Đề tài Đánh giá thị trường tài chính Việt Nam hậu WTO

Thị trường tài chính là một sản phẩm bậc cao của nền kinh tế thị trường, hay nói chính xác hơn là nền kinh tế tiền tệ ở đó bên cạnh các thị trường khác, thị trường tài chính hoạt động như là một sự kết nối giữa người cho vay đầu tiên và người sử dụng cuối cùng, tạo ra vô số các giao dịch, dù động cơ nào, cũng tạo ra các dòng chảy về vốn trong một nền kinh tế. Thị trường tài chính giúp cho việc sử dụng vốn có hiệu quả hơn, không chỉ đối với người có tiền đầu tư mà còn có cả với người vay tiền để đầu tư. Người cho vay sẽ có lãi thông qua lãi suất cho vay. Người đi vay vốn phải tính toán sử dụng vốn vay có hiệu quả Thị trường tài chính là chiếc cầu nối giữa cung và cầu vốn trong nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi chuyển nguồn vốn nhàn rỗi sang nơi thiếu vốn để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế. Thông qua thị trường tài chính hình thành giá mua giá bán các loại cổ phiếu, trái phiếu, kỳ phiếu, giấy nợ ngắn hạn, dài hạn .hình thành nên tỷ lệ lãi suất đi vay, lãi suất cho vay, lãi suất ngắn hạn, trung hạn, dài hạn. Thị trường tài chính bao gồm: thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán và thị trường tín dụng ngân hàng, giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phân bổ hữu hiệu các nguồn vốn trong nền kinh tế. Có được thị trường tài chính phát triển lành mạnh là một nhân tố thiết yếu đảm bảo ổn định vĩ mô, tăng trưởng kinh tế và nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.

doc53 trang | Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1235 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá thị trường tài chính Việt Nam hậu WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Thị trường tài chính là một sản phẩm bậc cao của nền kinh tế thị trường, hay nói chính xác hơn là nền kinh tế tiền tệ ở đó bên cạnh các thị trường khác, thị trường tài chính hoạt động như là một sự kết nối giữa người cho vay đầu tiên và người sử dụng cuối cùng, tạo ra vô số các giao dịch, dù động cơ nào, cũng tạo ra các dòng chảy về vốn trong một nền kinh tế. Thị trường tài chính giúp cho việc sử dụng vốn có hiệu quả hơn, không chỉ đối với người có tiền đầu tư mà còn có cả với người vay tiền để đầu tư. Người cho vay sẽ có lãi thông qua lãi suất cho vay. Người đi vay vốn phải tính toán sử dụng vốn vay có hiệu quả Thị trường tài chính là chiếc cầu nối giữa cung và cầu vốn trong nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi chuyển nguồn vốn nhàn rỗi sang nơi thiếu vốn để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế. Thông qua thị trường tài chính hình thành giá mua giá bán các loại cổ phiếu, trái phiếu, kỳ phiếu, giấy nợ ngắn hạn, dài hạn ….hình thành nên tỷ lệ lãi suất đi vay, lãi suất cho vay, lãi suất ngắn hạn, trung hạn, dài hạn. Thị trường tài chính bao gồm: thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán và thị trường tín dụng ngân hàng, giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phân bổ hữu hiệu các nguồn vốn trong nền kinh tế. Có được thị trường tài chính phát triển lành mạnh là một nhân tố thiết yếu đảm bảo ổn định vĩ mô, tăng trưởng kinh tế và nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Với công cuộc đổi mới và cải cách kinh tế, nền kinh tế Việt Nam đã từng bước chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch tập trung sang cơ chế thị trường và ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới.Trong bối cảnh đó, thị trường tài chính cũng đã được hình thành và cải cách theo các nguyên tắc thị trường, góp phần phân bổ các nguồn lực tài chính một cách hiệu quả hơn và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Gần