Đề tài Bước đầu nghiên cứu loài Núc áo rau (Spilanthes oleraceae L.) tại Đà Lạt và khảo sát khả năng tác dụng của nó trên đối tượng vi sinh vật

Điều kiện tự nhiên đã ưu đãi cho đất nước và con người Việt Nam một hệ sinh thái phong phú và đa dạng, một tiềm năng to lớn về tài nguyên cây thuốc nói riêng và tài nguyên dược liệu nói chung. Việt Nam có khoảng 3200 loài cây thuốc khác nhau [4]. Hiện nay thuốc từ dược liệu chiếm một tỷ trọng lớn trên thị trường vì thuốc có tính năng tốt và ít gây ra các phản ứng phụ khi sử dụng. Việc nghiên cứu sàng lọc và phát triển các hợp chất thiên nhiên có hoạt tính để chế biến thành thuốc thương phẩm đang rất được quan tâm.

doc52 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1498 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bước đầu nghiên cứu loài Núc áo rau (Spilanthes oleraceae L.) tại Đà Lạt và khảo sát khả năng tác dụng của nó trên đối tượng vi sinh vật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan kết quả của luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, không sao chép của ai và chưa từng được công bố dưới hình thức nào. Nội dung của luận văn có tham khảo và sử dụng tài liệu, thông tin được đăng tải trên sách, báo, tạp chí và các trang web theo danh mục tài liệu tham khảo của luận văn. Sinh viên Đinh Ngọc Thanh Quỳnh LỜI CẢM ƠN Em xin chân thành cảm ơn ban chủ nhiệm khoa Sinh học trường Đại học Đà Lạt đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình nghiên cứu đề tài luận văn tốt nghiệp cùng xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô đã tận tình dạy dỗ, truyền đạt kiến thức cho em trong suốt 4 năm học vừa qua. Em xin chân thành cảm ơn cô Hoàng Thị Bình, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp. Cô đã cho em những nhận xét và những lời khuyên bổ ích để đề tài của em được hoàn thiện hơn. Em xin cảm ơn thầy Nguyễn Khoa Trưởng đã tận tình giúp đỡ em về hướng thực nghiệm nghiên cứu vi sinh trong thời gian em thực hiện luận văn tốt nghiệp. Em xin cảm ơn các thầy cô làm việc tại Trung Tâm T.T Thư Viện đã tạo mọi điều kiện giúp em được nghiên cứu và sử dụng tài nguyên của Thư Viện trong suốt 4 năm em theo học ở trường. Con xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến bố mẹ, người đã ủng hộ và động viên giúp đỡ con về mọi mặt trong quá trình con thực hiện luận văn tốt nghiệp. Cuối cùng mình xin gửi lời cảm ơn đến tất cả các bạn, những người đã ủng hộ và giúp đỡ mình. DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH ẢNH Hình ảnh Hình 1.1: Bạch Cúc 7 Hình 1.2: Kim Cúc 9 Hình 1.3: Núc áo rau 11 Hình 3.1: Cây Núc áo rau 23 Hình 3.2: Lát cắt ngang thân 24 Hình 3.3: Lát cắt xuyên tâm 25 Hình 3.4: Biểu bì lá mặt trên và mặt dưới 26 Hình 3.5: Sơ đồ quy trình chiết bằng phương pháp Soxthlet 29 Hình 3.6: Sơ đồ quy trình chiết bằng phương pháp ngấm kiệt ngược dòng 31 Hình 3.7: Biểu đồ thể hiện sự ảnh hưởng cao chiết lên sự tăng trưởng của vi khuẩn L.acidophilus 33 Hình 3.8: Hình ảnh thể hiện sự ảnh hưởng cao chiết lên sự tăng trưởng của vi khuẩn L.acidophilus (ở độ pha loãng 10-5) 35 Hình 3.9: Hình ảnh thể hiện sự ảnh hưởng cao chiết lên sự tăng trưởng của vi khuẩn L.acidophilus (ở độ pha loãng 10-6) 36 Hình 3.10: Biểu đồ thể hiện sự ảnh hưởng của cao chiết lên sự tăng trưởng của trực khuẩn E.coli 37 Hình 3.11: Hình ảnh thể hiện sự ảnh hưởng của cao chiết lên sự tăng trưởng của trực khuẩn E.coli (ở độ pha loãng 10-7) 39 Hình 3.12: Hình ảnh thể hiện sự ảnh hưởng của cao chiết lên sự tăng trưởng của trực khuẩn E.coli (ở độ pha loãng 10-8) 40 Bảng biểu Bảng 3.1: Lượng cao chiết thu được .32 Bảng 3.2: Số lượng khuẩn lạc L.acidophilus trung bình đếm được trên các đĩa ở từng nồng độ pha loãng 33 Bảng 3.3: Số lượng khuẩn lạc E.coli trung bình đếm được trên các đĩa ở từng nồng độ pha loãng . 37 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT E.coli: Escherichia coli L. acidophilus: Lactobacillus acidophilus ĐC: đối chứng LB: Luria - Bertani MRS: Deman – Rogosa – Sharpe MỤC LỤC MỞ ĐẦU Điều kiện tự nhiên đã ưu đãi cho đất nước và con người Việt Nam một hệ sinh thái phong phú và đa dạng, một tiềm năng to lớn về tài nguyên cây thuốc nói riêng và tài nguyên dược liệu nói chung. Việt Nam có khoảng 3200 loài cây thuốc khác nhau [4]. Hiện nay thuốc từ dược liệu chiếm một tỷ trọng lớn trên thị trường vì thuốc có tính năng tốt và ít gây ra các phản ứng phụ khi sử dụng. Việc nghiên cứu sàng lọc và phát triển các hợp chất thiên nhiên có hoạt tính để chế biến thành thuốc thương phẩm đang rất được quan tâm. Theo Lê Đình Bích, trong giới thực vật được chia làm 2 phân giới: bậc thấp và bậc cao. Trong thực vật bậc cao có rất nhiều ngành thì ngành Ngọc lan (hạt kín) được quan tâm nhất vì ngành này trên thế giới có khoảng 250000 – 300000 loài. Tại Việt Nam có tới 9462 loài. Ngành Ngọc lan được chia làm 2 lớp: lớp hành (một lá mầm) và lớp Ngọc lan (hai lá mầm). Lớp Ngọc lan được chia làm nhiều phân lớp, trong đó phân lớp Cúc có 2 bộ thì bộ Cúc được quan tâm nhiều hơn bởi bộ này có họ Cúc là họ có số loài làm thuốc đông nhất trong giới thực vật có hoa gồm 125 chi trên 350 loài, trong đó có 51 loài thường làm thuốc. Trong 51 loài này có 18 loài vừa làm thuốc y học cổ truyền vừa làm nguyên liệu công nghiệp dược như Astiso, Hy thiêm, Thanh cao hoa vàng, Bạch truật… Rõ ràng họ Cúc là một kho tàng nghiên cứu phát triển cây thuốc [9]. Núc áo rau (Spilanthes oleraceae L.) là một trong 51 loài hoa thuộc họ Cúc thường được dùng làm thuốc trong dân gian. Đây là một loài hoa tiềm ẩn một sức mạnh thần kì, cùng với những công dụng tuyệt vời… Từ xa xưa, cha ông ta đã biết lợi dụng vị cay, tê, nóng của loài hoa này để chữa một số bệnh thông dụng như đau răng, đau nhức xương, đau bụng, tiêu chảy, đinh râu, mụn nhọt hay để tiêu diệt côn trùng... Những bài thuốc dân gian đó vẫn được lưu truyền đến ngày nay mặc dù chưa có một công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu về dược tính của loài hoa này, cũng như cơ chế tác dụng của nó trên cơ thể người. Chi Spilanthes gồm các loài phân bố chủ yếu ở vùng ôn đới ấm đến vùng nhiệt đới