Đặc điểm lâm sàng và hình ảnh u tuyến yên tăng tiết Prolactine

Mục tiêu: U tuyến yên chiếm khoảng 15-25% u trong sọ và là một trong 4 loại u hay gặp nhất. Mặc dù đây là loại u không hiếm gặp ở Việt Nam nhưng còn ít nghiên cứu đề cập tới, chính vì vậy chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm mục đích: mô tả đặc điểm lâm sàng, hình ảnh u tuyến yên tăng tiết prolactine. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả tiến cứu dựa trên 66 bệnh nhân u tuyến yên tăng tiết prolactine được phẫu thuật bằng đường mổ qua xoang bướm tại Khoa Phẫu thuật Thần kinh, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức từ 1/2009 tới tháng 12/2009. Kết quả: Trong thời gian từ 1/1/2009 tới 30/12/2009, chúng tôi đã chọn lọc được 66 bệnh nhân u tuyến yên tăng tiết prolactine đáp ứng đủ tiêu chuẩn nghiên cứu (chọn lọc từ 140 bệnh nhân u tuyến yên). Tỷ lệ u tuyến yên tăng tiết prolactine là 47,14%. Trong số đó có 48 bệnh nhân nữ (72,72%) và 18 nam (27,28%). Tuổi thấp nhất là 17 tuổi và cao nhất là 56 tuổi, trung bình 35±2,5. Trong số 66 bệnh nhân: 10 bệnh nhân điều trị nội thất bại, 4 bệnh nhân đã phẫu thuật nhưng tái phát và 1 bệnh nhân điều trị bằng xạ trị. Kết luận: U tuyến yên tăng tiết prolactine là loại u chiếm phần lớn khối u tuyến yên. Điều trị phẫu thuật là phương pháp điều trị an toàn nhưng nên phối hợp với điều trị nội khoa.

pdf5 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 191 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm lâm sàng và hình ảnh u tuyến yên tăng tiết Prolactine, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 417 ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ HÌNH ẢNH U TUYẾN YÊN TĂNG TIẾT PROLACTINE Đồng Văn Hệ*, Lý Ngọc Liên* TÓM TẮT Mục tiêu: U tuyến yên chiếm khoảng 15-25% u trong sọ và là một trong 4 loại u hay gặp nhất. Mặc dù đây là loại u không hiếm gặp ở Việt Nam nhưng còn ít nghiên cứu đề cập tới, chính vì vậy chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm mục đích: mô tả đặc điểm lâm sàng, hình ảnh u tuyến yên tăng tiết prolactine. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả tiến cứu dựa trên 66 bệnh nhân u tuyến yên tăng tiết prolactine được phẫu thuật bằng đường mổ qua xoang bướm tại Khoa Phẫu thuật Thần kinh, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức từ 1/2009 tới tháng 12/2009. Kết quả: Trong thời gian từ 1/1/2009 tới 30/12/2009, chúng tôi đã chọn lọc được 66 bệnh nhân u tuyến yên tăng tiết prolactine đáp ứng đủ tiêu chuẩn nghiên cứu (chọn lọc từ 140 bệnh nhân u tuyến yên). Tỷ lệ u tuyến yên tăng tiết prolactine là 47,14%. Trong số đó có 48 bệnh nhân nữ (72,72%) và 18 nam (27,28%). Tuổi thấp nhất là 17 tuổi và cao nhất là 56 tuổi, trung bình 35±2,5. Trong số 66 bệnh nhân: 10 bệnh nhân điều trị nội thất bại, 4 bệnh