đây 7/11/2006, Việt Nam đã chính thức gia nhập Tổ chức Thưong mại thế giới (WTO), đồng nghĩa với việc mở ra nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với nền kinh tế đất nước nói chung và thị trường tài chính nói riêng. Những vấn đề về thị trường tài chính là rất rộng và phức tạp, nhất là trong bối cảnh gia nhập WTO. Trong bài viết này, em xin trình bày về đề tài “ Đánh giá thị trường tài chính Việt Nam hậu WTO ”. Đây cũng chính là cơ sở để xem xét những cơ hội và thách thức chủ yếu đối với thị trường tài chính sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới WTO. CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH 1.Tài chính và thị trường tài chính 1.1. Tài chính 1.1.1. Bản chất của tài chính: Lịch sử xã hội cho thấy tài chính ra đời và phát triển gắn liền với sự ra đời của nhà nước và sản xuẩt hàng hóa. Tài chính là hệ thống quan hệ kinh tế biểu hiện trong quá trình hình thành phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế Cần phân biệt quan hệ hàng hóa - tiền tệ và quan hệ tài chính. Trong quan hệ hàng hóa – tiền tệ, thì tiền biểu hiện như vật ngang giá, vật trung gian và giá trị thay đổi hình thức tồn tại từ hàng sang tiền đối với người bán và ngược lại đối với người mua. Trong quan hệ tài chính thì khác, giá trị thực sự dịch chuyển từ chủ thể này sang chủ thể khác. Chẳng hạn, khi một doanh nghiệp nộp thuế cho nhà nước, giá trị dịch chuyển từ quỹ tài chính doanh nghiệp sang ngân sách nhà nước, do đó quan hệ về thuế là quan hệ tài chính. Trong thời kỳ quá độ, quan hệ tài chính biểu hiện qua các quan hệ dưới đây: Quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp, dân cư, các tổ chức xã hội với nhà nước. Đây là nhóm quan hệ giá trị có tính chất bắt buộc tập trung vào ngân sách nhà nước và sự phân phối giá trị đó phải bảo đảm cho các hoạt động của nhà nước diễn ra bình thường. Trong mối quan hệ này giá trị dịch chuyển theo hai chiều từ dân cư doanh nghiệp và các tổ chức vào ngân sách nhà nước và ngược lại. Quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp, tổ chức xã hội, dân cư với hệ thống ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần hệ thống các ngân hàng, các tổ chức tiến dụng ngày càng giữ vị trí quan trọng trong việc tài trợ vốn cho các hoạt động nói chung, sản xuất kinh doanh nói riêng, tạo thuận lợi phát triển mạnh mối quan hệ tài chính – tiền tệ tín dụng giữa các doanh nghiệp, các tổ chức với ngân hàng. Quan hệ tài chính giữa các chủ thể kinh tế với thị trường. Đây là mối quan hệ thể hiện sự mua bán các “ quỹ tiền tệ ” tồn tại dưới các hình thức khác nhau. Tham gia mua bán trên thị trường tài chính là hầu hết các chủ thể kinh tế xã hội. Nhà Nước cũng tham gia vào nhóm quan hệ tài chính này với tư cách là người mua và bán các quỹ tiền tệ. Nhà Nước bán quỹ tiền tệ của mình bằng việc phát hành công trái. Trong mối quan hệ tài chính nói trên, quan hệ mua bán “ vốn ” giữa các doanh nghiệp và nhân dân đặc biệt quan trọng.Nhà nước cần tạo ra các điều kiện và biện pháp hữu hiệu để vừa hướng dẫn, điều tiết sự hình thành và phát triển của thị trường tài chính theo phương hướng đã định. Quan hệ tài chính trong nội bộ mỗi chủ thể (doanh nghiệp, tổ chức, xã hội ,dân cư…):Quan hệ này biểu hiện ở sự dịch chuyển của giá trị trong quá trình hoạt động của mỗi tổ chức thông qua việc chi trả lương, thưởng cho viên chức, công nhân, người lao động, phân phối thu nhập giữa các thành viên trong nội bộ mỗi chủ thể.Thông qua hướng dẫn, điều tiết, nhà nước vừa đảm bảo cho các quan hệ tài chính không phát triển tự phát như trong chủ nghĩa tư bản ,vừa hướng dẫn mối quan hệ này phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 1.1.2. Chức năng