của Bắc bán cầu. Ở Việt Nam chi này có thể có 3 hoặc 4 loài. Trong đó loài oleraceae L. mọc rải rác từ vùng đồng bằng cho tới cao nguyên. Cây ưa ẩm và hơi chịu bóng, thường mọc lẫn trong bãi cỏ hay nơi đất ẩm. Hằng năm cây con mọc từ hạt vào cuối mùa xuân, ra hoa vào cuối mùa hè, tàn lụi vào cuối thu hoặc đầu đông. Hạt loài hoa này nhỏ, phát tán gần nên trong tự nhiên thường thấy nhiều cá thể mọc gần nhau[2]. Thành phố Đà Lạt với khí hậu quanh năm ôn hòa, là thiên đường cho muôn vàn loài hoa cùng khoe sắc. Núc áo rau (Spilanthes oleraceae L.) có thể thích nghi khá dễ dàng với điều kiện sống nơi đây. Vì thế ta có thể bắt gặp loài hoa này ở khá nhiều nơi tại Đà Lạt. Nhằm tìm hiểu sơ lược loài cây thuốc phổ biến có ở địa phương này để góp phần cho những nghiên cứu sâu hơn về sau, chúng tôi thực hiện đề tài:“Bước đầu nghiên cứu loài Núc áo rau (Spilanthes oleraceae L.) tại Đà Lạt và khảo sát khả năng tác dụng của nó trên đối tượng vi sinh vật”. Nội dung nghiên cứu chính của đề tài bao gồm: Tìm hiểu sơ lược đặc điểm sinh học, sinh thái của loài hoa này. Xác định quy trình tách chiết cao chất có trong cây Núc áo rau (Spilanthes oleraceae L.). Đánh giá khả năng ứng dụng của cao chiết thông qua đánh giá mức độ ảnh hưởng của nó lên sự tăng trưởng của vi sinh vật. PHẦN MỘT TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN CỦA KHU VỰC NGHIÊN CỨU 1.1.1. Khí hậu Đà Lạt 1.1.1.1. Chế độ nhiệt Thành phố Đà Lạt nằm trên cao nguyên LangBiang, thuộc phía Bắc tỉnh Lâm Đồng. Trải qua nhiều thời kì thay đổi hiện nay thành phố Đà Lạt có tọa độ được xác định như sau: Điểm cực Bắc: 12°04' Bắc. Điểm cực Nam: 11°52' Bắc. Điểm cực Tây: 108°20' Đông. Điểm cực Đông: 108°35' Đông[10]. Đà Lạt nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng bức, nhưng do ảnh hưởng của độ cao địa hình nên Đà Lạt thường hưởng một chế độ nhiệt ôn hòa, dịu mát quanh năm. Nhiệt độ trung bình tháng không bao giờ vượt quá 20°C, ngay cả trong những tháng nóng nhất. Tuy nhiên Đà Lạt cũng không phải là nơi có nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất. Ngay trong các tháng mùa đông, nhiệt độ trung bình tháng vẫn là 15°C. Nhiệt độ tương đối ổn định qua các mùa, biên độ giao động nhỏ. Đây là điểm rất tiêu biểu của một chế độ khí hậu nhiệt đới thuộc vùng cao. Nằm ở độ cao 1500m, Đà Lạt có nền nhiệt độ thấp. Nhiệt độ trung bình năm là 17,9oC. Năm nóng nhất (1983) giá trị này lên tới 18,2oC và năm lạnh nhất cũng chỉ xuống 17,6oC. Ở Đà Lạt, tháng 1 là tháng lạnh nhất trong năm, nhiệt độ trung bình là 15,7oC. Từ tháng 2 trở đi nhiệt độ tăng dần và đạt giá trị lớn nhất là 19,5oC vào tháng 5. Sau đó nhiệt độ giảm dần cho đến cuối năm. Nhiệt độ thấp nhất trung bình giao động từ 11-12oC trong mùa khô và tăng đến 14-16oC trong mùa mưa. Nhiệt độ cao nhất trung bình phổ biến ở Đà Lạt là 21-23oC. Trong các tháng 2, 3 và 4, giá trị này lên đến 24-25oC. Một đặc điểm đáng chú ý trong chế độ nhiệt ở Đà Lạt là biên độ ngày đêm rất lớn. Biên độ trung bình năm là 9,0oC. Trong các tháng giữa mùa khô (1-3), biên độ rất lớn (đạt tới 12-14oC). Giữa mùa mưa, biên độ giảm (chỉ đạt 6-7oC). Đà Lạt chịu ảnh hưởng chủ yếu của hai loại gió mùa. Đó là gió mùa Đông Bắc và gió mùa Tây Nam. Thời gian thịnh hành của chúng còn được phân biệt bởi hai mùa là mùa khô và mùa mưa trong năm[11,12]. 