Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời ký quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Công nghiệp hoá, hiện đại hoáđã, đang và sẽ là xu hướng phát triển chung của tất cả các quốc gia trên thế giới. Đó cũng là con đường phát triển tất yếu của nước ta đểđi tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh” công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ là công cuộc xây dựng kinh tế mà chính là quá trình biến đổi, cách mạng sâu sắc mọi lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học và con người), làm cho xã hội phát triển lên một trạng thái mới về chất. Nước ta thuộc vào nhóm đang phát triển, là một trong những nước nghèo trên thế giới, nông nghiệp còn chưa thoát khỏi xã hội truyền thống để sang “xã hội văn minh công nghiệp”. Do đó khách quan phải tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá là nội dung, phương thức là con đường phát triển nhanh có hiệu quả. Đối với nước ta quá trình công nghiệp hoá còn gắn chặt với hiện đại hoá, nó làm cho xã hội chuyển từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại làm biến đổi căn bản bộ mặt của xã hội trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị.Công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ giúp chúng ta lực mới để tăng trưởng nhanh tốc độ phát triển, không những thế nhờ có hiện đại hoá chúng ta cóđiều kiện đi tắt, đón đầu đó là bài toán tổng hợp để giải bài toán phát triển đất nước. Nghiên cứu công nghiệp hoá hiện đại hoáđất nước trong nền kinh tế là một vấn đề bức xúc, nóng bỏng trong nhiều năn nay vàđược đông đảo các nhà nghiên cứu, trong đó cóđội ngũ sinh viên quan tâm. Nghiên cứu nhằm nhận thức rõ từđóđưa ra những giải pháp nhằm phát huy sử dụng tối đa mọi nguồn lực trong nước và tranh thủ sựủng hộ quốc tế phục vụ sự công nghiệp hoá -hiện đại hoá . Cùng với sự nỗ lực cố gắng chung của toàn Đảng, toàn dân trong công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế. Là một công dân tương lai của đất nước, em mong muốn được góp phần nhỏ bé của mình nghiên cứu các vấn đề cơ bản về công nghịêp hoá - hiện đại hoáở Việt Nam, vì thế nên em chọn đề tài:“Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời ký quáđộ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” Với chút hiểu biết ít ỏi của mình, em mạnh dạn xin được trình bày một sốý kiến cá nhân mình với hy vọng góp phần nhỏ bé làm phong phú thêm hệ thống lý luận trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoáở nước ta. Em rất mong được sự góp ý của thầy cô và các bạn quan tâm đến đề tài này để bài viết hoàn thiện hơn.

doc14 trang | Chia sẻ: lamvu291 | Lượt xem: 1222 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời ký quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A - PHẦNMỞĐẦU Công nghiệp hoá, hiện đại hoáđã, đang và sẽ là xu hướng phát triển chung của tất cả các quốc gia trên thế giới. Đó cũng là con đường phát triển tất yếu của nước ta đểđi tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh” công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ là công cuộc xây dựng kinh tế mà chính là quá trình biến đổi, cách mạng sâu sắc mọi lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học và con người), làm cho xã hội phát triển lên một trạng thái mới về chất. Nước ta thuộc vào nhóm đang phát triển, là một trong những nước nghèo trên thế giới, nông nghiệp còn chưa thoát khỏi xã hội truyền thống để sang “xã hội văn minh công nghiệp”. Do đó khách quan phải tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá là nội dung, phương thức là con đường phát triển nhanh có hiệu quả. Đối với nước ta quá trình công nghiệp hoá còn gắn chặt với hiện đại hoá, nó làm cho xã hội chuyển từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại làm biến đổi căn bản bộ mặt của xã hội trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị...Công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ giúp chúng ta lực mới để tăng trưởng nhanh tốc độ phát triển, không những thế nhờ có hiện đại hoá chúng ta cóđiều kiện đi tắt, đón đầu đó là bài toán tổng hợp để giải bài toán phát triển đất nước. Nghiên cứu công nghiệp hoá hiện đại hoáđất nước trong nền kinh tế là một vấn đề bức xúc, nóng bỏng trong nhiều năn nay vàđược đông đảo các nhà nghiên cứu, trong đó cóđội ngũ sinh viên quan tâm. Nghiên cứu nhằm nhận thức rõ từđóđưa ra những giải pháp nhằm phát huy sử dụng tối đa mọi nguồn lực trong nước và tranh thủ sựủng hộ quốc tế phục vụ sự công nghiệp hoá -hiện đại hoá . Cùng với sự nỗ lực cố gắng chung của toàn Đảng, toàn dân trong công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế. Là một công dân tương lai của đất nước, em mong muốn được góp phần nhỏ bé của mình nghiên cứu các vấn đề cơ bản về công nghịêp hoá - hiện đại hoáở Việt Nam, vì thế nên em chọn đề tài:“Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời ký quáđộ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” Với chút hiểu biết ít ỏi của mình, em mạnh dạn xin được trình bày một sốý kiến cá nhân mình với hy vọng góp phần nhỏ bé làm phong phú thêm hệ thống lý luận trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoáở nước ta. Em rất mong được sự góp ý của thầy cô và các bạn quan tâm đến đề tài này để bài viết hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn PGS – TS Đào Phương Liên đã giúp đỡ em trong quá trình tìm hiểu môn học Kinh tế chính trị Mác - Lênin và thực hiện đề tài này. B - NỘIDUNGCHÍNH I. Lý luận về công nghiệp hoá - hiện đại hoá 1, Quan điểm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) Trước đây, vào thế kỷ XVII, XVIII, khi cuộc cách mạng công nghiệp được tiến hành ở Tây Âu, công nghiệp hóa được hiểu là quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc. Nhưng theo dòng thời gian, khái niệm công nghiệp hóa luôn có sự thay đổi cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, của khoa học công nghệ, tức là khái niệm công nghiệp hóa mang tính lịch sử. Dựa trên việc kế thừa có chọn lọc những tri thức văn minh của nhân loại và rút kinh nghiệm trong lịch sử tiến hành công nghiệp hóa, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ bẩy khoá VI vàĐại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng Cộng Sản Việt Nam xác định: công nghiệp hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các nền hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế- xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học- công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao.Đảng ta đề ra mục tiêu “phấn đấu trong giai đoạn 2001-2010 đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Điều này hứa hẹn mở ra những bước đột phá trong nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội, góp phần thực hiện “dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Như vậy, công nghiệp hóa theo tư tưởng mới là không bó hẹp trong phạm vi trình độ các lực lượng sản xuất đơn thuần, kỹ thuật đơn thuần để chuyển lao động thủ công thành lao động cơ khí như trước đây mà bao hàm cả về các hoạt động sản xuất kinh doanh, cả về ngành dịch vụ và quản lí kinh tế - xã hội, được sử dụng bằng các phương tiện và các phương pháp tiên tiến hiện đại cùng với kỹ thuật và công nghệ cao. 2, Những đặc điểm chủ yếu của CNH, HĐH ở Việt nam CNH, HĐH ở nước ta có nhiều nét đặc thù cả về nội dung, hình thức, quy mô, cách thức tiến hành và mục tiêu chiến lược. Những nét đặc thù này được thểhiện khái quát ở một sốđiểm sau đây: - Thứ nhất: Quá trình CNH, HĐH ở nước ta là một quá trình rộng lớn, phức tạp và toàn diện. Có nghĩa là nó diễn ra trong các tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, có sự kết hợp giữa các bước đi tuần tự