nhân đã phẫu thuật nhưng tái phát và 1 bệnh nhân điều trị bằng xạ trị. Kết luận: U tuyến yên tăng tiết prolactine là loại u chiếm phần lớn khối u tuyến yên. Điều trị phẫu thuật là phương pháp điều trị an toàn nhưng nên phối hợp với điều trị nội khoa. Từ khóa: U tuyến yên tăng tiết prolactine, phẫu thuật bằng đường mổ qua xoang bướm. ABSTRACT CLINICAL AND IMAGING FEATURES OF PROLACTINOMAS Dong Van He, Ly Ngoc Lien* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 4 - 2012: 417 - 421 Objective: to describe clinical and imaging features of prolactinomas. Methods: the retrospective study of 66 prolactinoma patients who had done transsphenoidal surgery at neurosurgery department, Viet Duc from 1/2009 to 12/2009. Results: we selected 66 prolactinoma patients (140 pituitary adenoma patients) from 1/1/2009 to 30/12/2009. Prolactinomas represent 47.14%, including 48 females (72.72%) and 18 males (27.28%). Average age is 35±2.5 ( range from 17 to 56). Unreposive medical treatment: 10 patients, recurrence after surgery: 4 patients and 1 patient for radiation therapy. Conclusion: Prolactinomas are the most common secretory adenoma. Transsphenoidal surgery and medical treatment are good choice for prolactinomas. Key words: Prolactinoma, transphenoidal surgery. ĐẶT VẤN ĐỀ U tuyến yên chiếm khoảng 15-25% u trong sọ và là một trong 4 loại u hay gặp nhất. U tuyến yên có thể tăng tiết prolactine, tăng tiết GH, tăng tiết ACTH hoặc u không tăng tiết (non-functionating adenoma). Trong số các loại u tuyến yên, u tăng tiết prolactine và u không tăng tiết là hai loại hay gặp nhất, chiếm khoảng 70-80% u tuyến yên. U tuyến yên tăng tiết prolactine có thể được chẩn đoán sớm do bệnh nhân bị rối loạn nội tiết từ khi khối u còn nhỏ. U * Khoa Ngoại thần kinh Bệnh viện Việt Đức Tác giả liên lạc: PGS TS Đồng Văn Hệ, ĐT: 0903256868, Email: dongvanhe2010@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 418 tuyến yên không tăng tiết thường được chẩn đoán muộn do bệnh nhân không có rối loạn nội tiết hoặc rối loạn rất muộn do suy tuyến yên. Hầu hết u tuyến yên không tăng tiết được điều trị bằng phẫu thuật trong khi u tuyến yên tăng tiết prolactine có thể điều trị khỏi bằng phương pháp nội khoa đơn thuần. U tuyến yên tăng tiết prolactine là loại bệnh có những đặc điểm riêng do những rối loạn nội tiết như vô kinh, vô sinh, rối loạn kinh nguyệt, tăng tiết sữa ở nữ và bất lực ở nam giới. Mặc dù đây là loại u không hiếm gặp ở Việt Nam nhưng còn ít nghiên cứu đề cập tới, chính vì vậy chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm mục đích: mô tả đặc điểm lâm sàng, hình ảnh u tuyến yên tăng tiết prolactine. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu mô tả tiến cứu dựa trên 66 bệnh nhân u tuyến yên tăng tiết prolactine được phẫu thuật bằng đường mổ qua xoang bướm tại Khoa Phẫu thuật Thần kinh, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức từ 1/2009 tới tháng 12/2009. Tiêu chuẩn chọn lựa và loại trừ bệnh nhân nghiên cứu: Tất cả bệnh nhân được chọn vào nhóm nghiên cứu nếu đáp đủ các tiêu chuẩn như: khám lâm sàng, xét nghiệm nội tiết, chụp cắt lớp vi tính và/hoặc chụp cộng hưởng từ sọ não, nồng độ prolactine máu cao trong khi nồng độ nội tiết tố khác không tăng hoặc tăng không đáng kể, phẫu thuật được thực hiện bằng đường mổ qua xoang bướm và kết quả giải phẫu bệnh là u tuyến yên. Chúng tôi không đưa vào nhóm nghiên cứu nếu bệnh nhân có những đặc điểm sau: nội tiết tố khác của tuyên yên tăng cao nhiều hơn prolactine, không rõ chẩn đoán phân loại khối u tuyến yên, u tuyến yên tăng tiết prolactine máu nhưng không phẫu thuật, không có đủ xét nghiệm nội tiết, không đánh giá được hình ảnh chụp cắt lớp sọ não và hoặc chụp cộng hưởng từ sọ não. Các bước tiến hành nghiên cứu: Lập mẫu bệnh án nghiên cứu. Mọi thông tin liên quan tới bệnh nhân được đánh giá, khám, ghi nhận và điền vào mẫu bệnh án cho mỗi bệnh nhân. Khám lâm sàng bào gồm khám các dấu hiệu rối loạn nội tiết (vô kinh nguyên phát, vô kinh thứ phát, tiết sữa, vô sinh nguyên phát, vô sinh thứ phát, rối loạn kinh nguyệt, bất lực, đái nhạt, uống nhiều, thay đổi hình dạng, rối loạn phát triển, lông, tóc, da). Dấu hiệu tăng áp lực trong sọ như đau đầu, nôn, liệt, liệt dây thần kinh sọ, tri giác, lác mắt, nhìn đôi, rối loạn vận nhẫn. Dấu hiệu chèn ép giao thoa thị giác như nhìn mờ, bán manh ½ thị trường hoặc bán manh ¼ thị trường. Xét nghiệm nội tiết bao gồm nồng độ prolactine máu, GH, ACTH, FSH, LH, T4. Hình ảnh chụp sọ: hố yên, hố yên rộng, hố yên hẹp, hố yên hình hai đáy. Hình ảnh cắt lớp vi tính: khối u vùng hố yên, tỷ trọng tăng, giảm hay hỗn hợp. Kích thước, vị trí, mức độ ngấm thuốc cản quang, mức độ xâm lấn, sàn hố yên, xoang bướm. Hình ảnh cộng hưởng từ trên T1WI và T2WI: kích thước, vị trí, mức độ ngấm thuốc đối quang từ, xâm lấn xuống xoang bướm, lên trên, sang bên vào xoang tĩnh mạch hang, chèn ép giao thoa thị giác, xâm lấn ra hố thái dương, xâm lấn vào hố sau, xâm lấn vào não thất III, vùng dưới đồi. So sánh dấu hiệu lâm sàng giữa hai nhóm bệnh nhân nam và nữ, giữa nhóm bệnh nhân đã điều trị và chưa điều trị, đã phẫu thuật và chưa phẫu thuật, đã xạ trị và chưa xạ trị. Phân tích kết quả bằng chương trình SPSS 10.0. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Trong thời gian từ 1/1/2009 tới 30/12/2009, chúng tôi đã chọn lọc được 66 bệnh nhân u tuyến yên tăng tiết prolactine đáp ứng đủ tiêu chuẩn nghiên cứu (chọn lọc từ 140 bệnh nhân u tuyến yên). Tỷ lệ u tuyến yên tăng tiết prolactine là 47,14%. Trong số đó có 48 bệnh nhân nữ (72,72%) và 18 nam (27,28%). Tuổi thấp nhất là 17 tuổi và cao nhất là 56 tuổi, trung bình 35±2,5. Lứa tuổi 21-40 tuổi gồm 48 bệnh nhân, chiếm 72,72%. Trong số 66 bệnh nhân: 10 bệnh nhân điều trị nội thất bại, 4 bệnh nhân đã phẫu thuật nhưng tái phát và 1 bệnh nhân điều trị bằng xạ trị. Thời gian từ khi xuất hiện triệu chứng đầu tiên tới khi phẫu thuật: ngắn nhất là 6 tháng và dài nhất là 12 năm. Bệnh nhân được phẫu thuật Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 419 sau khi có rối loạn nội tiết 1-2 năm gồm bệnh nhân, chiếm 36/66=54,55%. Lý do khám bệnh chủ yếu do rối loạn nội tiết (Bảng 1). Bảng 1-Lý do tới khám bệnh Lý do Vô kinh Vô sinh Tiết sữa RLKN Nhìn mờ Đau đầu Số bệnh nhân 11 15 8 8 14 17 Tỷ lệ % 16,67 22,73 12,12 12,12 21,21 25,76 Bảng 2-Dấu hiệu lâm sàng trước khi phẫu thuật: Dấu hiệu lâm sàng Vô kinh Vô sinh Tiết sữa RLKN Bất lực Nhìn mờ Đau đầu Số bệnh nhân 11 15 12 21 5 35 17 Tỷ lệ % 16,67 % 22,73 % 18,18 % 31,82 % 7,57% 53,03% 25,76% Tổng số bệnh nhân bị rối loạn nội tiết là 62/66=93,94%. Nếu chỉ tính riêng 48 bệnh nhân nữ, số bệnh nhân bị rối loạn nội tiết là 47/48=97,91% và 9 bệnh nhân có nhiều rối loạn nội tiết. Nhìn mờ được xác định ở 35 bệnh nhân, trong đó nhìn mờ hai bên 28 bệnh nhân và mờ một mắt 7 bệnh nhân. Bán manh ở 12 bệnh nhân bao gồm: bán manh hai mắt ở 9 và bán manh một mắt ở 3 bệnh nhân. Kết quả xét nghiệm prolactine như trong bảng 3. Bảng 3-Kết quả xét nghiệm prolactine máu Nồng độ Prolactine máu (UI/L) 700- 2000 2000– 5000 5000- 10.000 >10.00 Số bệnh nhân 9 21 17 19 Tỷ lệ % 13,64% 31,82% 25,76% 28,78% Trong số 66 bệnh nhân: prolactine cao nhất là 501 780 UI/L, 8 bệnh nhân khác tăng tiết GH hoặc tăng tiết FSH, LH, cortisol (chiếm 8/66=12,12%). Chụp cắt lớp vi tính 45 bệnh nhân: hình ảnh khối u đồng tỷ trọng ở 41/45=91,11%; tăng tỷ trọng ở 3 bệnh nhân và ngấm thuốc cản quang ở 32/38=84,21%. Hình ảnh khối u trên cộng hưởng từ được mô tả trong bảng 4. Kích thước khối u: u tuyến yên nhỏ (Microadenoma) 10 bệnh nhân và u tuyến yên lớn (Macroadenoma) 56 bệnh nhân. U tuyến yên khổng lồ với đường kính >4cm ở 15 bệnh nhân (22,73%). U ngấm thuốc đối quang từ ở 58/66=87,88%. Khối u xấm lấn xoang tĩnh mạch hang ở 9 bệnh nhân, bọc động mạch cảnh trong 6, xâm lấn vùng trên yên 9 và xâm lấn vào xoang bướm 5 bệnh nhân. Bảng 4-Hình ảnh khối u loại prolactinoma trên cộng hưởng từ Đặc điểm hình ảnh Đồng tín hiệu Tăng tín hiệu Giảm tín hiệu Tín hiệu hỗn hợp Trên T1WI 28 (42,42%) 8 (12,12%) 11 (16,67%) 19 (28,79%) Trn T2WI 8 (12,12%) 39 (59,09%) 0 19 (28,79%) Chỉ định phẫu thuật do khối u chèn ép, giảm thị lực, rối loạn nội tiết (51 bệnh nhân), điều trị nội thất bại (10 bệnh nhân), u tái phát (4 bệnh nhân), xạ trị thất bại (1 bệnh nhân). Tất cả 66 bệnh nhân được phẫu thuật bằng phương pháp vi phẫu qua xoang bướm. Kết quả phẫu thuật như trong bảng 5. Rò