Đánh giá bước đầu áp dụng phương pháp lấy sỏi thận qua da tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương

Mục tiêu: Đánh giá bước đầu hiệu quả và tính an toàn của phương pháp lấy sỏi thận qua da tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương. Phương pháp: phương pháp nghiên cứu mô tả hàng loạt ca. 22 phẫu thuật lấy sỏi thận qua da gồm 16 nam và 6 nữ, tuổi từ 22 đến 84 (TB: 50,8±13,1), 4 trường hợp sỏi đài thận, 10 trường hợp sỏi bể thận, 2 trường hợp sỏi bán san hô, 1 trường hợp sỏi có nhánh và 5 trường hợp sỏi bể thận kèm nhiều sỏi ở các đài thận. Thực hiện lấy sỏi qua da với 1 đường hầm vào thận. Soi thận qua Amplatz 30Fr. Mở thận ra da bằng thông Foley 20Fr. Kết quả: Tỉ lệ sạch sỏi là 86,36%. Thời gian mổ từ 60phút đến 140phút (TB: 92,3 ± 22,5phút ). Hb giảm từ 0g/dl7,3g/dl (TB: 2,6±1,97g/dl). Không có biến chứng chảy máu phải truyền máu trong và sau mổ. 2 trường hợp thủng đài bể thận được lưu thông JJ niệu quản 1 tuần, 1 trường hợp thủng đại tràng,không có trường hợp nào tử vong. Kết luận: Lấy sỏi thận qua da là phương pháp an toàn và hiệu quả trong điều trị sỏi thận.

pdf5 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 210 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá bước đầu áp dụng phương pháp lấy sỏi thận qua da tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013  Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương  45 ĐÁNH GIÁ BƯỚC ĐẦU ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP LẤY SỎI THẬN QUA DA  TẠI BỆNH VIỆN NGUYỄN TRI PHƯƠNG   Võ Phước Khương*, Nguyễn Hữu Phúc*, Nguyễn Đình Xướng**   TÓM TẮT  Mục tiêu: Đánh giá bước đầu hiệu quả và tính an toàn của phương pháp lấy sỏi thận qua da tại Bệnh viện  Nguyễn Tri Phương.  Phương pháp: phương pháp nghiên cứu mô tả hàng loạt ca. 22 phẫu thuật lấy sỏi thận qua da gồm 16 nam  và 6 nữ, tuổi từ 22 đến 84 (TB: 50,8±13,1), 4 trường hợp sỏi đài thận, 10 trường hợp sỏi bể thận, 2 trường hợp  sỏi bán san hô, 1 trường hợp sỏi có nhánh và 5 trường hợp sỏi bể thận kèm nhiều sỏi ở các đài thận. Thực hiện  lấy sỏi qua da với 1 đường hầm vào thận. Soi thận qua Amplatz 30Fr. Mở thận ra da bằng thông Foley 20Fr.  Kết quả: Tỉ lệ sạch sỏi là 86,36%. Thời gian mổ từ 60phút đến 140phút (TB: 92,3 ± 22,5phút ). Hb giảm từ  0g/dl7,3g/dl (TB: 2,6±1,97g/dl). Không có biến chứng chảy máu phải truyền máu trong và sau mổ. 2 trường  hợp thủng đài bể thận được lưu thông JJ niệu quản 1 tuần, 1 trường hợp thủng đại tràng,không có trường hợp  nào tử vong.  Kết luận: Lấy sỏi thận qua da là phương pháp an toàn và hiệu quả trong điều trị sỏi thận.  Từ khóa: lấy sỏi qua da, đường vào đài dưới, sạch sỏi  ABSTRACT  INITIAL PERCUTANEOUS NEPHROLITHOMY AT THE NGUYỄN TRI PHƯƠNG HOSPITAL  Vo Phuoc Khuong, Nguyen Huu Phuc, Nguyen Dinh Xuong  * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 2 ‐ 2013: 44 ‐ 48  Aims: This  study was  to  initially  evaluate  the  safety  and  efficacy  of percutaneous nephrolithomy  at  the  Nguyễn Tri Phương hospital.  