1.1.1.2. Chế độ độ ẩm Độ ẩm tương đối của không khí trong các tháng mùa mưa ở Đà Lạt khá cao (86-91%). Tháng 7, tháng 8 và tháng 9 có độ ẩm lớn nhất (trên dưới 90%). Các mùa khô từ 75-85%. Do ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc nên trong các tháng 2, 3 độ ẩm xuống thấp nhất (75-79%). Trong thời kỳ này cá biệt có những ngày độ ẩm lúc 13 giờ chỉ có 7-15%. Như vậy độ ẩm của các tháng trong năm chênh lệch không lớn (16%). Biến trình năm của độ ẩm thấp nhất trung bình lúc 13 giờ cũng tương tự như độ ẩm trung bình, trị số thấp nhất rơi vào tháng 3 (40%) và cao nhất vào tháng 7, 8 (68%), biên độ năm giao động 23%[11,12]. 1.1.1.3. Lượng mưa Chế độ mưa ở Đà Lạt ôn hòa thường bắt đầu giữa tháng 4. Khi trường gió Tây Nam ổn định và mạnh lên dần từ tháng 6 thì bắt đầu xuất hiện những đợt mưa kéo dài. Những trận mưa như vậy cũng thường xảy ra khi có bão hoặc áp thấp ngoài biển Đông vì Đà Lạt là nơi khá nhạy cảm với thời tiết của cả nước. Mùa mưa ở Đà Lạt thường kết thúc vào tháng 10, đôi khi giữa tháng 11. Như vậy mùa mưa trên thành phố cao nguyên này kéo dài khoảng 6 tháng. Tháng 4 và tháng 11 được xem là thời điểm “giao mùa” giữa hai mùa mưa và nắng. Lượng mưa trong năm phân bố không đều theo thời gian. Lượng mưa trung bình của Đà Lạt vào khoảng 1800mm. Tháng 9 là tháng có lượng mưa trung bình tháng lớn nhất 300mm. Thực tế mỗi năm thời tiết diễn biến không giống nhau, nên lượng mưa hàng năm cũng biến động mạnh mẽ, khác nhiều so với số liệu trung bình[11,12]. 1.1.1.4. Chế độ ánh sáng Đà Lạt ở vào vĩ độ thấp (11o57'B) trong năm có 2 lần mặt trời đi qua thiên đỉnh vào tháng 4 và tháng 8. Độ cao mặt trời khá lớn. Tháng có độ cao mặt trời lớn nhất là tháng 4 và tháng bé nhất là tháng 12. Giờ chiếu sáng trong ngày từ tháng 4 đến tháng 9 là trên 12 giờ, những tháng khác trên dưới 11.5 giờ. Như vậy độ dài ngày giữa các mùa không chênh lệch nhau mấy và Đà Lạt thuộc vào nơi ngày ngắn. Chính vì vậy Đà Lạt chỉ thích hợp với các giống cây trồng có quang kỳ ngắn hoặc trung. Đối với những cây quang kỳ dài đưa vào Đà Lạt sẽ có hiện tượng ra hoa sớm, năng suất kém. Mặc dù tháng 4 và tháng 8 có độ cao mặt trời lớn nhất, thế nhưng không phải là tháng có tổng xạ lớn nhất. Vì từ tháng 4 trở đi đã vào mùa mưa nên tổng lượng bức xạ bị giảm. Tổng xạ đạt đến trị số cực đại trong năm vào tháng 3 (16,4 Kcal/cm2 tháng) và cực tiểu rơi vào tháng 9 (9,3 Kcal/ cm2 tháng). Biên độ năm của tổng xạ là 7,1 Kcal/ cm2. Lượng mây tổng quan trung bình năm ở Đà Lạt biến đổi nhiều qua các mùa. Từ tháng 4, tháng 5 lượng mây tăng nhanh lên cho đến tháng 7 thì đạt giá trị cực đại trong năm. Đó cũng là thời gian khí đoàn nhiệt đới Ấn Độ Dương hoạt động mạnh nhất. Lượng mây trung bình các tháng mùa mưa từ 4,5 - 6,3. Thường