nước não tủy trong mổ 5 bệnh nhân, chảy máu mũi sau mổ 3 bệnh nhân. Không có rò nước não tủy sau mổ. Tử vong 1 bệnh nhân do chảy máu trong sọ. Kết quả xa sau mổ: nội tiết tố trở về bình thường 45/55 bệnh nhân (81,81%) trong đó 22 bệnh nhân phải dùng thuốc điều trị tiếp tục (parloden hoặc dostinex). Đái nhạt 5 bệnh nhân. 11 bệnh nhân có thai hoặc đã sinh con sau phẫu thuật 6 tháng- 2 năm. Bảng 5-Kết quả phẫu thuật u tuyến yên tăng tiết prolactine Kết quả phẫu thuật Cắt hết u Cắt gần hết u Cắt một phần u Sinh thiết Số bệnh nhân 41 25 0 0 Tỷ lệ % 62,12% 37,88% BÀN LUẬN U tuyến yên tăng tiết prolactine chiếm phần lớn trong khối u tuyến yên. Tỷ lệ u tuyến yên tăng tiết prolactine dao động 35-55% tổng số u tuyến yên. Trong nghiên cứu của chúng tôi, prolactinoma chiếm 47,14%. Trong khi tại các nước phát triển, u tuyến yên tăng tiết prolactine thường được điều trị nội thành công và chỉ phẫu thuật khi điều trị nội thất bại(6,8). U tuyến Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 420 yên tăng tiết prolactine có thể điều trị khỏi bằng thuốc, ngay cả khi khối u lớn, u chèn ép gây giảm thị lực(1,2). Nhưng phần lớn điều trị nội khoa phải kéo dài nhiều năm. Nồng độ prolactine sẽ cao trở lại nếu dừng thuốc. Những nghiên cứu gần đây tại Châu Âu, Mỹ cho thấy tỷ lệ u tuyến yên tăng tiết prolactine phải phẫu thuật chiếm 10-20% tổng số u tuyến yên. Tại Việt Nam, tỷ lệ u tuyến yên tăng tiết prolactine được điều trị khỏi bằng thuốc còn khá ít. Trong hầu hết các nghiên cứu, tỷ lệ u tuyến yên tăng tiết prolactine được phẫu thuật vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất(7,9). U tuyến yên tăng tiết prolactine gặp ở nữ nhiều hơn nam. Tỷ lệ bệnh nhân nữ/nam trong nghiên cứu của chúng tôi là 2,67. Tỷ lệ bệnh nhân nữ cao hơn nam ở hầu hết các thông báo về u tuyến yên tăng tiết prolactine. Lứa tuổi hay gặp nhất là từ 21-40 tuổi, chiếm 72,72%. Hơn hai phần ba bệnh nhân u tăng tiết prolactine ở lứa tuổi hoạt động sinh dục(3,4,6) Lý do bệnh nhân tới khám bệnh chủ yếu do rối loạn nội tiết như vô kinh nguyên phát hay thứ phát, vô sinh nguyên phát hay thứ phát, kinh nguyệt rối loạn hay tiết sữa. 42 bệnh nhân đi khám bệnh vì rối loạn nội tiết, chiếm 63,64%. Ngoài ra, một số bệnh nhân đi khám bệnh do thị lực giảm hoặc đau đầu. Thời gian tính từ khi xuất hiện triệu chứng đầu tiên tới khi phẫu thuật trung bình là 15 tháng, ngắn nhất là 6 tháng và dài nhất là 12 năm. Thời gian bị bệnh ngắn hơn nhiều nếu so với bệnh to đầu chi acromegaly (tăng tiết GH). Thời gian trung bình từ khi bị bệnh tới khi chẩn đoán bệnh là 7-10 năm đối với u tuyến yên tăng tiết GH (acromegaly) và là 2 năm đối với u tuyến yên không tăng tiết. Bệnh nhân đi khám sau 12 năm vô kinh là nữ, 50 tuổi, bị vô kinh thứ phát từ năm 38 tuổi. Bệnh nhân bị vô kinh thứ phát sau