Đề tài Giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam

Ngày nay, Thương mại điện tử đang là một xu thếphát triển tất yếu trên thếgiới. Thương mại điện tử đang phát triển nhanh và làm biến đổi sâu sắc các phương thức kinh doanh, thay đổi hình thức, nội dung hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội của loài người. Đểthúc đẩy quá trình hội nhập, thu hút khách hàng cũng nhưgiành giật cơhội trong kinh doanh, hầu hết các ngân hàng trên thếgiới đang không ngừng tăng cường và đưa ra các dịch vụtiện lợi, nhanh gọn và được hỗtrợmạnh mẽcủa các công nghệhiện đại nhưmáy giao dịch tự động (ATM), máy thanh toán tại các điểm bán hàng (POS), mạng lưới cung cấp dịch vụngân hàngthông qua mạng điện thoại, máy tính cá nhân Với sựphát triển mạnh mẽcủa công nghệthông tin và truyền thông, của khoa học kỹ thuật, của công nghệmới nhưInternet, mạng điện thoại di động, Web , mô hình ngân hàng với hệthống quầy làm việc, những tòa nhà cao ốc, giờlàm việc hành chính 7, 8 giờsáng đến 4, 5 giờchiều (“brick and mortar” Banking) đang dần được cải tiến và thay thếbằng mô hình ngân hàng mới – ngân hàng điện tử(“ click and mortar” Banking). Khẳng định bằng những thành công trong những năm qua, ngân hàng điện tử đã có những bước phát triển vượt bậc và trởthành mô hình tất yếu cho hệthống ngân hàng trong thếkỷ21. Tại các nước đi đầu nhưMỹ, các nước Châu Âu, Australia và tiếp sau đó là các quốc gia và vùng lãnh thổnhư: Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Hồng Kông, Đài Loan các ngân hàng ngoài việc đẩy mạnh phát triển hệthống thanh toán điện tửcòn mởrộng phát triển các kênh giao dịch điện tử(E – Banking) nhưcác loại thẻgiao dịch qua máy rút tiền tự động ATM, các loại thẻtín dụng Smart Card, Visa, Master card và các dịch vụngân hàng trực tuyến như: Internet Banking, Mobile banking, Telephone Banking, Home Banking. Theo thống kê của Stegman, năm 2001 ởMỹcó 2 trên 14 triệu khách hàng sửdụng các dịch vụngân hàng trực tuyến. ỞAnh, theo khảo sát của BACS (Bankers Automated Clearing Services), sốngười sửdụng dịch vụnày đã tăng từ3,5 triệu lên 7,8 triệu trong vòng hai năm. Sốngười thanh toán hóa đơn và chuyển tiền qua internet hoặc qua điện thoại cũng tăng mạnh. Trong năm 2002 đã có 7,2 triệu người thanh toán các loại chi phí và chuyển khoản theo đường này tăng 44% so năm 2001 và đã có tổng cộng 72 triệu lượt thanh toán trực tuyến, trong đó sốngười sửdụng thẻtín dụng chiếm hơn một nửa. Ởkhu vực Châu Á – Thái Bình Dương, Singapore và Hồng Kông đã phát triển các dịch vụngân hàng điện tửtừrất sớm. Tại Hồng Kông, dịch vụngân hàng điện tửcó từnăm 1990, còn các ngân hàng ởSingapore cung cấp dịch vụngân hàng qua Internet từnăm 1997. Dịch vụInternet Banking ở Thái Lan hoạt động từnăm 2001. Trung Quốc mới tham gia hoạt động ngân hàng trực tuyến từnăm 2000 nhưng đã có rất nhiều cải cách vềchính sách cũng nhưchiến lược đểphát triển lĩnh vực này. Theo một khảo sát mới đây của IDC, đến hết năm 2002, có 16,8 triệu khách hàng sửdụng các dịch vụngân hàng trực tuyến ởtám nước và vùng lãnh thổlà Trung Quốc, Australia, Hồng Kông, Ấn Độ, Malaysia, Singapore, Đài Loan.