Methods:  22  percutaneous  nephrolithotomy  procedures were  conducted  at  our  hospital  from  september  2011 to july 2012. Patient age was 50.8 years±13.1 (range 22 to 84 years). All patients underwent percutaneous  nephrolithomy  via  a  single  renal  tract.  Rigid Nephroscope was  inserted  through  the Amplatz  sheath  30Fr.  Nephrostomy tube was a 20Fr Foley.  Results:  Stone‐free  rate was  86.36%. Mean  operative  time was  92.3 minutes  ±  22.5  (range  60  to  140  minutes). The drop  in Hemoglobine  level  ranged  from 07.3g/dl  (mean 2.6 ± 1.97 g/dl  ). Perforation of  the  pelvicalyceal system occurred in 2 patients. A case is injuried the colon.  Conclusions: Percutaneous nephrolithomy was a safe and efficacious procedure  for management of renal  stones.  Key words: percutaneous nephrolithotomy, lower‐pole access, stone free  ĐẶT VẤN ĐỀ  Điều  trị  sỏi  thận vẫn  còn  là  thách  thức  lớn  đối  với  các  Bác  sĩ Niệu  khoa  lâm  sàng,  nhiều  trường hợp phải cắt bỏ thận và 20% các trường  hợp sỏi tái phát dẫn đến suy thận(6). Trước đây,  mổ mở là phương pháp điều trị chủ yếu của sỏi  thận. Ngày nay,các phương  tiện kỹ  thuật hình  ảnh và dụng  cụ nội  soi  đã  đem  lại nhiều  thay  * Khoa Ngoại Thận ‐ tiết niệu Bệnh viện Nguyễn Tri Phương  Tác giả liên lạc: Bs Võ Phước Khương  ĐT: 0903740583  Email: vpkhuong@yahoo.com  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 46 đổi  trong  điều  trị  sỏi  thận.  Phần  lớn  sỏi  thận  được điều trị hiệu quả với các phương tiện ngoại  khoa xâm  lấn  tối  thiểu như: nội soi  tán sỏi,  tán  sỏi ngoài cơ thể, lấy sỏi qua da Mục tiêu điều  trị sỏi thận là lấy sạch sỏi với phương pháp xâm  lấn tối thiểu và tai biến, biến chứng thấp(21). Qua  30 năm kể từ khi Fernstrom và Johansson lấy sỏi  thận qua  đường mở  thận  ra da vào năm 1976,  cùng với phương pháp Tán sỏi ngoài cơ thể, lấy  sỏi qua da trở nên là phương pháp điều trị chính  yếu của bệnh  sỏi  thận do  tỉ  lệ  sạch  sỏi  cao,  tai  biến,  biến  chứng  thấp  và  dần  dần  thay  thế  phương pháp mổ mở trong điều trị sỏi thận(5).  Chúng tôi bắt đầu áp dụng phương pháp lấy  sỏi qua da tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương từ  tháng 9/2011. Qua một năm thực hiện, chúng tôi  muốn  đánh giá bước  đầu hiệu quả và  tính  an  toàn của phương pháp lấy sỏi qua da trong điều  trị sỏi thận.  ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Chọn lựa bệnh nhân  Tất cả bệnh nhận  được chẩn  đoán  sỏi  thận  và được phẫu thuật lấy sỏi qua da tại bệnh viện  Nguyễn Tri Phương  từ  tháng 9/2011 đến  tháng  7/2012.  Không có bất thường về giải phẫu như thận  móng ngựa, thận độc nhất, thận lạc chỗ  Không có rối  loạn về đông máu và ngưỡng  Hb ≥ 11 mg/dl.  Phương pháp nghiên cứu  Làm  các  xét  nghiệm  tiền  phẫu,  chụp  KUB,UIV.  