà còn thay mặt khách hàng thực hiện các hoạt động chi trả hộ khách hàng. Và quá trình thanh toán thông qua ngân hàng đã mở đầu cho việc thanh toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không cần phải đến ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách hàng, sau đó khách hàng chỉ việc mang giấy đến ngân hàng sẽ nhận được tiền. Phương thức thanh toán không dùng tiền mặt có rất nhiều những tiện ích như : an toán, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí… đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và tiết kiệm cho phí cho khách hàng, thông qua đó cũng phần nào nâng cao thu nhập cho khách hàng. Khi ngân hàng mở chi nhánh, phạm vi thanh toán của ngân hàng được mở rộng, càng toạ ra nhiều tiện ích hơn. Điều này khuyến khích việc gửi tiền vào ngân hàng để nhờ ngân hàng thanh toán hộ. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, bên cạnh các thể thức thanh toán như séc, uỷ nhiệm chi , nhờ thu, đã phát triển hình thức thanh toán mới bằng thẻ… Quản lý ngân quỹ Các ngân hàng mở tài khoản và tiền gửi của phần lớn các doanh nghiệp và cá nhân. Nhờ đó, các ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khách hàng. Đó cũng là điều kiện để ngân hàng có nhiều kinh nghiệm trong việc quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu ngân, nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quỹ, trong dó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặn dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lời và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán. Tài trợ cho các hoạt động của chính phủ Các hoạt động của ngân hàng thương mại luôn có tác động cũng như ảnh hưởng rất lớn đến sự
Tài liệu liên quan