pdf81 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1753 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ - SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÁT TRIỂN NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ TRONG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM. 1.1 TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ 1.1.1. Sự phát triển của ngân hàng điện tử trên thế giới. Ngày nay, Thương mại điện tử đang là một xu thế phát triển tất yếu trên thế giới. Thương mại điện tử đang phát triển nhanh và làm biến đổi sâu sắc các phương thức kinh doanh, thay đổi hình thức, nội dung hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội của loài người. Để thúc đẩy quá trình hội nhập, thu hút khách hàng cũng như giành giật cơ hội trong kinh doanh, hầu hết các ngân hàng trên thế giới đang không ngừng tăng cường và đưa ra các dịch vụ tiện lợi, nhanh gọn và được hỗ trợ mạnh mẽ của các công nghệ hiện đại như máy giao dịch tự động (ATM), máy thanh toán tại các điểm bán hàng (POS), mạng lưới cung cấp dịch vụ ngân hàng thông qua mạng điện thoại, máy tính cá nhân… Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và truyền thông, của khoa học kỹ thuật, của công nghệ mới như Internet, mạng điện thoại di động, Web…, mô hình ngân hàng với hệ thống quầy làm việc, những tòa nhà cao ốc, giờ làm việc hành chính 7, 8 giờ sáng đến 4, 5 giờ chiều (“brick and mortar” Banking) đang dần được cải tiến và thay thế bằng mô hình ngân hàng mới – ngân hàng điện tử (“ click and mortar” Banking). Khẳng định bằng những thành công trong những năm qua, ngân hàng điện tử đã có những bước phát triển vượt bậc và trở thành mô hình tất yếu cho hệ thống ngân hàng trong thế kỷ 21. Tại các nước đi đầu như Mỹ, các nước Châu Âu, Australia và tiếp sau đó là các quốc gia và vùng lãnh thổ như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Hồng Kông, Đài Loan… các ngân hàng ngoài việc đẩy mạnh phát triển hệ thống thanh toán điện tử còn mở rộng phát triển các kênh giao dịch điện tử (E – Banking) như các loại thẻ giao dịch qua máy rút tiền tự động ATM, các loại thẻ tín dụng Smart Card, Visa, Master card… và các dịch vụ ngân hàng trực tuyến như: Internet Banking, Mobile banking, Telephone Banking, Home Banking. Theo thống kê của Stegman, năm 2001 ở Mỹ có 2 trên 14 triệu khách hàng sử dụng các dịch vụ ngân hàng trực tuyến. Ở Anh, theo khảo sát của BACS (Bankers Automated Clearing Services), số người sử dụng dịch vụ này đã tăng từ 3,5 triệu lên 7,8 triệu trong vòng hai năm. Số người thanh toán hóa đơn và chuyển tiền qua internet hoặc qua điện thoại cũng tăng mạnh. Trong năm 2002 đã có 7,2 triệu người thanh toán các loại chi phí và chuyển khoản theo đường này tăng 44% so năm 2001 và đã có tổng cộng 72 triệu lượt thanh toán trực tuyến, trong đó số người sử dụng thẻ tín dụng chiếm hơn một nửa. Ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, Singapore và Hồng Kông đã phát triển các dịch vụ ngân hàng điện tử từ rất sớm. Tại Hồng Kông, dịch vụ ngân hàng điện tử có từ năm 1990, còn các ngân hàng ở Singapore cung cấp dịch vụ ngân hàng qua Internet từ năm 1997. Dịch vụ Internet Banking ở Thái Lan hoạt động từ năm 2001. Trung Quốc mới tham gia hoạt động ngân hàng trực tuyến từ năm 2000 nhưng đã có rất nhiều cải cách về chính sách cũng như chiến lược để phát triển lĩnh vực này. Theo một khảo sát mới đây của IDC, đến hết năm 2002, có 16,8 triệu khách hàng sử dụng các dịch vụ ngân hàng trực tuyến ở tám