Kích  thước  sỏi:  đo bằng  thước  đường kính  lớn nhất viên sỏi trên phim KUB.  Trong mổ ghi nhận: thời gian mổ, thời gian  tán  và  gắp  sỏi,  các  biến  chứng  chảy  máu,  thủng  đài  bể  thận,  sỏi  rớt  xuống  niệu  quản,  thủng đại tràng.  Biến chứng chảy máu: che mờ phẫu trường  phải  ngưng  cuộc  mổ  hoặc  phải  truyền  máu  trong và sau mổ.  Sau  mổ:  chụp  phim  KUB  kiểm  tra,  xét  nghiệm Hb.  Sạch sỏi:  trên phim KUB không còn sỏi  tồn  lưu hoặc những mãnh sỏi < 5mm.  Có thể lấy sỏi thì hai (second look ) nếu sót  sỏi.  Số  liệu  được  phân  tích  bằng  phần  mềm  Excel 2007.  Dụng cụ:  Dụng cụ chọc dò và nong đường hầm: kim  chọc dò 18 gauge, dây dẫn, bộ nong bằng kim  loại ALKEN, ống nhựa Amplatz số 30.  Máy C‐arm.  Dụng cụ  soi: máy  soi bang quang, máy  soi  thận cứng nòng 26, góc nhìn 00.   Kềm  gắp  sỏi:  2  chấu  Crocodile,  3  chấu  Tripode.  Máy tán sỏi siêu âm.  Dịch tưới rửa: dung dịch nước muối sinh lý  để cao 0,61m so với bệnh nhân với dòng chảy  tự nhiên.  Kỹ thuật:  Phương pháp vô cảm: mê nội khí quản.  Bệnh nhân nằm  tư  thế sản khoa, đặt  thông  niệu quản 8 Fr.  Chuyển sang tư thế nằm sấp với gối độn bên  thận mổ lên cao 300, 2 đùi gập xuống 1000150.  Dưới màng hình huỳnh quang, bơm  thuốc  cản quang vào đài bể thận, chọc dò vào đài thận  bằng kim 18 gauge.  Đặt 2 dây dẫn: 1 dây dẫn dùng nong đường  hầm và 1 dây dự phòng (safety guide).  Nong đường hầm đến số 30, đặt Amplatz số  30.  Đưa máy soi thận vào: tán vỡ sỏi bằng máy  siêu âm và gắp hết sỏi.  Mở thận ra da bằng thông Foley 20Fr, bơm 5  ml bóng.  KẾT QUẢ   Chúng  tôi  thực  hiện  lấy  sỏi  qua  da  22  trường  hợp  bao  gồm  16  nam  và  6  nữ.  2  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013  Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương  47 trườnghợp  tiền  căn mổ mở  lấy  sỏi  thận  cùng  bên. 1 trường hợp lấy sỏi qua da kết hợp tán sỏi  nội soisỏi niệu quản đoạn lưng đối bên. Tuổi từ  22  tuổi  đến  84  tuổi  (trung  bình  50,8±13,1  tuổi).Kích thước sỏi trung bình 20,9±6,08mm (từ  11mm đến 30mm).  Bảng 1: Loại sỏi  Loại sỏi N Tỉ lệ Sỏi đài dưới 4 18,18% Sỏi bể thận 10 45,45% Sỏi có nhánh 1 4,54% Sỏi bán san hô 2 9,09% Sỏi bể thận + nhiều sỏi ở các đài thận 5 22,72% Bảng 2: Mức độ ứ nước  Độ ứ nước N Tỉ lệ Không ứ nước 3 13,63% Độ I 12 54,54% Độ II 6 27,27% Độ III 1 4,54% Bảng 3: Đường chọc dò vào thận  Đường vào đài thận N Tỉ lệ Đài trên 1 4,54% Đài giữa 2 9,09% Đài dưới 19 86,36% Thời gian mổ trung bình 92,3 ± 22,5 phút (từ  60 phút đến 140 phút).Thời gian nằm viện trung  bình 5 ± 2,25 ngày (từ 3 ngày đến 13 ngày).Một  trường  hợp  không  đặt  được  thông  niệu  quản  ngược dòng, phải tiêm thuốc cản quang đường  tĩnh mạch và  chọc dò vào  đài  thận  đã hiện  rõ  dưới  màng  huỳnh  quang.Hematocrite  giảm  trung  bình  2,6±1,97g/%  (từ  0%  đến  7,3g/%).  Không  có  biến  chứng  chảy  máu  phải  truyền  máu trong hoặc sau mổ, 2 trường hợp thủng đài  bể  thận  làm  xì dò nước  tiểu phải  lưu  thông  JJ  niệu  quản  và  1  trường  hợp  thủng  đại  tràng.  