Đề tài Đánh giá tính hợp lí của pháp luật về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả

Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 được ban hành ngày 02/07/2002 đã thay thế Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 1995. Qua hai lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 2007, 2008 pháp lệnh đang ngày càng hoàn thiện và phù hợp với thực tiễn cuộc sống. Trong pháp lệnh, các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và biện pháp khắc phục hậu quả là một trong những nội dung quan trọng. Đây chính là cơ sở pháp lí và là những biện pháp hiệu quả để đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật nói chung và vi phạm pháp luật hành chính nói riêng. Sau đây bài làm của em xin tìm hiểu về đề tài: “Đánh giá tính hợp lí của pháp luật về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả”.

doc15 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2118 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Đánh giá tính hợp lí của pháp luật về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Trang A) ĐẶT VẤN ĐỀ……………………………………………………………………..…..1 B) GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ…………………………………………………………...….2 I) Một số vấn đề lý luận về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khác phục hậu quả………………………………………………………..2 II) Đánh giá tính hợp lí của pháp luật về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính………………………………………………………………………………..3 III) Đánh giá tính hợp lí của các biện pháp khắc phục hậu quả………………………9 C) KẾT LUẬN……………………………………………………………………….…13 DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………….…14 BÀI LÀM A) ĐẶT VẤN ĐỀ Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 được ban hành ngày 02/07/2002 đã thay thế Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 1995. Qua hai lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 2007, 2008 pháp lệnh đang ngày càng hoàn thiện và phù hợp với thực tiễn cuộc sống. Trong pháp lệnh, các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và biện pháp khắc phục hậu quả là một trong những nội dung quan trọng. Đây chính là cơ sở pháp lí và là những biện pháp hiệu quả để đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật nói chung và vi phạm pháp luật hành chính nói riêng. Sau đây bài làm của em xin tìm hiểu về đề tài: “Đánh giá tính hợp lí của pháp luật về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả”. Trong bài làm chắc chắn còn nhiều thiếu sót, em rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn! B) GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I) Một số vấn đề lý luận về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khác phục hậu quả Khi cá nhân hay tổ chức thực hiện hành vi vi phạm pháp luật nói chung và vi phạm pháp luật hành chính nói riêng, về nguyên tắc Nhà nước sẽ buộc họ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi nhất định thông qua việc xử phạt cũng như có thể buộc họ phải áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả. Việc áp dụng các hình thức xử phạt nhằm mục đích trừng phạt đối với người vi phạm, giáo dục họ và những người khác trong xã hội, khôi phục lại trật tự quản lí nhà nước đã bị xâm hại, ngăn ngừa khả năng tái phạm vi phạm hành chính. Còn việc áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả nhằm khắc phục triệt để những hậu quả do vi phạm hành chính gây ra vì lợi ích của cộng đồng, bảo đảm hoạt động bình thường của xã hội, đồng thời thể hiện tính kiên quyết và triệt để trong xử lí vi phạm hành chính. Sau đây chúng ta sẽ tìm hiều những nét cơ bản nhất về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả. Trong xử phạt hành chính, các hình thức xử phạt có thể được chia thành hai loại: hình thức xử phạt chính và hình thức xử phạt bổ sung. +Hình thức xử phạt chính gồm: cảnh cáo và phạt tiền +Hình phạt bổ sung gồm: tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề và tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính Ngoài hai nhóm hình thức xử phạt trên, đối với người nước ngoài vi phạm hành chính trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn có thể bị xử phạt trục xuất. Hình thức xử phạt trục xuất vừa là hình thức xử phạt chính vừa có thể là hình thức xử phạt bổ sung và chỉ áp dụng đối với người nước ngoài. Các biện pháp khắc phục hậu quả: + Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép. + Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh do vi phạm hành chính gây ra. + Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất hàng hoá, vật phẩm, phương tiện. + Buộc tiêu huỷ vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi và cây trồng, văn hoá phẩm độc hại. + Các biện pháp khác do chính phủ quy định. Khi tìm hiểu về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả, ta cần lưu ý một số điểm sau: Thứ nhất: Đối với mỗi vi phạm hành chính, cá nhân, tổ chức vi phạm phải chịu một trong hai hình thức xử phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc cả hai hình phạt bổ sung. Như vậy ta có thể thấy, cá nhân tổ chức khi vi phạm hành chính chỉ phải chịu một hình thức xử phạt chính duy nhất mà thôi. Nếu đã cảnh cáo thì không phạt tiền mà đã phạt tiền thì không cảnh cáo, không thể có trường hợp vừa bị cảnh cáo lại vừa bị phạt tiền. Pháp luật quy định xử phạt cảnh cáo hay phạt tiền đối với hành vi vi phạm hành chính dựa trên sự đánh giá của nhà nước về tính chất và mức độ xâm hại của hành vi đó đối với các quy tắc quản lí nhà nước. Ngoài hình thức xử phạt chính, pháp luật còn quy định hình thức xử phạt bổ sung nhằm mục đích hỗ trợ cho hình thức xử phạt chính, được áp dụng kèm theo hình thức xử phạt chính, sẽ không có hình thức xử phạt bổ sung được áp dụng độc lập. Hình thức xử phạt bổ sung chỉ được áp dụng đối với một số vi phạm hành chính nhất định chứ không phải tất cả mọi vi phạm hành chính. Thứ hai: Ngoài các hình hình thức xử phạt chính và bổ sung, cá nhân, tổ chức vi phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả. Như vậy có thể thấy biện pháp khắc phục hậu quả không phải được áp dụng đối với tất cả mọi vi phạm hành chính. Biện pháp này chỉ áp dụng khi tại các nghị định của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lí nhà nước có quy định việc áp dụng đối với vi phạm hành chính cụ thể. Ví dụ như vi phạm trong các lĩnh vực trật tự, quản lí, quy hoạch đô thị, lĩnh vực bảo vệ môi trường…Ví dụ như một hộ gia đình xây dựng nhà ở quá số tầng được ghi tại giấy phép xây dựng thì nhà nước buộc họ phải tháo dỡ phần công trình được xây dựng trái phép đó, bảo đảm mĩ quan và an toàn đô thị. Thứ ba: Ngoài những biện pháp khắc phục hậu quả được quy định tại Điều 12 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính 2002 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2007 và 2008), Chính phủ có thể quy định những biện pháp khắc phục hậu quả khác mà Pháp lệnh chưa quy định. Sở dĩ như vậy vì Pháp lệnh chỉ quy định một số biện pháp khắc phục hậu quả chung, áp dụng cho đa số các lĩnh vực quản lí nhà nước. Một số lĩnh vực quản lí nhà nước khác mang tính chuyên ngành cao, có những biện pháp khắc phục hậu quả mang tính riêng biệt, đặc thù và một số biện pháp khắc phục hậu quả khác có thể chưa được dự liệu hết…Trong những trường hợp này, để bảo đảm sự linh hoạt và tính hợp lí đối với từng lĩnh vực quản lí nhà nước, việc Pháp lệnh quy định các biện pháp khắc phục hậu quả khác do Chính phủ quy định là phù hợp với thực tế hiện nay. Ví dụ như trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, khi một sản phẩm, tác phẩm bị xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ thì pháp luật buộc người vi phạm phải cải chính công khai, đây là một biện pháp khắc phục hậu quả mà Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính không đề cập đến. II) Đánh giá tính hợp lí của pháp luật về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính Các hình thức xử phạt vi phạm pháp luật hành chính đã được đề cập đến ở phần trên. Sau đây em xin tìm hiểu tính hợp lí của từng hình thức cụ thể. Nhìn chung các hình thức xử phạt này là tương đối hợp lí so với tình hình thực tế tại Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn một số điểm bất hợp lí, bài làm của em sẽ tìm hiểu cụ thể vấn đề này. 1) Cảnh cáo Cảnh cáo là hình thức xử phạt chính, được quy định tại điều 13 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính 2002 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2007 và 2008) như sau: “Điều 13. Cảnh cáo Cảnh cáo được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ hoặc đối với mọi hành vi vi phạm hành chính do người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện. Cảnh cáo được quyết định bằng văn bản”. Hình thức xử phạt này thể hiện