vào cuối tháng 10, đầu tháng 11 khi gió mùa Tây Nam hoàn toàn mất ảnh hưởng trên cao nguyên Lâm Viên thì lượng mây cũng giảm đi rõ rệt. Đặc biệt từ tháng 1 đến tháng 3 là thời gian khí đoàn cực đới hoạt động chủ yếu, lượng mây rất ít, chỉ vào khoảng 2,7 - 3,5. Giờ nắng phụ thuộc chặt chẽ và tỷ lệ nghịch với lượng mây. Chính vì vậy mà trong thời kỳ ngày dài nhất cũng không hẳn là thời kỳ có số giờ nắng trong ngày nhiều nhất. Dù tháng 6 có ngày dài nhất trong năm nhưng chỉ có 165 giờ nắng, ít hơn cả số giờ nắng của tháng 12. Nhìn chung các tháng trong mùa mưa, do lượng mây nhiều nên số giờ nắng ít, thậm chí có tháng chỉ bằng một nửa hoặc ít hơn số giờ nắng của tháng mùa khô. Tháng 7 là tháng có số giờ nắng ít nhất với 121 giờ. Sau mùa mưa, số giờ nắng tăng nhanh, đến tháng 3 là tháng có số giờ nắng nhiều nhất với 288 giờ[11,12]. 1.1.2. Thổ nhưỡng Trải qua các hoạt động địa chất lâu dài, chủ yếu là quá trình phong hóa và chịu ảnh hưởng sâu đậm của khí hậu, địa hình, hệ thực vật khu vực, trên bề mặt địa hình Đà Lạt đã hình thành một lớp phủ thổ nhưỡng với các loại đất khác nhau, mang tính đai cao rõ nét. Quá trình phong hóa tạo đất ở Đà Lạt xảy ra tương đối mạnh mẽ và trong một thời gian dài để lại lớp phong hoá dày. Theo bảng phân loại mới dùng cho bản đồ đất của Việt Nam, các loại đất Đà Lạt thuộc hai nhóm chính: nhóm đất feralit vàng đỏ phân bố ở độ cao 1000 - 1500m và nhóm mùn vàng đỏ trên núi phân bố ở độ cao 1000 - 2000m. Các nhóm khác như đất phù sa, đất than bùn, đất bồi tụ chiếm diện tích không đáng kể[11,12]. 1.2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU MỘT SỐ LOÀI CÂY THUỘC HỌ CÚC (ASTERACEAE) CÓ KHẢ NĂNG CHỮA BỆNH VÀ HOA NÚC ÁO RAU (SPILANTHES OLERACEAE L.) 1.2.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu một số loài cây thuộc họ Cúc (Asteraceae) có khả năng chữa bệnh trên thế giới Họ Cúc (Asteraceae) bao gồm chủ yếu là các cây thân cỏ, cây bụi và một số rất ít cây thân gỗ. Cúc có khoảng 23600 loài, là một họ hoa có số loài nhiều thứ hai sau họ Lan. Hoa Cúc không chỉ chinh phục lòng người bằng hương sắc rực rỡ và tinh khiết mà nhiều loài trong họ hoa này còn là những loài thảo dược quý mang lại nhiều lợi ích cho đời sống con người. Một số loài hoa Cúc đã được nghiên cứu có công dụng chữa bệnh: Cúc hoa trắng hay Bạch cúc (Chrysanthemum morifolium R. = C.sinense): Hình 1.1: Bạch Cúc Bạch Cúc chỉ bắt đầu được mô tả vào năm 1689 và đây là loài hoa được trồng nhiều tại Hà Lan. Cây bị chìm vào quên lãng và chỉ được tái phát hiện vào năm 1789. Sau đó loài cây này được trồng và phát triển rất mạnh tại châu Âu. Năm 1753, Linnaeus đã đặt tên cho chi của cây là Chrysanthemum. Chrysanthemum morifolium ngày nay thật ra là loài được pha trộn gen ít nhất là từ 6 loài Cúc khác nhau. Các nghiên cứu dược học về Cúc trắng: Hoạt tính trên huyết áp: Các nghiên cứu tại Nhật và Trung Hoa trong thập niên 70 ghi nhận: Nước sắc, đun sôi trong 15 phút với 24-30g hoa Cúc và 24-30g hoa Kim ngân (Lonicera japonica), chia thành 4 liều và dùng uống thay