Không có  trường hợp  tử vong. Tỉ  lệ sạch sỏi  là  86,36%. Trong 3 trường hợp sót sỏi có một viên  5mm, một viên 7mm và một viên 12mm.  BÀN LUẬN  Theo y văn,  lấy sỏi qua da  là phương pháp  điều trị sỏi thận hiệu quả và ít xâm lấn với tỉ lệ  sạch sỏi toàn bộ từ 66% đến 93,7%(8). Năm 2011,  De la Rosette & cs tổng kết 5803 trường hợp lấy  sỏi qua da tại 96 trung tâm trên thế giới từ tháng  11‐2007  đến  tháng  12‐2009  với  tỉ  lệ  sạch  sỏi  là  75,7%(15).  Dựa  trên  phim  KUB  chụp  ngay  sau  mổ,  không  thấy  còn  mảnh  sỏi  sót  nào  hoặc  mảnh sỏi < 5mm, nghiên cứu của chúng tôi có tỉ  lệ  sạch  sỏi  là  86,36%.  Tất  cả  các  trường  hợp  chúng tôi vào thận bằng 1 đường hầm với phần  lớn  là  sỏi  đơn  giản  (63,4%),  kích  thước  nhỏ  (21±6mm) nên tỉ lệ sạch sỏi của chúng tôi tốt hơn  1 số báo cáo gần đây. Van der Ness và cs (20) có tỉ  lệ  sạch  sỏi  là  71%  trên  169  trường hợp  lấy  sỏi  qua  da.  Davis  S.  Meinbach  và  Douglas  Modling(9)  tại  trung  tâm  ĐH  Birmingham  với  204 bệnh nhân có tỉ lệ sạch sỏi là 70,6%. Shalaby  và cs(17) tỉ lệ sạch sỏi là 74,8% trên 26 trường hợp.  Mohamed F. Abdelhafez và cs(1) từ Úc báo cáo 83  trường hợp với  tỉ  lệ  sạch  sỏi  là 78,3%. Tại Hội  nghị Niệu khoa toàn quốc 2012, 1 số báo cáo về  lấy sỏi qua da như Nguyễn Việt Cường và cs(13)  tại bệnh viện 175 có tỉ lệ sạch sỏi là 85.3% trên 75  bệnh nhân. Lê Sỹ Trung và cs(4) tại bênh viện FV  Hà Nội có tỉ lệ sạch sỏi là 75,36%. Đối với sỏi có  kích  thước  lớn, phức  tạp hơn,  thì  cần phải  tạo  thêm nhiều đường hầm để tiếp cận sỏi ở những  vị  trí khác nhau  trong  đài bể  thận. Các nghiên  cứu về sỏi san hô của Desai M et al.  (tỉ  lệ sạch  sỏi: 93%)(3), Aron M và cs (84%)(2), Wong C và cs  (95%)(22) đi vào thận với 2‐3 đường hầm và dùng  máy soi thận mềm nên có tỉ lệ sạch sỏi cao. Đối  với những trường hợp còn sót sỏi, tán sỏi ngoài  cơ  thể, nội soi niệu quản ngược dòng hoặc  lấy  sỏi lần 2, lần 3 qua đường hầm sẵn có có thể làm  tăng hiệu quả sạch sỏi toàn bộ như báo cáo của  Mohamed F. Abdelhafez và  cs(1)  tăng  tỉ  lệ  sạch  sỏi  từ 78,3%  lên 95,2%. Lê Sỹ Trung và  cs(4)  từ  75,36%  lên  90,36%  sau khi kết hợp với  tán  sỏi  ngoài cơ thể. 3 trường hợp sót sỏi của chúng tôi  có  chỉ  định  tán  sỏi  ngoài  cơ  thể,  đã  giải  thích  nhưng bệnh nhân chưa quay lại không rõ lý do.   Biến chứng chảy máu cần phải  truyền máu  là biến chứng thường gặp nhất trong phẫu thuật  lấy  sỏi  qua  da.  Theo  y  văn,  tỉ  lệ  từ  11%  đến  17,5%,  những  báo  cáo  gần  đây  tỉ  lệ  này  giảm  xuống  5,7%(10). Tỉ  lệ  truyền máu  trong báo  cáo  của Van de Ness và cs là 7%, Abdelhafezet và cs  là  1,2%;  Davis  S.  Meinbach  là  2%(20,1,9).  