của tài chính: Tài chính có 2 chức năng: Thứ nhất, chức năng phân phối: Tài chính tham gia vào cả phân phối lần đầu và phân phối lại. Phân phối lần đầu diễn ra trong lĩnh vực sản xuất vật chất giữa các doanh nghiệp với người lao động và nhà nước cụ thể là sau khi các doanh nghiệp tiêu thụ được sản phẩm, số doanh thu này sẽ được phân phối cho các quỹ: quỹ bù đắp tư liệu sản xuất, quỹ trả công cho người lao động, khoản nộp cho ngân sách nhà nước, khoản trả lợi tức cổ phần, phần còn lại là lợi nhuận của các doanh nghiệp để mở rộng sản xuất và nâng cao phúc lợi của doanh nghiệp. Phân phối lại nhằm đáp ứng nhu cầu chung cho xã hội như: duy trì bộ máy nhà nước, phát triển văn hóa, xã hội, y tế, thể thao… Quá trình phân phối lại thông qua ngân sách nhà nước và các tổ chức tài chính, ngân hàng thương mại, hợp tác xã tín dụng, công ty bảo hiểm…) Thứ hai, chức năng giám đốc: Chức năng giám đốc của tài chính biểu hiện ở chỗ, tài chính có vai trò như người “giám sát”, đôn đốc, kiểm tra, điều chỉnh tình hình hoạt động của các doanh nghiệp. Cơ sở của chức năng giám đốc là sự thống nhất giữa sự vận động của các quỹ tiền tệ với quá trình hoạt động của nhà nước và các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Thông qua sự vận động của các quỹ tiền tệ, người ta có thể biết được tình hình thực hiện hoạt động của các doanh nghiệp để có giải pháp điều chỉnh. 1.1.3. Vai trò của tài chính Một là, điều tiết nền kinh tế Nhà nước thực hiện vai trò này thông qua sự kết hợp giữa hai chức năng:phân phối và giám đốc. Trên cơ sở kiểm tra, giám sát bằng đồng tiền, nhà nước nắm được thực tế hoạt động của nền kinh tế, từ đó phát hiện ra những vấn đề cần can thiệp, điều tiết. Bằng các chính sách phân phối, nhà nước điều tiết nền kinh tế theo kế hoạch đã định. Nhà nước có thể dùng biện pháp đầu tư thêm vốn để đẩy mạnh những ngành phát triển kém và các lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế quốc dân. Nhà nước cũng có thể dùng biện pháp giảm vốn đầu tư và hỗ trợ để hạn chế phát triển những ngành và những khâu chưa cần thiết… Đồng thời, Nhà nước cũng có thể thông qua việc nâng cao hoặc hạ thấp thuế suất để điều tiết hoạt động đầu tư kinh doanh giữa các nghành nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển cân đối theo định hướng, mục tiêu. Hai là, xác lập và tăng cường các quan hệ kinh tế - xã hội Để làm lành mạnh hóa quan hệ tài chính, một mặt nhà nước cần có những biện pháp cấp bách điều chỉnh các quan hệ tài chính kể cả biện pháp cấp bách buộc các doanh nghiệp thanh toán nợ nần trong thời gian ngắn. Mặt khác, Nhà nước còn phải chủ động tạo điều kiện thúc đẩy sự ra đời các thị trường vốn trung hạn, dài hạn, nhất là thị trường chứng khoán và hướng dẫn chúng phát triển đúng hướng. Ba là, tích tụ và tập trung vốn, cung ứng vốn cho các nhu cầu của sự công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong nền kinh tế luôn diễn ra quá trình di chuyển nguồn tài chính hai chiều từ lĩnh vực sản xuất, từ trong nước ra nước ngoài và ngược lại, từ lĩnh vực phi sản xuất sang lĩnh vực sản xuất và từ nước ngoài vào trong nước. Nếu nhà nước có chính sách tốt điều chỉnh các quan hệ tài chính nảy sinh trong các quá trình di chuyển nói trên thì có thể thúc đẩy quá trình tập trung vốn cho đầu tư phát triển giảm bớt các chi phí không cần thiết và thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài. Bốn là, tăng cường tính hiệu quả của sản xuất, kinh doanh Thông qua việc điều chỉnh các quan hệ thu chi tài chính và phân phối thu nhập, theo nguyên tắc khuyến khích vật chất, xử lý chính xác mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa nhà nước, doanh nghiệp và người lao động, tài chính có thể