một số điểm khá hợp lí như sau: + Thứ nhất: Cảnh cáo được áp dụng đối với mọi hành vi vi phạm hành chính do người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện. Đây là quy định mới của Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính 2002 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2007 và 2008) so với Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính 1995. Việc sửa đổi này là hợp lí, phù hợp và đồng bộ với chính sách xử lí hình sự đối với người chưa thành niên quy định tại điều 69 BHLS năm 1999 (có sửa đổi bổ sung một số điều năm 2009). Đồng thời, về mặt tâm sinh lí và mức độ nhận thức, người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chưa có sự nhận thức hoàn toàn đúng đắn về các hành vi mà họ thực hiện, chưa nhận thức được đầy đủ hậu quả của hành vi đồng thời mức độ hiểu biết về pháp luật còn chưa đầy đủ và chính xác, do vậy sẽ không thể áp dụng được các hình thức xử phạt khác mang tính trừng phạt nghiêm khắc hơn được, việc áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo sẽ tác động đến nhận thức của họ, giúp họ hiểu được hành vi của mình là trái pháp luật. Điều này rất cần thiết vì những người trong độ tuổi này đang trong quá trình học hỏi, tích lũy kinh nghiệm, rèn luyện đạo đức…Tại điều 6 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính 2002 còn quy định: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt hành chính về vi phạm hành chính do cố ý”. Như vậy có thể thấy việc pháp luật có những quy định hợp lí khi xử phạt đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt là cảnh cáo cũng rất hợp lí. + Thứ hai: Cảnh cáo được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ. Điều này cũng rất hợp lí. Vì những hành vi này có tính nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, nếu áp dụng biện pháp phạt tiền sẽ không phát huy được tác dụng, khiến người vi phạm có thái độ chống đối, phẫn uất, không chấp hành các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, bên cạnh những điểm hợp lí trên, chúng ta cũng cần phải đánh giá một cách khách quan và toàn diện các khía cạnh, và như vậy cũng cần phải thấy rằng quy định này còn một số điểm chưa hợp lí như sau: + Thứ nhất: hình thức xử phạt này áp dụng đối với cá nhân từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Tuy nhiên, việc xác định được một đối tượng vi phạm bao nhiêu tuổi thì không phải đơn giản và trong nhiều trường hợp rất khó xác định. Một số trường hợp vi phạm có thời gian để xác minh vụ việc như đánh nhau, trộm cắp tài sản nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự…thì cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể có thời gian để xác minh được người vi phạm bao nhiêu tuổi, có thể xác minh được đội tuổi của những người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thông qua nhiều cơ sớ như giấy chứng minh nhân dân, giấy khai sinh, hộ khẩu, xác nhận của gia đình,…Tuy nhiên, với các trường hợp có thể xử lí ngay, ví dụ như vi phạm Luật giao thông đường bộ như không đội mũ bảo hiểm khi ngồi trên xe môtô, xe gắn máy thì cần xác định tuổi của người vi phạm như thế nào? Làm sao biết họ từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi để có hình thức xử phạt hợp lí. Nếu họ không mang chứng minh nhân dân, thì làm sao biết họ chưa đủ 14 tuổi (độ tuổi này chưa được cấp chứng minh nhân dân và cũng không bị xử phạt gì nếu vi phạm), đã đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi (độ tuổi này đã được cấp chứng minh nhân dân nhưng chỉ bị phạt cảnh cáo về hành vi vi phạm), từ 16 tuổi trở lên (độ tuổi này có thể phải chịu hình phạt tiền). Với mức sống hiện nay, việc phân biệt những người trong độ tuổi 13 với 14, 15 với 16 là rất khó khăn, do vậy sẽ gây khó khăn cho công tác xử lí vi phạm. + Thứ hai: Việc xác định vi phạm lần đầu cũng rất khó xác định. Tại Điều 11 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính 2002 có quy định như sau: “Cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính, nếu qua một năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt mà không tái phạm thì được coi như chưa bị xử phạt vi phạm hành chính”. Tuy nhiên, nếu trong một năm, một đối tượng vi phạm ở địa phương này sau đó lại sang địa phương khác vi phạm thì việc xác định là vô cùng khó khăn. Do vậy cần phải tăng cường sự quản lí nhân khẩu trong hệ thống cơ quan