Trong  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 48 nghiên cứu của chúng tôi, giảm Hb trong mổ so  với  trước mổ  trung  bình  là  2,6  ±  1,97g/dl  (từ  0g/dl7,3g/dl). Trong phẫu thuật lấy sỏi qua da,  chỉ định truyền máu phụ thuộc vào ngưỡng Hb  giảm < 8 g/dl hoặc chảy máu nhiều làm che mờ  phẫu  trường phải ngưng cuộc mổ. Nghiên cứu  của chúng tôi không có trường hợp phải truyền  máu  trong hoặc  sau mổ.  2 TH giảm Hb nhiều  (6,3 g/dl và 7,3g/dl  ) nhưng  theo dõi hậu phẫu  không  chảy máu và  sinh hiệu  ổn  định. Chúng  tôi cho rằng biến chứng chảy máu giảm do đa số  các  trường hợp (86,36%) chúng  tôi chọn đường  vào thận là đài dưới. Đài thận sau dưới có trục  hướng  đến diện  vô mạch, do  đó  chọc dò  trực  tiếp vào đài thận sau dưới từ hướng sau bên sẽ  ngang qua diện vô mạch(5). Mặt khác, mạch máu  phân bố nhiều ở mặt  trước và sau các đài  thận  trên  và  giữa,  trong  khi mặt  sau  đài  dưới  hầu  như rất ít mạch máu(16), vào thận từ mặt sau đài  dưới ít gây tổn thương mạch máu. Chọc dò vào  đỉnh đài và theo trục của đài sau dưới sẽ tránh  được  các mạch máu  lớn,  từ đó giảm  thiểu  tổn  thương và ít chảy máu (19). Do đó chúng tôi chọn  đường vào thận từ đài dưới trong tất cả các TH  do thuận tiện về mặt giải phẫu và ít biến chứng.  Một số tác giả cũng ưu tiên chọn đài dưới để vào  thận:  Shalaby  và  cs  tất  cả  26  TH(17), Young  và  cs(23)  9/13  TH  với  1  đường  hầm  vào  đài  dưới,  Nelson và cs(12) 58,8% TH và Martin và cs(8) 166  sỏi  san  hô  hầu  hết  vào  thận  từ  đài dưới. Tuy  nhiên, 1 số trường hợp kích thước sỏi lớn và tình  trạng ứ nước  thận có  thể  làm  thay đổi vị  trí và  hình dạng của các đài  thận. Do đó,  tùy  trường  hợp chúng tôi chọn lựa đường vào thận để tiếp  cận sỏi thuận tiện nhất và an toàn nhất. Kết quả  là có 1 trường hợp chọc dò vào đài trên, 2 trường  hợp vào đài giữa.  Sỏi thận thường gây ứ nước và nhiễm trùng  tái đi  tái  lại  lâu ngày  làm viêm mạn niêm mạc  đài bể  thận. Thao  tác soi  thận,  tán sỏi cùng với  áp  lực dịch  tưới rữa dễ  làm  tổn  thương và gây  thủng đài bể thận. Chúng tôi ghi nhận 2 trường  hợp thủng đài bể thận, đây là nguyên nhân gây  xì nước  tiểu  sau khi  rút  thông  thận,  tuy nhiên  đây  là biến  chứng nhẹ,  chúng  tôi  lưu  thông  JJ  niệu quản 7 ngày, không cần can thiệp gì thêm.  Một  trường hợp  thủng đại  tràng được phát  hiện sớm (48 giờ sau mổ), chúng tôi cho nuôi ăn  đường  tĩnh  mạch,  kháng  sinh  phổ  rộng,  đặt  thông JJ để tách biệt đường niệu và đường tiêu  hóa.  Bệnh  nhân  ổn  định,  không  cần  phải  can  thiệp lại, xuất viện sau 13 ngày. Theo y văn, tỉ lệ  thủng đại tràng từ 0,2% đến 0,8%(5). Mặc dù rất  hiếm gặp nhưng thủng đại tràng gây ra những  hậu quả nặng nề như viêm phúc mạc, sốc nhiễm  trùng nhiễm  độc, dò  đường niệu‐đại  tràng, dò  đại  tràng  ra da hoặc  tử vong(10,18). Khoãng 85%  các trường hợp tổn thương đại tràng được điều  trị bảo  tồn(11), đặc biệt  là các  trường hợp  thủng  sau  phúc mạc,  không  có  dấu  hiệu  viêm  phúc  mạc hoặc nhiễm  trùng.  