nước và vùng lãnh thổ là Trung Quốc, Australia, Hồng Kông, Ấn Độ, Malaysia, Singapore, Đài Loan. Tại Mỹ, những ngân hàng lớn tham gia kinh doanh trực tuyến ngày càng nhiều, theo báo cáo của FDIC, số ngân hàng có tài sản dưới 100 triệu USD có cung cấp dịch vụ ngân hàng điện tử chỉ chiếm khoảng 5%, trong khi đó số ngân hàng có tài sản lớn hơn 10 tỷ USD có dịch vụ ngân hàng điện tử chiếm tới 84% (Bảng 1.1) Bảng 1.1: Số lượng ngân hàng có mặt trên mạng Internet Tổng tài sản (triệu USD) Số ngân hàng Có mặt trên mạng (%) Ít hơn 100 5,912 5 Từ 100 đến 500 3,403 16 Từ 500 đến 1000 418 34 Từ 1000 đến 3000 312 42 Từ 3000 tới 10.000 132 52 Trên 10.000 94 84 (Nguồn: [FDIC01]) 3 Kể từ giai đoạn có mặt trên mạng tới khi cung cấp đầy đủ dịch vụ trực tuyến là cả một quá trình. Vào thời điểm năm 2000, trong số Top 100 ngân hàng của Mỹ thì có 36% không có mặt trên mạng, 41% chỉ cung cấp thông tin và còn lại 23% là cung cấp đầy đủ dịch vụ ngân hàng trực tuyến. Trong năm 2000 đã có khoảng 1.100 ngân hàng lớn nhỏ tại Mỹ cung cấp đầy đủ mọi dịch vụ ngân hàng qua mạng, con số này tăng lên 1.200 vào cuối năm 2003 và sẽ đạt tới 3.000 vào cuối năm 2005. Trong những năm vừa qua, ngân hàng điện tử đã phát triển lớn mạnh và nhanh chóng. Theo nghiên cứu của Jupiter Media, tổng số các giao dịch qua mạng của toàn bộ các ngân hàng tại Mỹ đã tăng 77,6% chỉ trong vòng một năm từ tháng 07/2000 tới tháng 07/2001, trong khi đó, cùng thời gian, lưu lượng giao thông trao đổi thông tin qua hệ thống World Wide Web chỉ tăng 19,8% trong cùng kỳ. Một cơ quan nghiên cứu trên mạng: Datamonitor đã báo cáo cho giai đoạn 2002 cho đến hết năm 2003: số lượng tài khoản ngân hàng điện tử tại Châu Âu tăng trung bình 34%/năm và tăng từ 14,3 triệu tài khoản năm 2002 lên xấp xỉ 43,2 triệu tài khoản vào cuối năm 2005, và số lượng người sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử sẽ tăng lên nhanh chóng. Giao dịch qua ngân hàng điện tử hoạt động hiện nay chiếm từ 5 – 10% tổng khối lượng giao dịch của các ngân hàng bán lẻ ở Mỹ và Châu Âu. Tại Pháp, số lượng tài khoản ngân hàng điện tử đã tăng 75%/năm và dự đoán sẽ đạt con số 30.000 vào năm 2006. Đồ thị 1.1: Số lượng khách hàng của dịch vụ ngân hàng trực tuyến của các nước Châu Âu năm 2000 – 2004 4 1.1.2. Khái niệm dịch vụ ngân hàng điện tử. - Dịch vụ ngân hàng điện tử được giải thích như là khả năng của một khách hàng có thể truy cập từ xa vào một ngân hàng nhằm: thu thập thông tin, thực hiện các giao dịch thanh toán, tài chính dựa trên các tài khoản lưu ký tại ngân hàng đó, đăng ký sử dụng các dịch vụ mới1. - Dịch vụ ngân hàng điện tử là một hệ thống phần mềm vi tính cho phép khách hàng tìm hiểu hay mua dịch vụ ngân hàng thông qua việc nối mạng máy vi tính của mình với ngân hàng2. - Các khái niệm trên đều định nghĩa ngân hàng điện tử thông qua các dịch vụ cung cấp hoặc qua kênh phân phối điện tử. Định nghĩa này có thể đúng ở từng thời điểm nhưng không thể khái quát hết được cả quá trình lịch sử phát triển cũng như tương lai phát triển của ngân hàng điện tử, một định nghĩa tổng quát nhất về ngân hàng điện tử có thể được diễn đạt như sau: NHĐT bao gồm tất cả các dạng của giao dịch giữa ngân hàng và khách hàng (cá nhân và tổ chức) dựa trên quá trình xử lý và chuyển giao dữ liệu số hoá nhằm cung cấp sản phẩm dịch vụ ngân hàng. 1.1.3. Các giai đoạn phát triển của Ngân hàng điện tử Kể từ ngân hàng đầu tiên cung cấp dịch vụ ngân hàng qua mạng đầu tiên tại Mỹ vào năm 1989 – ngân hàng WellFargo. Từ đó đến nay có rất nhiều tìm tòi, thử nghiệm, thành công cũng như thất bại trên con đường xây dựng một hệ thống ngân hàng điện tử hoàn hảo, phục vụ tốt nhất cho khách hàng. Tổng kết những mô hình đó, nhìn chung hệ thống ngân hàng điện tử được phát triển qua những giai đoạn sau đây: 1. Trương Đức Bảo, Ngân hàng điện tử và các phương tiện giao dịch điện tử, Tạp chí Tin học Ngân hàng số 4 (58), 7/2003. 2. How the Internet redefines banking, Tạp chí the Australian Banker, tuyển tập 133, số 3, 6/1999. 5 - Brochure – ware: Là hình thái đơn giản nhất của ngân hàng điện tử. Hầu hết các ngân hàng khi mới bắt đầu xây dựng ngân hàng điện tử là thực hiện theo mô hình này. Việc đầu tiên chính là xây dựng một website chứa những thông tin về ngân hàng, về sản phẩm lên trên mạng nhằm quảng cáo, giới thiệu, chỉ dẫn, liên lạc…, thực chất ở đây chỉ là một kênh quảng cáo mới ngoài những kênh thông tin truyền thống khác như báo chí, truyền hình… mọi giao dịch của ngân hàng vẫn thực hiện qua hệ thống phân phối truyền thống, đó là các chi nhánh ngân hàng. - E – commerce: Trong hình thái thương mại điện tử , ngân hàng sử dụng Internet như một kênh phân phối mới cho những dịch vụ truyền thống như xem thông tin tài khoản, nhận thông tin giao dịch chứng khoán… Internet ở dây chỉ đóng vai trò như một dịch vụ cộng thêm vào để tạo sự thuận lợi thêm cho khách hàng. Hầu hết các ngân hàng vừa và nhỏ đang ở hình thái này. - E – business: Trong hình thái này, các xử lý cơ bản cả ở phía khách hàng (front- end) và phía người quản lý (back-end) đều được tích hợp với Internet và các kênh phân phối khác. Giai đoạn này được phân biệt bởi sự gia tăng về sản phẩm và chức năng của ngân hàng với sự phân biệt sản phẩm theo nhu cầu và quan hệ của khách hàng đối với ngân hàng. Hơn thế nữa, sự phối hợp, chia sẻ dữ liệu giữa hội sở ngân hàng và các kênh phân phối như chi nhánh, mạng Internet, mạng không dây… giúp cho việc xử lý yêu cầu và phục vụ khách hàng được nhanh chóng và chính xác hơn. Internet và khoa học công nghệ đã tăng sự liên kết, chia sẻ thông tin giữa ngân hàng, đối tác, khách hàng, cơ quan quản lý… Một vài ngân hàng tiên tiến trên thế giới đã xây dựng được mô hình này và hướng tới xây dựng được một ngân hàng điện tử hoàn chỉnh. - E – bank (E – enterprise): chính là mô hình lý tưởng của một ngân hàng trực tuyến trong nền kinh tế điện tử, một sự thay đổi hoàn toàn trong mô hình kinh doanh và phong cách quản lý. Những ngân hàng này sẽ tận dụng sức mạnh thực sự của mạng toàn cầu nhằm cung cấp toàn bộ các giải pháp tài chính cho khách hàng với chất lượng tốt nhất. Từ những bước ban đầu là cung cấp các sản phẩm và dịch vụ hiện hữu thông qua nhiều kênh riêng biệt, ngân hàng có thể sử dụng nhiều kênh liên lạc này nhằm cung cấp nhiều giải pháp khác nhau cho từng đối tượng khách hàng chuyên biệt. 6 1.1.4 Hệ thống thanh toán điện tử. Thanh toán điện tử được hiểu như là việc ứng dụng những công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ internet vào những phương tiện thanh toán truyền thống hoặc xây dựng những hệ thống mới nhằm phục vụ cho những nhu cầu thanh toán (giao dịch