trà. Nghiên cứu này được thử nghiệm trên 46 người bệnh, uống trong 3-7 ngày liên tục. Kết quả huyết áp hạ về mức bình thường ở 35% bệnh nhân, số còn lại có kết quả tốt sau 1-12 ngày dùng thuốc. Các bệnh nhân huyết áp cao và có thêm triệu chứng choáng váng được cho dùng thêm 12g lá dâu tằm (tang diệp) sắc chung. Bệnh nhân bị sơ động mạch và mỡ cao trong máu được cho uống thêm 12-24g sơn trà (Crataegus pinnatifida). Các triệu chứng như chóng mặt, choáng váng đều thuyên giảm[13]. Tác dụng trị đau tức ngực (angina pectoris): Một nghiên cứu khác tại Trung Hoa ghi nhận: Nước sắc hoa Cúc dùng với 61 trường hợp đau tức ngực cho kết quả hữu hiệu trên 80% bệnh nhân. Kết quả rất tốt với 43.3% bệnh nhân và làm thuyên giảm triệu chứng bệnh cho 36.7% các bệnh nhân bị tức ngực, hồi hộp. 45 % bệnh nhân có những thay đổi về điện tâm đồ. Một số bệnh nhân giảm được huyết áp, và tất cả bệnh nhân đều không gặp các phản ứng phụ[13]. Hoạt tính kháng sinh: Các dung dịch chiết từ lá Cúc trắng có hoạt tính ức chế sự tăng trưởng của các chủng vi khuẩn như vi khuẩn Staphylococcus aureus, Beta-hemolytic Streptococcus và Shigella sonnei. Có thể dùng lá tươi, nghiền nát và đắp trực tiếp vào mụn nhọt hay vắt lấy nước thoa vào vết thương. Nghiên cứu tại Đại học Nihon (Nhật) ghi nhận các triterpinoids, trích từ hoa có hoạt tính ức chế vi khuẩn Lao Mycobacterium tuberculosis, chủng H(37) Rv ở những nồng độ tối thiểu MIC từ 4-64 microg/ml. Nghiên cứu tại Viện Khoa Học và Kỹ Thuật Quốc Gia Đại Hàn Seoul ghi nhận flavonoid glucuronide apigenin-O-beta-D-(4’’-caffeoyl) glucuronide có hoạt tính ức chế men HIV-1 integrase ở IC(50)=7.2+/- 3.4 microg /ml) và chống hoạt động của HIV trong môi trường cấy tế bào EC(50)= 41.86 +/- 1.43 microg/ml, khi cấy vác tế bào MT-4 bị nhiễm HIV-1 (IIIB) (Planta Nedica Số 69-2003)[13]. Hoạt tính trên các tế bào ung thư: Nghiên cứu tại Đại học Nihon, Tokyo (Nhật) ghi nhận 15 chất diol và triol loại pentacyclic triterpene gồm 6 loại taraxastane (faradiol, heliantriol B0, helantriol C, 22 alpha-methoxyfaradiol, arnidiol và faradiol alpha-epoxide) và 5 loại oleananes (maniladiol, erythrodiol, longispinogenin, coflodiol và heliantriol A), 2 loại ursanes (brein và uvaol), 2 loại lupanes (calenduladiol và heli antriol B2), trích từ hoa Cúc trắng, khi được thử nghiệm về tác dụng ức chế sự kích khởi sinh kháng thể siêu vi Epstein-Barr (EB-EA) gây ra bởi chất tạo u-bướu 12-O-tetradecanoylphorboil-1-acetate (nơi tế bào Raji) cho thấy các chất này có hoạt tính ức chế mạnh hơn glycyrrhetic acid (đã được xem là một chất chống u bướu). Trong số này arnidiol có hoạt tính diệt tế bào ung thư mạnh nhất , liều GI50 (liều gây ức chế 50% tăng trưởng) là < 6 microM. (Cancer letter Số 8 (March)-2002)[13]. Hoạt tính kháng viêm: Dịch chiết hoa Cúc trắng, từ phần tan trong hexane và phần tan trong chất béo, sau khi tinh khiết hóa, đã cho nhiều loại esters acid béo (gần 30 chất khác nhau) và nhiều diol, triol loại triterpene (24 hợp chất). Các hợp chất này được thử nghiệm về hoạt tính chống sưng trên