và các bước đi nhảy vọt, kết hợp giữa phát triển theo chiều rộng và phát triển theo chiều sâu, kết hợp giữa biến đổi về lượng và biết đổi về chất,… của các tác nhân tham gia quá trình. - Thứ hai: Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng khoa học, côngnghệđang diễn ra mạnh mẽ, nước ta không thể chờ thực hiện xong CNH rồi mới tiến hành HĐH, mà phải thực hiện đồng thời vàđồng bộ CNH và HĐH nhưmột quá trình thống nhất. Riêng về mặt kinh tế, có thể nhìn nhận quá trình này từ hai mặt thống nhất với nhau: Thứ nhất, đó là quá trình xây dựng nền công nghiệp hiện đại, cũng có nghĩa là tạo lập nền tảng vật chất- kỹ thuật (lực lượng sản xuất) của nền kinh tế; và thứ hai, đó là quá trình cải cách hệthống thể chế và cơ chế kinh tế, từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường, hội nhập. - Thứ ba: Quá trình CNH, HĐH ở nước ta cần và có thểđược “rút ngắn”. Việc cần được “rút ngắn” ởđây làđòi hỏi khách quan của nhiệm vụ thoát khỏi tình trạng tụt hậu phát triển. Về cơ bản, cách để nước ta có thể thực hiện được CNH, HĐH rút ngắn bao gồm hai mặt: Thứ nhất, đạt và duy trì một tốc độ tăng trưởng cao hơn các nước đi trước liên tục trong một thời gian dài để rút ngắn khoảng cách chênh lệch về trình độ so với các nước đó; và thứ hai, lựa chọn vàáp dụng một phương thức CNH, HĐH cho phép bỏ qua một số bước đi vốn là bắt buộc theo kiểu phát triển tuần tự, đểđạt tới một nền kinh tế có trình độ phát triển cao hơn. Hai mặt này không đối lập mà có thể thống nhất với nhau, vàđang tiếp tục được làm rõđểđịnh hình sáng tỏ hơn con đường đẩy nhanh CNH, HĐH ở nước ta. - Thứ tư:ở nước ta, quá trình CNH, HĐH có quan hệ chặt chẽ với việc từng bước phát triển kinh tế tri thức. Trong thời gian qua, tại không ít diễn đàn khoa học và công trình nghiên cứu, mối quan hệ hai chiều giữa CNH, HĐH với phát triển kinh tế tri thức đã từng bước được làm rõ. Vềđại thể, có mạnh dạn đi ngay vào phát triển kinh tế tri thức mới có khả năng thay đổi phương thức vàđẩy nhanh tốc độ CNH, HĐH. Quá trình CNH, HĐH ở nước ta phải nắm bắt các tri thức và công nghệ mới nhất của thời đại để hiện đại hóa nông nghiệp và các ngành kinh tế hiện có, đồng thời phát triển nhanh các ngành công nghiệp và dịch vụ dựa vào tri thức, vào khoa học và công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành kinh tế tri thức. II. Thực trạng công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong thời ký quáđộ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: 1, Những thuận lợi và khó khăn của quá trình CNH, HĐH ởViệt Nam Bối cảnh trong nước và quốc tế ngày nay hàm chứa nhiều thuận lợi nhưng cũng đặt ra không ít khó khăn đối với quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam. Những thuận lợi và khó khăn này tồn tại đan xen với nhau, có thể chuyển hóa cho nhau. Việc phân định một cách tương đối và nhận thức rõ những thuận lợi và khó khăn cóý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc hoạch định mục tiêu, nội dung và phương pháp tiến hành CNH, HĐH cũng như việc thực hiện các nhiệm vụ trong thực tế. Vềđại thể, những thuận lợi và khó khăn được khái quát hóa ở một sốđiểm sau đây: a. Thuận lợi - Thứ nhất: Sau 20 năm đổi mới, thế và lực kinh tế của nước ta đã thay đổi mạnh mẽ, thể hiện ở những cái “mới” như: + Cấu trúc kinh tế mới: Cơ chế thị trường thay cho cơ chế kế hoạch hóa tập trung, nền kinh tế nhiều thành phần, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, vai trò và chức năng mới của Nhà nước, xã hội năng động hơn, các yếu tố cấu thành hệ thống kinh tế- xã hội được kết nối chặt chẽ hơn. + Tiềm lực kinh tế mới: GDP tăng trưởng với tốc độ khá cao liên tục trong nhiều năm, với cơ cấu ngành biến đổi theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. + Thế phát triển mới: Việt Nam đã thoát khỏi tình trạng cấm vận kinh tế, quan hệ thương mại vàđầu tư quốc tế mở rộng, đã gia nhập ASEAN, ASEM, APEC, WTO, ký kết Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ, v.v. + Động lực mới: Xuất hiện những động lực phát triển mới mạnh mẽ: cạnh tranh thị trường, sự mở rộng các cơ hội, sức mạnh của tinh thần dân tộc trong cuộc đua tranh phát triển. + Lực lượng- chủ thể phát triển mới: Năng lực của các chủ thể phát triển (Nhà nước, nhân dân, doanh gia, đội ngũ trí thức và quản trị) được nâng cao. Các yếu tố bên ngoài (vốn, công nghệ- kỹ thuật, tri thức, thị trường...) trở thành lực lượng thúc đẩy phát triển quan trọng. - Thứ hai: Bối cảnh quốc tế với những xu hướng ưu trội bao gồm toàn cầu hoá kinh tế, phát triển kinh tế tri thức, vàhoà bình, ổn định, hợp tác cùng phát triển giữa các quốc gia đã tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi cho quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam. Trong bối cảnh đó, Việt Nam đã vàđang theo đuổi thực hiện chính sách chủđộng hội nhập kinh tế quốc tế theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủvàđịnh hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường. Việc tham gia vào các quá trình liên doanh, liên kết, hợp tác song phương vàđa phương, hợp tác khu vực và quốc tế của nước ta góp phần phát huy hữu hiệu lợi thế so sánh của đất nước, thu hút được những nguồn lực dồi dào về vốn, công nghệ, tri thức, kỹ năng,… của thế giới cho công cuộc CNH, HĐH. Bên cạnh đó, việc tham gia vào toàn cầu hóa kinh tế cũng tạo động lực cho việc đẩy mạnh những cải cách trong nước theo hướng hiện đại, phù hợp với khung khổ chung của quốc tế. - Thứ ba: Là một nước tiến hành CNH muộn, Việt Nam có thể tận dụngđược những lợi thế của “nước đi sau”. Bên cạnh việc thu hút những nguồn lực vật chất và trí tuệ quan trọng như nêu trên, các nước đi sau như Việt Nam còncó thể học hỏi kinh nghiệm phong phú về CNH, HĐH của các nước đi trước. Với những kinh nghiệm đổi mới của chính bản thân mình, Việt Nam cóđiều kiện để học hỏi và sáng tạo liên quan đến nhiều khía cạnh của CNH, HĐH. Một lợi thế nữa của nước đi sau là nền kinh tế nước ta dễ chuyển đổi cơ cấu, vì không lệ thuộc nhiều vào những cơ sở vật chất đã có(các phí tổn không phải là quá lớn khi thay đổi những cái cũ cần thay đổi). Điều này tạo dễ dàng cho chúng ta bắt tay vào phát triển kinh tế theo các định hướng cơ cấu đã chọn lựa, bao gồm cả cơ cấu ngành, cơ cấu vùng và cơ cấu thành phần kinh tế. - Thứ tư: Nước ta có vị tríđịa kinh tế thuận lợi, nằm ở trung tâm vùng kinh tế năng động Đông Nam Á, thuận lợi cho việc giao lưu và hội nhập quốc tế. Nước ta có nguồn tài nguyên thiên nhiên tương đối phong phúđể phát triển một số ngành công nghiệp quan trọng. Đặc biệt, nước ta có lực lượng lao động dồi dào, cơ cấu trẻ và giá nhân công thấp, năng lực trí tuệ con người Việt Nam không thua kém các nước, tiếp thu nhanh các tri thức mới, dễđào tạo, có khảnăng sáng tạo. Bên cạnh đó, truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam lànền tảng cho sự phát triển các khả năng sáng tạo. Những yếu tố trên tạo nên lợi thế quan trọng trong cạnh tranh quốc tế, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi đểphát triển những ngành, những lĩnh vực hiện đại, có thể theo hướng rút ngắn. b. Khó khăn - Thứ nhất: Tăng trưởng kinh tế chưa được đặt trên cơ sởđủ vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh chưa cao, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thấp, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, lạc hậu và còn nghiêng về hướng nội,v.v. là những đặc tính của nền kinh tế nước ta sau 20 năm đổi mới. Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta chỉ mới đang hình thành, chưa đồng bộ và chưa vận hành tốt, môi trường kinh doanh chưa bình đẳng và chưa có tính khuyến khích cao,v.v. Nói một cách ngắn gọn, nền kinh tế nước ta còn đang phát triển vàđang chuyển đổi (thể chế mới chưa hoàn thiện trong khi thể chế cũ chưa hoàn toàn bị loại bỏ). Thực tế này là khó tránh khỏi đối với một quốc gia đang phát triển, có tính tạm thời vàđược khắc phục dần trong quá trình đổi mới, tuy nhiên nóđang là một trở ngại lớn đối với quá trình CNH, HĐH ở nước ta trong môi trường cạnh tranh quyết liệt hiện nay. Trong đó, thách thức đặt ra là nguy cơ bị tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. - Thứ hai: Tuy bối cảnh quốc tế thể hiện rõ ba xu thếưu trội như nêu trênđây, song tình hình thế giới luôn luôn có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp và chứa đựng những yếu tố khó lường. Việc tham gia ngày càng sâu rộng vào quá trình toàn cầu hoáđặt nền kinh tếđất nước trước những khó khăn do cạnh tranh gay gắt, sự dễ bị tổn thương trước các cú sốc từ bên ngoài, và những ảnh hưởng “mặt trái” khác của kiểu toàn cầu hóa hiện nay. Nếu chúng ta không có chính sách, biện pháp để hạn chế và vượt qua những khó khăn trên, thì chúng có thể có những tác động mang tính “phá huỷ” ghê gớm, kéo lùi tiến trình phát triển của đất nước nhiều năm. - Thứ ba: Là nước tiến hành CNH muộn, bên cạnh những thuận lợi, Việt Nam gặp phải những khó khăn của “nước đi sau”. Khó khăn rõ nét là chúng ta thường phải ở thế bất lợi trong cạnh tranh quốc tế, do năng suất thấp, chất lượng sản phẩm thấp, hàm lượng vốn và trí tuệ trong sản phẩm không cao, lại thường bịđộng trong việc tuân thủcác luật lệ kinh tế quốc tế… Bên cạnh đó, trong quá trình CNH, HĐH, nước ta phải đối mặt với các vấn đề về tài nguyên- môi trường, dân số và công ăn việc làm ngày càng gay gắt. Mức độ suy kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên cùng với sự xuống cấp của môi trường sống là hệ quảcủa CNH, HĐH trên quy mô toàn cầu, nhưng người gánh chịu lại chủ yếu là các nước chậm phát triển, trong đó có nước ta, đó là một khó khăn không thể lường hết được. Bởi vì nó làm cho chi phí của công cuộc CNH, HĐH tăng lên đáng kểđồng thời làm giảm tính bền vững của quá trình này. Trong khi đó, sự gia tăng của dân số, của lực lượng lao động nhanh hơn tốc độ tăng việc làm gây ra áp lực lớn giải quyết công ăn việc làm. ở nước ta, đây là một bài toán chưa có lời giải hữu hiệu. 2. Tiến trình CNH, HĐH ở Việt Nam từ nay đến năm 2020 Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010, Đảng ta đã xác định mục tiêu tổng quát là “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng đểđến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta chưa xác định được cụ thể các tiêu chí quan trọng khi nước ta trở thành một nước công nghiệp để làm đích hướng tới. Nếu theo tiêu chí của các nước đã hoàn thành CNH, HĐH thì nước ta khó có thểđạt tới vào năm 2020. Bên cạnh đó, các bước đi của cả quá trình CNH, HĐH cũng chưa được làm rõ. Khi chúng ta chủ trương thực hiện CNH, HĐH “rút ngắn”, thì việc nghiên cứu và hoạch định các chặng đường CNH, HĐH từ nay đến năm 2020 và những năm tiếp theo làđặc biệt cần thiết và cóý nghĩa then chốt. Phần này phác họa một cách đại thể những mục tiêu, nhiệm vụCNH, HĐH chủ yếu của các chặng đường từ nay đến năm 2020.Cụ thể, những mục tiêu và nhiệm vụ chủ yếu là: - Thứ nhất: Tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh. Đẩy mạnh chuyển dịch và nâng cấp cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH có hiệu quả và bền vững. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP và tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm; ở nông thôn có nền nông nghiệp và kết cấu hạ tầng cơ bản hiện đại, phát triển đa dạng các ngành công nghiệp và dịch vụ, thực hiện sự chuyển biến căn bản bộ mặt nông thôn Việt Nam phù hợp với một xã hội công nghiệp. Công nghiệp cóđủ khả năng hợp tác và cạnh tranh ngang bằng với các nước trong khu vực, có chỗđứng vững chắc trên thị trường quốc tế. Khu vực dịch vụ phát triển đa dạng, trong đó dịch vụ tài chính, ngân hàng, viễn thông phát triển hiện đại, tiếp cận trình độ quốc tế. - Thứ hai: Hình thành hoàn chỉnh thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN tương hợp với trình độ quốc tế. Mở rộng hội nhập quốc tếở mức độ sâu hơn trong các lĩnh vực đầu tư, tài chính, tiền tệ, lao động, công nghệ, thông tin.Tham gia có hiệu quảvào WTO và các tổ chức quốc tế khác, về kinh tế có vịthế của một nước có trình độ phát triển trung bình trên thế giới. - Thứ ba: Tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực theo kịp trình độ quốc tế. Hình thành đội ngũ các nhà quản lý nhà nước tinh thông nghiệp vụ, trung thành, trung thực và tận tụy với công việc; đội ngũ doanh nhân giỏi, năng động, nhạy bén và sáng tạo; đội ngũ trí thức có trình độ cao, tâm huyết; vàđội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề theo kịp yêu cầu phát triển đất nước đi dần tới hiện đại hóa và nền kinh tế tri thức. Chỉ số HDI đạt mức trêntrung bình trên thế giới. - Thứ tư: Tạo dựng và phát huy năng lực công nghệ nội sinh, kể cả cáclĩnh vực công nghệ cao như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, chế tạo máy, tựđộng hóa, hóa dầu, năng lượng,… và sự kết hợp các công nghệđó; có chỗđứng vững chắc trên thị trường công nghệ, đạt trình độ tiên tiến về công nghệ trong khu vực. Tăng cường ứng dụng và nâng cao hiệu quảứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào phát triển kinh tế- xã hội, tạo điều kiện cho sự “rút ngắn” trong một số ngành, lĩnh vực, tiến thẳng đến trình độ hiện đại. - Thứ năm: Hình thành lối sống vàđạo đức trong xã hội lành mạnh, văn minh, hiện đại, gắn kết cá nhân với cộng đồng và dân tộc; nền dân chủđược mởrộng, mọi người dân cóđiều kiện tiếp cận và hưởng thụ công bằng các thànhquả phát triển; Quản lý xã hội có hiệu quả; các tệ nạn xã hội không còn làđiều suy tư, lo lắng của gia đình và xã hội; môi trường tự nhiên và sinh thái được giữgìn, hài hòa với cuộc sống con người. An ninh chính trị, xã hội luôn luôn được củng cố vững chắc. Đối với các tiêu chí cụ thểđánh giá nước ta cơ bản trở thành nước côngnghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, trên cơ sở tham khảo các chỉ tiêuphát triển kinh tế- xã hội được coi làđã hoàn thành CNH, có thể sơ bộ nêu ra một số tiêu chí chủ yếu sau đây: - Về cơ cấu kinh tế: Tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP đạt 90% trởlên, trong đó tỷ trọng công nghiệp đạt khoảng 40-45% GDP, tỷ trọng nông nghiệp còn khoảng 10% trở xuống; tổng đầu tư xã hội/GDP đạt trên dưới 40%; kết cấu hạ tầng đáp ứng đầy đủ cho phát triển kinh tế vàđời sống xã hội. - Về hội nhập kinh tế quốc tế: Đạt trình độ cao (độ mở cửa nền kinh tếđạt trên 90%; tốc độ tăng xuất khẩu gấp 2-3 lần tốc độ tăng GDP; hội nhập với thịtrường thế giới về nhiều lĩnh vực; hội nhập với thông lệ quốc tế về các thểchế,…). - Về trình độ hiện đại hóa: Năng suất lao động xã hội đạt khoảng 10.000 USD/lao động/năm; áp dụng công nghệ hiện đại khoảng 60% trở lên; tỷ trọng lao động phi nông nghiệp đạt 70-75% trở lên; tỷ trọng lao động có trình độ caođạt khoảng 30% trở lên; áp dụng rộng rãi công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước và quản lý nền kinh tế (100% công sở và doanh nghiệp sử dụng công nghệthông tin),… - Về mức sống và văn hóa- xã hội: Chỉ số HDI đạt nhóm 30-40 số nước trên cùng của thế giới; GDP bình quân đầu người đạt khoảng 4.000 USD; tỷ lệlao động được đào tạo đạt trên 70%; hoàn thành phổ cập trung học cơ sở trong phạm vi cả nước; tuổi thọ bình quân là 75; nhàởđô thịđạt trên 20m2/người; cảnước không còn hộ nghèo; hệ số GINI (bất bình đẳng trong phân phối thu nhập) nhỏ hơn 0,4. Tựu trung lại, sau khi kết thúc chặng đường CNH, HĐH 2010-2020, trình độ “cơ bản là một nước công nghiệp của Việt Nam” hiện ra tương đối