truyền thống trước đây và giao dịch qua mạng sau này). Thanh toán điện tử ra đời đã chứng tỏ được ưu thế của mình khi tiết kiệm được thời gian, chi phí, giảm thiểu rủi ro và công việc hành chính so với những phương tiện truyền thống. Tuy nhiên, việc xây dựng một hệ thống thanh toán điện tử vừa dễ dàng sử dụng vừa đạt được chuẩn chung nhất cho mọi yêu cầu đã gặp phải rất nhiều khó khăn, thậm chí thất bại. Xét về tổng thể, hệ thống thanh toán điện tử gồm hai thành phần chính, đó là thanh toán doanh nghiệp với cá nhân B2C (Business to Consumer) và thanh toán giữa các doanh nghiệp B2B (Business to Business). 1.1.4.1. Thanh toán B2C – Doanh nghiệp và cá nhân Sự phát triển của TMĐT không thể nào không gắn với sự phát triển của hệ thống thanh toán điện tử và sẽ không có sự thịnh vượng của TMĐT nếu như không có một cơ sở hạ tầng thanh toán nhanh chóng, an toàn và có chuẩn chung thống nhất. Tuy nhiên, trong thời gian đầu, hệ thống thanh toán dựa trên mạng internet đã phải vượt qua nhiều thất bại rồi suy thoái. Rất nhiều hệ thống đã được đưa vào thử nghiệm rồi thất bại. Ví dụ như tiền kỹ thuật số (digital cash), được coi là khởi nguồn của tiền điện tử sau này (e-cash), được sử dụng đầu tiên tại Amsterdam sau đó được triển khai tại thung lũng Silicon vào tháng 08/1997, sau khi đạt được một số ứng dụng tương đối, cuối cùng phải thanh lý vào tháng 09/1998. Một ví dụ khác: Người dẫn đầu thị trường điện tử - Cybercash đã phải thay đổi chiến lược kinh doanh và những nhà lãnh đạo chủ chốt nhiều lần, và đã từng bị loại khỏi danh sách niêm yết trên sàn giao dịch NASDAQ vào đầu năm 2001. Hay một công ty đầu tư mạo hiểm của Pháp: Cyber-com đã thuyết phục được phần lớn những ngân hàng Pháp với quan điểm kết hợp công nghệ Internet và thẻ thông minh, tuy nhiên, đã bị phá sản vào đầu năm 2001. Hệ thống thanh toán nhỏ (Micro-payment) được triển khai vào những thập niên 90 thích hợp cho việc thanh toán của hàng hoá vô hình và có giá trị thấp như thông tin, 7 giải trí trực tuyến, băng đĩa nhạc, vé xem phim… cũng đạt được một vài thành công nhưng vẫn chưa đạt được thị phần như mong muốn. Một cố gắng khác nhằm xây dựng một hệ thống chuẩn chung và ứng dụng rộng cũng đã đạt được một vài thành công. JEPI (Joint Electric Payment Initiative) được hậu thuẫn lớn bởi CommerceNet và World Wide Web đã bị bỏ rơi bởi sự thiếu quan tâm của những doanh nghiệp kinh doanh trên mạng. Hệ thống SET (Secure Electronic Transaction) được tài trợ bởi hai tổ chức khổng lồ là Visa và MasterCard, cũng như hai ông trùm công nghệ là IBM và Microsoft, là một hệ thống mã hoá phức tạp, sử dụng công nghệ PKI (Public Key Infrastructure), đã gặp phải những vấn đề khi không được sự chấp thuận của các thương gia, người tiêu dùng cuối cùng và các ngân hàng, do sự phức tạp và ít được sự chấp thuận của khách hàng. Mặc dù có rất nhiều cố gắng nhằm thay thế hệ thống thanh toán thẻ và hệ thống mạng thanh toán của chúng hiện tại vẫn đang là công cụ chính cho thanh toán B2C, được sử dụng trên 95% các giao dịch. Tuy nhiên, rất nhiều cá nhân và tổ chức nhận ra rằng thanh toán dựa trên thẻ không phải là phương thuốc trị bách bệnh cho tất cả các giao dịch TMĐT. Chi phí hơi cao đối với các nhà bán lẻ và không được ủng hộ bởi các ngân hàng do sự gia tăng rủi ro của tranh chấp và lừa dối khi thẻ không được kiểm tra trực tiếp. Các nhà phát hành thẻ hàng đầu đang xúc tiến triển khai thẻ thông minh, kết hợp giữa những tiện ích của thẻ và của mạng ngân hàng điện tử (một con chip thông minh được gắn trên thẻ) đang hứa hẹn một tiềm năng sẽ phù hợp cho mọi loại giao dịch. Đánh giá lại mọi sự thất bại, nguyên nhân chính là sự xa vời với hành vi và tính cách của người tiêu dùng. Những giải pháp mới thường rơi vào vòng luẩn quẩn. Những thương nhân thường không sử dụng những hệ thống mới nếu chỉ có một số lượng ít khách hàng sử dụng nó, và ngược lại khách hàng cũng không sử dụng hệ thống thanh toán nếu chỉ rất ít thương gia chấp nhận nó. Mặc dù đã trải qua những kinh nghiệm không mấy tốt đẹp khi xây dựng những thế hệ đầu của việc thanh toán B2C, sự phát triển của hệ thống thanh toán dựa trên mạng điện tử không những không giảm và đã được mở rộng và đạt được mục đích. Thanh toán B2C đã thu hút nhiều thành viên mới, họ là những nhà kinh doanh qua 8 mạng, được đầu tư bởi những quỹ đầu tư mạo hiểm hoặc những nhà cung cấp công nghệ nổi tiếng ví dụ như Microsoft hay Yahoo. 1.1.4.2. Thanh toán B2B – Doanh nghiệp với doanh nghiệp. Sự năng động của nền tài chính điện tử (e-finance) là sự thay đổi nhận thức từ phản hồi sang chủ động của công nghệ ngân hàng. Nhiều công nghệ mới đã ra đời khi cố gắng ứng dụng công nghệ Internet vào hạ tầng thanh toán hiện hữu. Hai hệ thống được ứng dụng và có hiệu quả nhất là Identrus và SWIFTNET. - Hệ thống SWIFTNET (www.swift.com) Hệ thống SWIFT (Society for Worldwide Interbank Financial Telecommunications) bao gồm hơn 7.000 tổ chức tài chính của trên 190 nước, là xương sống của hệ thống thanh toán giữa các tổ chức trên thế giới hiện nay. Vào tháng 12/2000, những nhà quản trị mạng SWIFT quyết định xây dựng mạng SWIFT dựa trên hệ thống mạng IP (Internet Base Network): SWIFTNET, nhằm đưa mạng SWIFT trở thành xương sống của hạ tầng thanh toán mạng trực tuyến toàn cầu. Ở Châu Âu, SWIFT đã liên kết với hệ thống ngân hàng trung ương xây dựng hệ thống thanh toán thời gian thực, phục vụ như một mạng trao đổi thông tin cho các giao dịch số lượng lớn trên toàn Châu Âu. Vai trò của SWIFTNET ngày càng được mở rộng và trở thành trung tâm trao đổi thông tin phục vụ cho thanh toán bù trừ và thanh toán chứng từ (Global Straight Through Processing) và thanh toán quốc tế (CLS Bank) trên phạm vi toàn thế giới. Mạng SWIFTNET sẽ kết hợp chuẩn IP với khả năng bảo mật tốt, hiệu suất cao, giao diện ứng dụng chính của SWIFT hiện nay SWIFT – FIN đã kết hợp với SWIFTNET vào năm 2004 và đã cung cấp thêm các dịch vụ như cung cấp thông tin, hạ tầng bảo mật, thanh toán… và nhiều dịch vụ khác. Vào tháng 9/2000, Identrus đã công bố một kết hợp chiến lược kết hợp cùng SWIFTNET, chuẩn IP sẽ giúp cho những thành viên của SWIFT và người sử dụng có được những giao diện đơn giản hơn và hiệu quả. Tham vọng của SWIFTNET là trở thành sự lựa chọn hàng đầu cho hạ tầng thanh toán thế hệ mới dựa trên công nghệ Internet. 