nhà nước hiện này. + Thứ ba: Ý nghĩa của hình thức xử phạt cảnh cáo là thể hiện thái độ răn đe nghiêm khắc của Nhà nước đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính, gây cho người bị xử phạt những tổn thất nhất định về mặt tinh thần. Nhưng trên thực tế, ý nghĩa này được thể hiện ở mức độ nào lại là một dấu hỏi lớn. Phải thừa nhận rằng ít ai cảm thấy xấu hổ, tổn hại về mặt tinh thần…khi bị nhà nước cảnh cáo. Họ chỉ cảm thấy may mắn vi không bị phạt tiền mà thôi. Và vì ý nghĩa không đạt được, do vậy hình thức thể hiện là văn bản phần nào thấy được sự rườm rà và không cần thiết. Tuy nhiên, hình thức này cũng phần nào giúp người vi phạm hiểu được một điều là hành vi của họ là trái pháp luật. 2) Phạt tiền Phạt tiền là một trong hai hình thức xử phạt chính và cũng là hình thức xử phạt chủ yếu hiện nay. Thậm chí, khi nghĩ đến xử phạt vi phạm hành chính, nhiều người nghĩ ngay đến hình thức xử phạt này. Phạt tiền là việc tước bỏ của cá nhân, tổ chức vi phạm một khoản tiền nhất định để sung quỹ nhà nước. Phạt tiền tác động trực tiếp lên lợi ích vật chất, lợi ích kinh tế của cá nhân, tổ chức vi phạm, gây cho họ hậu quả bất lợi về tài sản. Vì lí do này, hình thức xử phạt này có hiệu quả rất lớn trong việc đấu tranh phòng chống vi phạm hành chính. Hình thức phạt tiền được quy định tại điều 14 của Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính 2002 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2007 và 2008). Nó thể hiện được nhiều điểm hợp lí, phù hợp với tình hình xã hội và thực tiễn áp dụng. Cụ thể như sau: + Thứ nhất: Mức phạt tiền được quy định trong khoảng từ 10.000 đồng đến 500.000.000 đồng. So với Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính 2002 chưa được sửa đổi, bổ sung năm 2008 thì mức phạt tối thiểu đã tăng lên từ 5.000 đồng lên 10.000 đồng. Điều này là rất hợp lí, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay. Nếu mức phạt tiền quá cao sẽ không phù hợp với điều kiện kinh tế chung của toàn xã hội, nếu quy định mức phạt tiền thấp sẽ không phát huy được tác dụng hữu hiệu của việc phạt tiền, khiến cá nhân, tổ chức bị xử phạt có thái độ “khinh nhờn” pháp luật. + Thứ hai: Pháp lệnh quy định mức phạt tiền tối đa và tối thiểu trong xử phạt vi phạm hành chính có khoảng cách khá lớn vì vi phạm hành chính rất đa dạng, thuộc về nhiều lĩnh vực, đa dạng về tính chất và mức độ vi phạm. Vì vậy, cần thiết có mức phạt thấp để áp dụng với những vi phạm nhỏ, hậu quả ít nghiêm trọng và mức phạt cao đối với những vi phạm hành chính có tính chất nghiêm trọng hơn. Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý rằng mức phạt tối đa 500.000.000 đồng là mức phạt đặc biệt chỉ áp dụng khi có đủ 2 điều kiện: thứ nhất là cá nhân, tổ chức có hành vi xâm hại vùng lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, điều kiện thứ hai là hành vi có mục đích nghiên cứu, thăm do khai thác nguồn lợi hải sản, dầu khí, các tài nguyên thiên nhiên khác. Thức chất, với hai điều kiện trên, mức phạt nàỳ chỉ áp dụng đối với cá nhân, tổ chức nước ngoài mà thôi. + Thứ ba: Các quy định về hình thức phạt tiền xác định rõ mức phạt tiền tối đa trong từng lĩnh vực quản lí nhà nước. Mỗi lĩnh vực có một đặc thù riêng, do vậy tính chất và mức độ nguy hiểm cũng khác nhau. Do vậy không thể quy định một mức phạt tối đa chung cho tất cả các lĩnh vực vì mức phạt có thể phù hợp với lĩnh vực này mà không phù hợp với lĩnh vực khác. Ví dụ mức phạt tối đa lên đến 70.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực an toàn giao thông đường sắt, tuy nhiên mức phạt này không phù hợp khi áp dụng đối với các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực an toàn giao thông đường bộ. Vì chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy những vi phạm hành chính trong lĩnh vực đường sắt nguy hiểm hơn nhiều so với đường bộ, nó có thể gây thiệt hại đến tính mạng của rất nhiều người cũng như gây thiệt hại về kinh tế lớn hơn rất nhiều so với giao thông đường bộ. + Thứ tư: Hình phạt tiền chỉ áp dụng cho cá nhân từ đủ 16 tuổi trở lên và các tổ chức khi họ có hành vi vi phạm pháp luật hành chính. Đối với các cá nhân từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phạt cảnh cáo mà không phạt tiền. Điều này là rất hợp lí, vì những người trong độ tuổi này phần lớn không có tài sản riêng, họ chưa đến tuổi lao động (pháp luật quy