loại sưng viêm ở chuột gây ra bằng 12-O-tetradecanoylphorbol-13-acetate (TPA). Kết quả ghi nhận tính chất kháng viêm rất rõ với liều ID50 là 0.03-1.0mg mạnh hơn cả tác dụng của quercetin. (Journal of Agricultural and Food Chemistry Số 49-2001)[13]. Các đặc chế chứa Cúc trắng của Trung Hoa: Tại Trung Hoa, hiện có một số đặc chế được Bộ Y-Tế Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa chính thức cho phép sử dụng để điều trị một số bệnh. Đặc chế Jiantangkang được dùng để trị các chứng tiểu đường không tùy thuộc vào insulin (Chung kuo Chung His I Chieh Tsa Chih Số 17-1977). Bạch cúc là một trong 7 dược thảo được dùng trong đặc chế PC-SPES để trị ung thư, cho kết quả là làm giảm rõ rệt nồng độ PSA (prostate-specific antigen), diệt được các tế bào ung thư, đồng thời làm giảm đáng kể testosterones. Trong 2 thử nghiệm, nồng độ PSA giảm hạ ngay sau 1 tháng dùng thuốc (New England Journal of Medicine Số 339-1998). Đặc chế Hua-sheng-ping phối hợp Cúc trắng, Cam thảo và Tam thất đã được dùng để trị các vết lở loét tiền ung thư[13]. Cúc hoa vàng hay Kim cúc (Chrysanthemum indicum L.): Cúc hoa vàng có nguồn gốc từ Trung Hoa, Nhật Bản, được trồng rất phổ biến tại các quốc gia Châu Á như Ấn Độ, Việt Nam. Các nghiên cứu dược học về Cúc hoa vàng: Hình 1.2: Kim Cúc Tác dụng ức chế sự sản xuất nitric oxide: Nghiên cứu tại Đại học Kyoto (Nhật) ghi nhận dịch chiết hoa Cúc vàng bằng methanol và ethyl acetate chứa các flavonoids có hoạt tính ức chế sự sản xuất nitric oxide nơi các đại thực bào kích khởi do liposaccharides, và ức chế hoạt động của men aldose-reductase (Chemical Pharmacy Bulletin (Tokyo) Số 5-2000)[13]. Khả năng trị gout: Trong trường hợp bệnh gout: men xanthine oxydase là chất xúc tác sự oxy hóa hypoxanthine thành xanthine và sau đó thành acid uric. Acid uric là chất đóng vai trò quan trọng gây ra gout. Nghiên cứu tại ĐH Nam Kinh (Trung Hoa) ghi nhận dịch chiết hoa Cúc vàng bằng methanol cho thấy có tác dụng ức chế men này ở nồng độ IC50 là 22 microgram/ml (trong khi đó nồng độ allopurinol dùng làm đối chứng là 1.06 microg/ml) (Journal of Ethnopharmacology Số 73-2000)[13]. Hoạt tính kháng sinh: Các dịch chiết từ hoa cúc vàng có tác dụng ức chế sự tăng trưởng của nhiều vi khuẩn (15 loại) và nấm trong đó gồm Staphylococcus aureus, Shigella spp và cả vài siêu vi trùng loại Echo[13]. Khả năng hạ huyết áp: Các chế phẩm từ hoa cúc vàng khi cho dùng uống hay chích đều làm hạ huyết áp nhanh chóng. Các chế phẩm dùng toàn cây có tác dụng độc hại hơn và hoạt tính kém hơn là trích từ hoa. Dịch chiết từ hoa ở liều 100-200mg/kg có thể gây ra hạ huyết áp nhưng không ảnh hưởng trên tim và gan (The Pharmacology of Chinese Herbs)[13]. Tác dụng trị bệnh đường hô hấp: Trong một thử nghiệm tại Nhật trên 1000 bệnh nhân về tác dụng của Cúc vàng trong việc ngừa cảm, ghi nhận những người uống nước sắc hoa cúc vàng mỗi tuần một lần, có thể giảm được 13.2% những cơn cảm lạnh (so với năm trước đó). Khi thử nghiệm trên 119 trường hợp sưng phổi kinh niên, 38% giảm
Tài liệu liên quan