9 Mặc dù hệ thống thanh toán, chuyển tiền được sử dụng cho giao dịch của các tổ chức tài chính đã được xây dựng trên hệ thống điện tử từ những năm 70, tuy nhiên công nghệ Internet đã thổi một luồng sinh khí mới vào hệ thống cũ, chuyển thành một hạ tầng thanh toán mở, thiết lập liên kết trực tiếp giữa khách hàng, người bán, các nhà trung gian và những nhà cung cấp công nghệ. Mạng Internet đã xoá bỏ những khoảng cách vật lý, xây dựng những tiêu chuẩn mới và với công nghệ bảo mật, chứng chỉ số và thẻ thông minh, hạ tầng thanh toán hiện nay đủ khả năng cung cấp một mô hình thanh toán linh hoạt, an toàn và xây dựng trên một mạng toàn cầu. - BOLERO (www.bolero.net) Bolero International Ltd được thành lập vào tháng 08/1998 như một công ty cổ phần của SWIFT và Throught Transport Group (TT Group), phục vụ cho công việc hậu cần và vận chuyển (với khoảng 10.000 thành viên là khách hàng). Vào mùa thu 2000, Bolero, được đầu tư thêm 50 triệu USD từ tập đoàn đầu tư mạo hiểm Ppax Partner. Bolero xây dựng một nền tảng cho việc chuyển giao chứng từ điện tử trong thương mại và dữ liệu một cách an toàn qua mạng Internet. Hệ thống đã được đưa vào sử dụng tháng 10/1999, sử dụng công nghệ truyền tin của SWIFT và được đặt tên lại là Bolero.net. Bolero hoạt động như một bên thứ ba độc lập nhằm bảo đảm việc chuyển giao và nhận thông tin một cách bảo mật theo suốt dây chuyền thương mại từ xử lý và quản lý đơn hàng cho tới trao đổi chứng từ và thanh toán. Bolero.net cung cấp một cấu trúc chuẩn chung cho tất cả các bên tham gia vào thương mại quốc tế (nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu, đại lý hãng tàu, nhà vận chuyển, hải quan và ngân hàng quốc tế), lợi thế của Bolero chính là sự kết hợp giữa công nghệ Internet và khung pháp lý. Sau nhiều năm tư vấn Bolero.net đã xuất bản một cuốn Quy tắc chung dành cho mọi khách hàng, tạo sự nhất quán và chính xác cho mọi dịch vụ mà Bolero cung cấp. Khách hàng, ví dụ như Sanwa và Ottot Versand đã ước đoán rằng, xử lý chứng từ qua mạng Bolero sẽ giúp giảm thời gian xử lý chứng từ từ 15 ngày xuống còn khoảng 2 ngày và giảm chi phí xuống từ 30% đến 50%. Hiện nay, Bolero đang hoạt động dựa trên mạng SWIFT, và dự định sẽ là người đầu tiên tham gia mạng SWIFTNET. Để phát huy vai trò của công nghệ Internet, 10 Bolero đã và đang phát triển BoleroXML, một tập hợp các tiêu chuẩn kỹ thuật để mô tả cấu trúc và nội dung của bản điện tử thay thế cho các chứng từ thanh toán thương mại hiện hữu như hoá đơn, vận đơn, hối phiếu… Hơn 30 công ty trong đó có Sun Microsystems AMS, Mercator, Neon, China System, Midas Kapiti và Surecomp… đã trở thành đối tác của Bolero.net và trong tương lai, chứng từ điện tử có lẽ sẽ đóng vai trò chính trong hệ thống thương mại hiện nay. 1.2. CÁC SẢN PHẨM VÀ DỊCH VỤ CỦA NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ 1.2.1 Các sản phẩm. Sự phát triển như vũ bảo của công nghệ thông tin trong những năm gần đây đã ảnh hưởng khá rõ nét đến sự phát triển của công nghệ ngân hàng. Hiện nay, ở nhiều nước trên thế giới dịch vụ ngân hàng điện tử đã phát triển khá phổ biến, đa dạng về loại hình sản phẩm và dịch vụ. Tập trung lại bao gồm các loại sau: - Call centre Do quản lý dữ liệu tập trung nên khách hàng có tài khoản tại bất kỳ chi nhánh nào vẫn gọi về một số điện thoại cố định của trung tâm này để được cung cấp mọi thông tin chung và cá nhân. Khác với phone banking chỉ cung cấp các loại thông tin lập trình sẵn, Call centre có thể linh hoạt cung cấp thông tin hoặc trả lời các thắc mắc của khách hàng. Nhược điểm của Call centre là phải có người trực 24/24 giờ. - Phone banking Đây
Tài liệu liên quan