định là từ đủ 16 tuổi trở lên có thể tham gia lao động và trở thành chủ thế của hợp đồng lao động) do vậy sẽ không có tài sản riêng, do vậy việc phạt tiền là không phù hợp, trong trường hợp này chỉ có thể xử phạt bằng hình thức cảnh cáo mà thôi. + Thứ năm: Đối với những lĩnh vực chưa được pháp lệnh quy định, chưa được dự liệu trước thì chính phủ có thẩm quyền quy định mức phạt tối đa nhưng không quá 100.000.000 đồng. Điều này rất hợp lí bởi những lẽ sau: Trong thực tiễn, xã hội phát triển rất nhanh và đa dạng trên nhiều lĩnh vực khác nhau và có những ngành nghề mới ra đời, do vậy pháp lệnh không thể dự liệu hết được, đồng thời việc sửa đổi pháp lệnh không phải là việc làm nhanh chóng, do vậy cần thiết phải trao cho một cơ quan có thẩm quyền quy định cách thức giải quyết và tiến hành xử phạt kịp thời những hành vi gây thiệt hại cho xã hội. Cơ quan được giao nhiệm vụ này là Chính Phủ - cơ quan đừng đầu trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước. Do chính phủ thực hiện chức năng quản lí nhà nước, do vậy sẽ nắm bắt tình hình một cách nhanh nhạy, kịp thời, nên sẽ có quyết định xử lí kịp thời nhất. Mức xử phạt trong trường hợp này được quy định là không quá 100.000.000 đồng, việc quy định mức tối đa này sẽ khiến Chính Phủ không thể tùy tiện quy định mức phạt quá cao, mà phải hợp lí với tình hình thực tiễn. Tuy nhiên, bên cạnh những điểm hợp lí đã nêu ở trên, hình thức xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền cũng còn một số điểm chưa hợp lí như sau: + Thứ nhất: pháp luật quy định, khi vi phạm pháp luật hành chính, nếu người vi phạm không có tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ thì sẽ áp dụng mức hình phạt trung bình của khung. Còn nếu có tình tiết giảm nhẹ (được quy định tại điều 8 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính 2002 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2007 và 2008) ) thì có thể được áp dụng mức phạt tiền thấp hơn mức trung bình nhưng không được thấp quá mức tối thiểu. Ngược lại, nếu có nhiều tình tiết tăng nặng được quy định tại điều 9 của pháp lệnh thì có thể bị áp dụng mức phạt tiền cao hơn mức trung bình nhưng không được vực quá mức tối đa. Tuy nhiên, trên thực tế, các cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền thường rất ít khi quan tâm đến tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ mà họ thường áp dụng luôn mức trung bình của khung. Sở dĩ có điều này vì việc ra quyết định xử phạt hành chính được tiến hành theo thủ tục hành chính, do vậy quyết định rất nhanh chóng, mang ý chí đơn phương, không hề có sự trao đổi giữa người bị phạt với người có thẩm quyền phạt, đồng thời không hề có luật sư bảo vệ quyền lợi của người bị xử phạt như trong lĩnh vực luật hình sự, do vậy các tình tiết giảm nhẹ thường không được xét đến. Ví dụ nếu ta điều khiển xe môtô, xe gắn máy mà “chở theo 2 (hai) người trên xe, trừ trường hợp chở người bệnh đi cấp cứu, trẻ em dưới 14 tuổi, áp giải người có hành vi vi phạm pháp luật” thì theo quy định của khoản 3 điều 9 nghị định 34/2008/NĐ-CP khung hình phạt là từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng. Tuy nhiên khi ra quyết định xử phạt, các đồng chí cảnh sát giao thông thường ra quyết định xử phạt ngay với mức phạt tiền là 150.000 đồng mà không quan tâm đến các tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ. Do vậy, yêu cầu đặt ra là cần phải nâng cao trình độ nghiệp vụ của các cá nhân có thẩm quyền, như vậy mới đảm bảo pháp luật được thực thi một cách chính xác. + Thứ hai: hình thức xử phạt vi phạm hành chính là phạt tiền này đã nảy sinh rất nhiều chuyện “xin xỏ” dẫn đến việc tiền xử phạt không được nộp vào ngân sách nhà nước mà vào túi các cá nhân có thẩm quyền. Chuyện này xảy ra ở rất nhiều cá lĩnh vực, nhưng điển hình và khá phổ biến là lĩnh vực an toàn giao thông đường bộ. Hiện nay nhiều người dân khá bức xúc trước cách xử lí như vậy của một bộ phận cảnh sát giao thông cũng như cảnh sát cơ động. Khi vi phạm và bị xử phạt, người ta thường “xin xỏ”, xin giảm mức tiền phạt xuống dưới cả mức tối thiểu, cũng như không cần nhận biên bản vi phạm hành chính và quyết định xử phạt, tiền sẽ được chuyển thẳng cho cảnh sát giao thông hoặc cảnh sát cơ động mà không cần nộp vào kho bạc nhà nước. Đây là một thực trạng rất nhức nhối, và một lần nữa, cần phải nâng cao đượ
Tài liệu liên quan