năng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, thông qua chức năng giám đốc tài chính duy trì kỷ luật tài chính ,góp phần đẩy lùi lãng phí tham ô. Năm là, hình thành quan hệ tích lũy, tiêu dùng hợp lý Nhà nước cần thường xuyên thực hiện việc phân phối lại và điều chỉnh sự phân phối từng bước cho phù hợp, có thể điều tiết bằng cách đánh thuế thu nhập người có thu nhập cao, hỗ trợ người có thu nhập thấp hoặc cũng có thể thành lập các quỹ xóa đói giảm nghèo, quỹ hỗ trợ tạo việc làm cho người nghèo, nâng lương cho người lao động ở các nghành có thu nhập thấp…. Sáu là, củng cố liên minh công nông, tăng cường vai trò của nhà nước và an ninh quốc phòng. Lý luận và kinh nghiệm thực tiễn cho thấy một nền kinh tế tài chính lành mạnh theo hướng tăng trưởng kinh tế - xã hội vững chắc cho việc củng cố liên minh công – nông trí thức, nền tảng cho việc tăng cường vai trò của nhà nước và an ninh quốc phòng. 1.2 Thị trường tài chính 1.2.1 Định nghĩa Thị trường tài chính là nơi diễn ra hoạt động giao dịch và mua bán quyền sử dụng nhứng khoản vốn thông qua cáchình thức giao dịch và những công cụ tài chính nhất định Đối tượng được mua bán trên thị trường tài chính là các khoản vốn. Để mua bán các khoản vốn này, người ta sử dụng các công cụ giao dịch nhất định. 1.2.2 Phân loại thị trường tài chính Có nhiều cách phân loại thị trường tài chính: Nếu phân loại theo công cụ tài chính trên thị trường thì ta có: Thị trường nợ Thị trường vốn Nếu phân loại theo thời gian luân chuyển vốn: Thị trường tiền tệ: thị trường có thời gian luân chuyển vốn không quá 1 năm Thị trường vốn: thị trường có thời gian luân chuyển vốn trên 1 năm trở lên Nếu phân loại theo hình thức phát hành, thì ta có: Thị trường sơ cấp: thị trường phát hành chứng khoán đầu tiên Thị trường thứ cấp: thị trường mua đi bán lại chứng khoán Tuy nhiên, trong thực tế việc sử dụng các hình thức phân loại nào thì sẽ tùy thuộc vào cấn đề mà người ta muốn nghiên cứu đến. Thông thường, khi nói đến thị trường tài chính người ta thường phân theo hai cách dưới 1.2.3. Cấu thành của thị trường tài chính Trong một thị trường tài chính hiện đại, luôn có ba thành phần cơ bản sau đây tham gia: Người sử dụng cuối cùng Các định chế tài chính trung gian Các nhà đầu tư. 1.2.4 Vai trò của thị trường tài chính Thị trường tài chính có 3 chức năng cơ bản sau: Thứ nhất, hình thành giá các tài sản chính: Thông qua tác động qua lại giữa những người mua và những người bán, giá của tài sản tài chính(chứng khoán)được xác định, hay nói cách khác,lợi tức cần phải có trên một tài sản chính được xác định.Yếu tố thúc đẩy các doanh nghiệp goi vốn chính là mức lợi tức mà các nhà đầu tư yêu cầu, và với đặc điểm này của thị trường tài chính đã phát tín hiệu cho biết vốn trong nền kinh tế cần được phân bổ như thế nào giữa các tài sản chính, quá trình đó được gọi là quá trình hình thành giá. Thứ hai, cung cấp một cơ chế để cho các nhà đầu tư bán một tài sản chính: Với đặc tính này, thị trường tài chính là thị trường tạo ra tính thanh khoản. Thiếu tính thanh khoản, các nhà đầu tư phải nắm giữ tài sản chính cho đến khi nào hết hạn, hoặc đối với cổ phiếu cho khi nào công ty tự nguyện thu hồi hoặc nếu không tự nguyện thì phải chờ thanh lý tài sản. Mặc dù tất cả các thị trương tài chính đều có tính thanh khoản, nhưng mức độ thanh khoản sẽ là khác nhau giữa chúng Thứ ba, giảm bớt chi phí tìm kiếm và chi phí thông tin: Để các giao dịch có thể diễn ra thì những người mua và người bán phải tìm đựơc nhau. Họ phải mất rất nhiều tiền và thời gian cho việc tìm kiếm này, ảnh hưởng đến lợi nhuận kỳ vọng của họ.Chi phí đó là chi phí tìm kiếm.Bên cạnh đó, để tiến hành đầu tư họ cần có các thông tin về giá trị đầu tư như khối lượng va tính chắc chắn của dòng tiền kỳ vọng.thị trường tài chính nhờ có tinh tập trung này là nơi để tập trung người mua và người bán đến đó tìm gặp nhau, là nơi cung cấp thông tin một cách công khai và đầy đủ - nên có khối lương giao dịch và giá trị giao dịch lớn vì thế nó cho phép giảm đến mức thấp nhất những khoản choi phí trên. Thị trường tài chính phát triển cùng với trình độ phát triển của nền kinh tế, đi từ đơn giản đến phức tạp. Ở trình độ phát triển ngày càng cao, thị trường tài chính ngày càng có nhiều loại trung gian tài chính tham gia. Các trung gian tài chính ngày càng tạo ra nhiều loại sản phẩm đa dạng, đáp ứng đầy đủ nhu cầu của các bên tham gia thị trường CHƯƠNG II THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Thực trạng thị trường chứng khoán( TTCK ) Thực ra, chứng khoán đã xuất hiện từ lâu ở Việt Nam, đó là những công trái dài hạn, những trái phiếu…. được phát hành và thường áp đạt cho công chúng mua khi nhà nước chính thiếu hấp dẫn nên kết quả của chứng khoán không cao. Khi nền kinh tế có nhiều thành phần, khu vực kinh tế tư nhân được mở rộng , luật công ty ra đời. Theo đó các công ty cổ phần được phát hành cổ phiếu, trái phiếu và chúng trở thành những mặt hàng của thị trường chứng khoán. Nếu một thị trường chứng khoán được thành lập việc mua bán các mặt hàng trên sẽ dễ dàng hơn và do đó việ thu hút vốn sẽ thuận tiện hơn. 2.1.1 Những thuận lợi và khó khăn của thị trường chứng khoán Việt Nam * Những thuận lợi Năm 1986 đánh dấu sự thay đổi căn bản trong đường lối đổi mới của Chính phủ nhằm chuyển nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự thay đổi quản lý của Nhà nước. Cuộc cải cách đã và đang kéo theo hàng loạt những thay đổi tích cực tạo nên tiền đề để hình thành một thị trường tài chính ở Việt Nam Điều hết sức quan trọng là Nhà nước đã khẳng định sự đa dạng hóa các hình thức sở hữu. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần có phép giải phóng mọi năng lực sản xuất kinh doanh, huy động tối đa và có hiệu quả các năng lực cho công cuộc phát triển đất nước. Những thành tựu kinh tế đáng khích lệ trong mấy năm qua khá khả quan, lam phát được giảm xuống còn 17,2% năm 1992 và 5,2 năm 1993, ổn định kinh tế đi đôi với tăng trưởng, đầu tư nước ngoài lên đến gần 15 tỷ đô la… thì ý tưởng hình thành một thị trường chứng khoán ở Việt Nam là có khả thi trong một tương lai gần. Nền kinh tế thị trường đang thay đổi dần thói quen và nếp nghĩ của dân chúng trong việc sử dụng vốn tích lũy của mình. Là nước có nền kinh tế phát triển sau nên có thuận lợi là tiếp thu được khoa học tiên tiến của thế giới, có thời cơ và điều kiện để rút ra kinh nghiệm bổ sung những khiếm khuyết của mô hình thị trường chứng khoán các nước. Những điều kiện thuận lợi trên đây là những tiền đề để có thể chuẩn bị ra đời một thị trường chứng khoán ở nước ta. * Những khó khăn Nền kinh tế chưa thật ổn định, hiệu quả của nền kinh tế còn thấp, tỷ lệ tích lũy đầu tư còn nhỏ. Năng suất lao động thấp, chất lượng của nhiều sản phẩm kém sức cạnh tranh, thị trường tiêu thụ còn hẹp. Trình độ quản lý yếu kém, nhiều sơ hở, chưa đẩy lùi được nạn tham nhũng, buôn lậu kinh doanh gian dối. Về môi trường pháp lý, hệ thống pháp luật của chúng ta những năm nay tuy đã được củng cố, bổ sung nhưng thực sự đang còn rất yếu, chưa đồng bộ và kém hiệu lực. Đặc biệt chúng ta chưa có những bộ luật liên quan đến sự ra đời và hoạt động của thị trường chứng khoán như:luật dân sự, luật thương mại, luật đầu tư trong nước, luật chứng khoán và một số bộ luật đã có nhưng chưa hoàn chỉnh cần được sửa đổi bổ sung. Nghiêm trọng hơn nữa là việc chấp hành những luật đã có không nghiêm minh, nên đã kéo theo nhiều hậu quả tiêu cực làm giảm sút làng tin. Đây là một khó khăn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng dẫn đến sự thành công hay thất bại của thị trường chứng khoán. 