Đánh giá  trước mổ  để  phát hiện các yếu tố nguy cơ, chuẩn bị trước mổ  tốt,  chẩn  đoán  sớm  và  điều  trị  tích  cực  biến  chứng là nhũng điểm rất quan trọng để điều trị  thành  công  biến  chứng  thủng  đại  tràng  sau  phẫu thuật lấy sỏi qua da.  Thời  gian  mổ  thay  đổi  từ  60  phút  đến  140phút  (TB: 92,3±22,5phút  ). Đối với  sỏi nhỏ  có  kích  thước  <  12mm,  chúng  tôi  dùng  kềm  kéo  nguyên  viên  sỏi  ra  ngoài mà  không  cần  tán  vỡ  sỏi  ra.  Chúng  tôi  thực  hiện  2  trường  hợp  nhu  vậy,  thời  gian mổ  ngắn  từ  60  phút  đến  70 phút. Tuy nhiên  đối với  sỏi phức  tạp  như  sỏi  san  hô,  thời  gian  mổ  kéo  dài  hơn  (140ph),  do  sỏi  thường  có  kích  thước  lớn  và  mật độ cứng cho nên cần nhiều  thời gian  tán  vỡ sỏi và gắp hết các mảnh sỏi.  KẾT LUẬN  Qua 22 trường hợp đầu tiên, với tỉ lệ sạch sỏi  cao 86,36%, tai biến, biến chứng thấp; không có  trường hợp tử vong. Chúng tôi cho rằng lấy sỏi  qua  da  là  phương  pháp  an  toàn  và  hiệu  quả  trong điều trị sỏi thận. Trong tương lai, với thêm  nhiều kinh nghiệm hơn,  chúng  tôi hy vọng  có  thể  áp  dụng  thường  quy  phương  pháp  này  trong điều trị sỏi thận tại bệnh viện.  TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Abdelhafez MF, Bedke  J, Amend B  et  al  (2012). Minimally  invasive  percutaneous  nephrolitholapaxy  (PCNL)  as  an  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013  Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương  49 effective and safe procedure for large renal stones. BJUI, Apr;  pp: 1‐5.  2. Aron M, Yadav R, Goel R, Kolla  sb, Gautam G,Hemal AK,  Gupta NP (2005). Multy‐ tract percutaneous nephrolithotomy  for large complete staghorn calculi. Urol Int; 75(4): 325 – 32.  3. Desai M,  Jain P, Ganpule A, Sabnis R, Patel S, Shrivastav P  (2009). Developments in technique and technology: the effect  on the results of percutaneous nephrolithotomy for staghom  calculi. BJU Int., Mar 4. (Epub ahead of print).  4. Lê Sỹ Trung, Barbe YP, Bire J, Buttin FX, Delorme E, Lienhart  J et al (2012). Nội soi thận qua da diều trị sỏi san hô: 10 năm  kinh nghiệm của bệnh viện Việt Pháp Hà Nội. Y học Tp. Hồ  Chí Minh tập 16, phụ bản của số 3, trang: 249‐254.  5. Lingeman  JE,  Lifshitz  DA,  Evans  AP  (2002).  Surgical  management  of  urinary  lithiasis.  In  Campbellʹ  s  Urology,  volume 4, Eighth Edition, pp: 3361‐3438. Sounders Company.  6. Mani Menon, Martin  I. Resnick  (2002). Urinary Lithiasis.  In  Campell´s Urology, volume  4,  eighth  Edition,  pp:  3229‐3231.  Sounders Company.  7. Martin TV, Sosa RE  (1998).  Shock‐ware  lithotrisy.  In Walse  PC, Retik AB, Vaughan ED, Wein AJ, Campell s Urology,7th  ed, vol 3, pp: 2740. WB Saunders,Philadelphia Pennsylvania.   8. Martin  X,  Tar\jra  LC,  Gelet  A,  Dawahra  M,  Konan  PG,  Dubernard  JM  (1999).  Complete  Staghorn  Stones:  Percutaneous Approach Using One or Multiple Percutaneous  Acceses. J. EndoUrol. 