khi sinh con thứ 2 và không đi khám vì “mọi chuyện vẫn ổn”. Khi thị lực mắt giảm bệnh nhân mới đi khám (khối u lớn 3,1cm, thị lực 5/10 cả hai mắt, prolactine 100 000 UI/L). Triệu chứng hay gặp nhất trước khi phẫu thuật là rối loạn nội tiết 62 bệnh nhân, chiếm tỷ lệ 93,94%. Điều này khác với khối u tuyến yên không tăng tiết. Khoảng 10% u tuyến yên không tăng tiết có biểu hiện rối loạn nội tiết (thường biểu hiện hội chứng suy tuyến yên). Bệnh nhân bị u tuyến yên tăng tiết GH, tăng tiết ACTH cũng thường có biểu hiện lâm sàng chủ yếu do nội tiết tố tăng. Bệnh nhân bị u tuyến yên tăng tiết ACTH (bệnh Cushing) thường đi khám sớm hơn do bệnh nặng lên nhanh hơn. Trong khi u tuyến yên tăng tiết prolactine có biểu hiện bệnh sớm nhưng người bệnh thường chủ quan, ít quan tâm nên đi khám muộn(4). Mặc dù dấu hiệu rối loạn nội tiết xuất hiện sớm và khá rõ nhưng bệnh nhân vẫn tới khám muộn nên 35 bệnh nhân bị giảm thị lực (53,03%). Đây là lý do 84,85% bệnh nhân là u tuyến yên lớn và 22,73% là u tuyến yên khổng lồ trước khi phẫu thuật (u lớn hơn 4cm). Xét nghiệm nội tiết cho thấy 86,36% bệnh nhân có nồng độ prolactine cao hơn 2000 UI/L, trong khi giới hạn bình thường của prolactine là dưới 600. Bệnh nhân có nồng độ prolactine cao nhất 501780 UI/L. Không có sự tương quan giữa kích thước khối u với nồng độ prolactine máu(2,10). Bằng chứng là 7/10 bệnh nhân u tuyến yên nhỏ có nồng độ prolactine cao hơn 5000 UI/L. Trong số 66 bệnh nhân, 12,12% bệnh nhân có tăng một hay nhiều loại nội tiết tố khác. Một số tác giả cũng ghi nhận khoảng dưới 10% u tuyến yên tăng tiết prolactine là u hỗn hợp. Chúng tôi không xác định loại u hỗn hợp dựa trên kết quả giải phẫu bệnh. Trong thực hành lâm sàng, một số trường hợp tăng nồng độ prolactine máu mà không phải do u tuyến yên có thể gặp do khối u khác vùng hố yên (u màng não, u sọ hầu, u tế bào mầm germioma, nang vùng hố yên, u di căn hố yên), do sinh lý (có thai, nuôi con bằng sữa mẹ, vận động quá nhiều, stress), do sử dụng một số thuốc (một số thuốc tâm thần, thuốc chống trầm cảm, thuốc tăng cường tiêu hóa, thuốc điều trị cao huyết áp) hay do một số bệnh khác (hạ đường máu, phẫu thuật, động kinh, suy thận mãn, xơ gan, Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 421 rối loạn chức năng vùng dưới đồi, suy tuyến giáp tiên phát). Chính vì vậy, nên thận trọng khi đánh giá nồng độ cao của prolactine máu và phải thăm khám toàn diện trước khi chẩn đoán u tuyến yên hay trước khi đưa ra quyết định thăm dò tuyến yên(8,10). Chẩn đoán u tuyến yên tăng tiết prolactine cũng giống như các loại u tuyến yên khác khi dựa vào hình ảnh cắt lớp vi tính và cộng hưởng từ. Khối u tuyến yên phần lớn đồng tỷ trọng (91,11%) và khối u ngấm thuốc cản quang (84,21%) trên hình ảnh cắt lớp vi tính. Hình ảnh cộng hưởng từ là hình ảnh đồng tín hiệu 42,42% và hình ảnh hỗn hợp 28,79% trên T1WI. Trên T2WI: khối u chủ yếu là hình ảnh tăng tín hiệu 59,09% và tín hiệu hỗn hợp 28,79%. Hình ảnh khối u tuyến yên tăng tiết prolactine không khác với khối u tuyến yên khác(3,7,8,9). Điều trị u tuyến yên tăng tiết prolactine thay đổi nhiều trong 20 năm qua nhờ ứng dụng những thuốc mới trong điều trị. Tại các nước phát triển, điều trị nội khoa là sự lựa chọn hàng đầu đối với loại u này. Trong khi chúng ta vẫn coi phẫu thuật là sự lựa chọn tốt nhất. Phẫu thuật u tuyến yên tăng tiết prolactine không qua phức tạp do u mềm, dễ hút, ít chảy máu và tỷ lệ tại biến, biến chứng thấp. Tỷ lệ cắt bỏ hoàn toàn khối u tuyến yên tăng tiết prolactine là 62,62% cao hơn so với loại khối u khác (acromegaly, bệnh Cushing). Tỷ lệ khống chế nồng độ prolactine máu là 81,81%. Nếu không dung thuốc, tỷ lệ bệnh nhân có nồng độ prolactine bình thường chỉ là 23/45=51,11%. Như vậy, tỷ lệ khỏi bệnh sau phẫu thuật là 51,11%. Tỷ lệ này đạt 81,81% khi phối hợp với điều trị nội khoa. Điều này cho thấy, phẫu thuật là phương pháp điều trị hiệu quả nếu kết hợp với điều trị nội khoa. KẾT LUẬN U tuyến yên tăng tiết prolactine là loại u chiếm phần lớn khối u tuyến yên. Dấu hiệu lâm sàng chủ yếu là rối loạn nội tiết. Hơn 50% bệnh nhân có giảm thị lực do chẩn đoán muộn. Điều trị phẫu thuật là phương pháp điều trị an toàn nhưng nên phối hợp với điều trị nội khoa. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Abraham P and Bevan J S (2003). Prolactinoma, Management of pituitary tumors. Second Edition, Humana Press: 21-42. 2. Batrinos M L (2009). Extensive personal experience. Validation of prolactin levels in menstrual disorders and in prolactinomas, Hormones. 8, 4: 258-266. 3. Bhansali A et al (2010). Efficacy of cabergoline on rapid escalation of dose in men with macroprolactinomas. Indian J Med Res, 131: 530-535. 4. Buslei J K et al (2008). Operative treatment of prolactinomas: indications and in a current consecutive series of 212 patients. European Journal Endocrinol, 158: 11-18. 5. Fideleff H L et al (2009). Prolactinoma in children and adolescents. Horm Res, 72: 197-205. 6. Kars M et al (2010). Update in prolactinomas. The Journal of Medicine, 68, 3: 104-112. 7. Lý Ngọc Liên (2003). Nghiên cứu áp dụng phương pháp mổ u tuyến yên qua đường xoang bướm tại BV HN Việt Đức. Luận văn CKII, Đại học Y Hà Nội. 8. Molitch M E (2008). The cabergoline-resistant prolactinoma patient: New challenges. J Clin Endocrinol Metab, 93, 12: 4643- 4645. 9. Nguyễn Phong, Võ Văn Nho (2003). U tuyến yên: đặc điểm lâm sàng và kết quả phẫu thuật qua xoang bướm. Y học TP Hồ Chí Minh, 7, 2: 23-25. 10. Schlechte J A (2007). Long-term management of prolactinomas. J Clinical Endocrinol Metab, 92, 8: 2861-2865.
Tài liệu liên quan