2.1.2 Tình hình hoạt động thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay Thị trường chứng khoán đã ra đời từ lâu trên thế giới thế nhưng ở Việt Nam đây vẫn còn là một khái niệm khá mới mẻ. Tuy nhiên để Việt Nam có thể hòa vào cùng với sự phát triển của thế giới và tạo đà thúc đẩy nền kinh tế trong nước phát triển chúng ta phải cố gắng để xây để xây dựng một thị trường chứng khoán. Đây là một công việc hết sức khó khăn đòi hỏi sự cố gắng, quyết tâm của nhiều ban nghành cũng như các cấp lãnh đạo. Sau ba tháng ráo riết chuẩn bị, một sự kiện đáng ghi nhớ và có ý nghĩa trong đời sống kinh tế chính trị của nước ta là việc khai trương thị trường chứng khoán đầu tiên của nước ta ngày 20/7/2000. * Về doanhh nghiệp tham gia vào thị trường chứng khoán Tại thời điểm thành lập, nước ta có 600 công ty cổ phần, trong đó có 60 công ty đủ điều kiện niêm yết trên thị trường chứng khoán nhưng chỉ có 5 công ty tham gia niêm yết. Hiện nay đã có sự biến đổi nhưng chưa đáng kể đã có tới 660 công ty cổ phần trong đó có 80 công ty có đủ tiêu chuẩn tham gia niêm yết nhưng số lượng cáccông ty tham gia niêm yết vẫn chỉ dừng lại ở con số5 gồm: Hpaco, REE, SAM, Lafooco và TMS. Với cầu cổ phiếu từ lúc đầu và sau khi thành lập tăng nhanh nhưng số công ty tham gia niêm yết ít nên hàng hóa trên thị trường chứng khoán thiếu rất nhiều, Cung không đáp ứng đủ cầu. Để giúp cho thị trường chứng khoán hoạt động sôi động và có hiệu quả, Nhà nước đã có những chính sách ưu đãi về thuế, phí… nhằm kích thích sự tham gia niêm yết của các công ty cổ phần. Tuy nhiên, cho đến nay những chính sách ấy vẫn chưa có hiệu quả, thể hiện ở chỗ số lượng các công ty tham gia niêm yết vẫn chưa tăng thêm. Vậy vì sao các công ty chưa tham gia niêm yết? Một thực tế cho thấy qua khảo sát có tới 62% các công ty chưa có ý định hoặc chưa đủ điều kiện tham gia trên thị trường chứng khoán. Nguyên nhân chủ yếu là do các công ty chưa nhận thức được đầy đủ lợi ích của việc niêm yết chứng khoán trong họat động kinh doanh của các doanh nghiệp, thiếu hụt các kiến thức cơ bản về các nghiệp vụ tiền tệ ngân hàng và chứng khoán. Trong 100 doanh nghiệp được khảo sát có nhiều doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực không liên quan đến hoạt động kinh doanh chứng khoán trên thị trường. Nhiều khả năng có thể họ chỉ tham gia dưới hình thức phát hành cổ phiếu chứ không thành lập công ty chứng khoán. Khi được hỏi về mục đích tham gia thị trường chứng khoán thì 38 doanh nghiệp đều có mục đích là nhằm đa dạng hóa hoạt động của công ty, tạo chỗ đứng trên thị trường chứng khoán, sử dụng tốt nguồn vốn và kinh doanh chứng khoán để kiếm lời. Một số rất ít các công ty có mục tiêu thành lập quỹ đầu tư chứng khoán và có công ty tham gia để thực hiện nhiệm vụ chính trị và thúc đẩy quá trình cổ phần hóa các DNNN trên địa bàn tỉnh như công ty xuất nhập khẩu tỉnh Bình Dương, 35 doanh nghiệp phản ánh những vướng mắc kiến thức về thị trường chứng khoán, chỉ có 5 trong số 38 công ty đã từng hoạt động trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ, ngân hàng và 7 doanh nghiệp có đội ngũ nhân viên được đào tạo về lĩnh vực tài chính, tiền tệ, ngân hàng. Còn về dự kiến mô hình công ty chứng khoán và các hoạt động kinh doanh chứng khoán thì cả 38 doanh nghiệp đều băn khoăn không biết thành lập theo mô hình nào cho phù hợp. Sau khi được các điều tra viên giải thích thì hầu hết đều muốn thành lập theo mô hình tổng công ty cổ phần vì khả năng huy động vốn của loại hình
Tài liệu liên quan