13(5): 367‐368.  9. Meinbach DS, Modling D (2008), percutaneous management  of large renal stones in a private practice community setting, J.  Endourol Mar; 22(3): 447‐452.  10. Michel MS, Trojan L, Rassweiller JJ  (2007). Complications  in  percutaneous nephrolithotomy. Eur Urol 51(4): 899‐906.  11. Negrete‐Puldo  OR,  Molina‐Torres  M,  Gutierez‐Aceves  J  (2010).  Colonic  perforation  during  percutaneous  nephrolithotomy:  prevention,  diagnosis  and  treatment.  Rev  Mex Urol. 70(1): 44‐47.  12. Netto  NR,  Ikonomidis  J  Jr.,  Ikari  O,  Claro  JA  (2004).  Comparative  study  of  percutaneous  access  for  staghorn  calculi. J. Urology 11: 045.  13. Nguyễn  Việt  Cường,  Nguyễn  Thành  Đức,  Trương  Văn  Thuận, Nguyễn Hồng Oanh, Đỗ Trung Nam, Hoàng Mạnh  Hải (2012). Kết quả điều trị sỏi thận bằng phương pháp  lấy  sỏi qua da  tại bệnh viện 175. Y học Tp. Hồ Chí Minh  tập 16,  phụ bản của số 3, trang: 398‐401.  14. Ritter M, Krombach P, Michel MS (2011). Percutaneous stone  removal. J Eursup. Oct; pp: 433‐439.   15. Rosette  J,  Assimos  D,  Desai  M  et  al  (2011).  The  Clinical  Research  Office  of  Endourological  Society  Percutaneous  Nephrolithotomy  Global  Study:  indications,  complications,  and outcomes in 5803 patients. J Endourol. Jan; 25(1): 11‐17.  16. Sampaio  FJ,  Aragao  AH  (1990).  Anatomical  relationship  between  the  intrarenal  arteries  and  the  kidney  collecting  system. J. Urol. 143: 679‐81.  17. Shalaby MM, Abdalla MA, Aboul‐Ella HA, El‐Haggagy AM,  Abd‐Elsayed  AA  (2009).  Single  puncture  percutaneous  nephrolithomy  for  managament  of  complex  renal  stones.  BMC Res Notes Apri 20;2‐62.  18. Skolarikos  A,  De  La  Rosette,J  (2008).  Prevention  and  treatment  of  complications  following  percutaneous  nephrotithotomy. Curr Opin Urol. 18(2): 229‐34.   19. Tuerk C, Knoll T, Petrik A, Sarica K, Straub M, Seitz C (2012).  EAU  Guidelines  on  Urolithiasis.  Arnhem,  The  Netherlands:  European Association of Urology. Updated March 2011. Available  at:  s.pdf. Accessed Mar 2012.  20. Van der Ness MN, De Vries CS, Claassen FM, Wentzel SW  (2006). Percutaneous stone removal. SA J of Radiology Sep; pp:  6‐8.  21. Wolf  JS,  Jr,  Clayman  RV  (1997).  Percutaneous  nephrostolithotomy. What  isits role  in 1997? Urol Clin North  Am; 24: 43‐58. Doi: 10.1016/S0094‐0143(05)70353‐0.  22. Wong C, Leveillee RJ (2002). Single upper‐pole percutaneous  access for treatment of > or=5cm complex branched staghorn  calculi:  is Schockwave  lithotripsy necessary?  J Endourol Sep;  16(7):477‐81.  23. Young  AT,  Hulbert  JC,  Cardella  JK,  Hunter  DW  (1985).  Percutaneous  nephrostolithotomy:  Application  to  Staghorn  Calculi. AJR 145: 1265‐69.  Ngày nhận bài báo              04‐09‐2012  Ngày phản biện nhận xét bài báo:  11‐03‐2013  Ngày bài báo được đăng:    20–04‐2013 
Tài liệu liên quan