Đề tài Giải pháp thực hiện quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

Toàn cầu hoá kinh tế là xu thế tất yếu biểu hiện sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản suất do phân công lao động quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng trên phạm vi toàn cầu dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và tích tụ tập trung tư bản dẫn tới hình thành nền kinh tế thống nhất. Sự hợp nhất về kinh tế giữa các quốc gia tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến nền kinh tế chính trị của các nước nói riêng và của thế giới nói chung.

doc30 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1455 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp thực hiện quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Toàn cầu hoá kinh tế là xu thế tất yếu biểu hiện sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản suất do phân công lao động quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng trên phạm vi toàn cầu dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và tích tụ tập trung tư bản dẫn tới hình thành nền kinh tế thống nhất. Sự hợp nhất về kinh tế giữa các quốc gia tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến nền kinh tế chính trị của các nước nói riêng và của thế giới nói chung. Đó là sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế thế giới với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, cơ cấu kinh tế có nhiều sự thay đổi. Sự ra đời của các tổ chức kinh tế thế giới như WTO, EU, AFTA...và nhiều tam giác phát triển khác cũng là do toàn cầu hoá đem lại. Là một quốc gia có nền kinh tế ở trình độ thấp nhưng Việt Nam cũng đã xác định hội nhập là con đường duy nhất để Việt Nam theo kịp thời đại, điều này đã được Đảng và Nhà nước ta khẳng định ngay từ Đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986)          Phương pháp nghiên cứu: Tổng hợp, phân tích thống kê số liệu hệ thống chính sách, môi trường kinh tế. Trên cơ sở tổng hợp các vấn đề kinh tế vĩ mô và dựa trên số liệu thống kê thực tế, kết hợp với kinh nghiệm của các nước để phân tích mối quan hệ nhân quả giữa các chính sách kinh tế đối ngoại của Việt Nam, và tác động của nó tới môi trường kinh doanh trong nước và hiệu quả của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đối với sự phát triển kinh tế-xã hội ở nước ta.        .        Phạm vi nghiên cứu: Trên bình diện nền kinh tế Việt Nam qua từng giao đoạn của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Những diễn biến của tình hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam Xu hướng ảnh hưởng của các mặt đời sống của thời kỳ đất nước tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế. Các chủ thể kinh tế với Việt Nam trong quá trình hội nhập. Các chính sách liên quan tới quá trình gia nhập hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam và sử dụng số liệu chủ yếu trong giai đoạn từ sau khi bắt đầu quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam cuối năm 1986 Phần nội dung Một số vấn đề lí luận về hội nhập kinh tế quốc tế: Khái niệm: Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gắn bó một cách hữu cơ nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới góp phần khai thác các nguồn lực bên trong một cách có hiệu quả. Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế: Nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế: Bất kì một quốc gia nào khi tham gia vào các tổ chức kinh tế trong khu vực cũng như trên thế giới đều phải tuân thủ theo những nguyên tắc của các tổ chức đó nói riêng và nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế nói chung. Sau đây là một số nguyên tắc cơ bản của hội nhập: Không phân biệt đối xử giữa các quốc gia; tiếp cận thị trường các nước, cạnh tranh công bằng, áp dụng các hành động khẩn cấp trong trường hợp cần thiết, dành ưu đãi cho các nước đang và chậm phát triển. Đối với từng tổ chức có nguyên tắc cụ thể riêng biệt. Nội dung của hội nhập: Một là: Ký kết và tham gia các định chế và tổ chức hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó các thành viên đàm phán, xác định các luật chơi chung và thực hiện các quy định cam kết đối với từng thành viên tổ chức đó. Hai là: Tiến hành những cải cách trong nước để có thể thực hiện những qui định, cam kết quốc tế về hội nhập như mở cửa thị trường, giảm và tiến tới xóa bỏ hàng rào thế quan và phi thế quan, cải cách hình thức doanh nghiệp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, đào tạo nguồn nhân lực nhằm đáp ứng đòi hỏi của quá trình hội nhập. Hình thức và mức độ hội nhập: Ở cấp độ đơn phương: Mỗi nước tự mình thực hiện các biện pháp mở cửa, tự do hóa trong các lĩnh vực nhất định, có mục tiêu cụ thể chứ không nhất thiết phải tuân thủ những qui định của các tổ chức mà hộ tham gia. Ở cấp độ song phương: Nhiều nước cùng đàm phán để với nhau các hoạt động sản phẩm trên cơ sở các nguyên tắc của một khu vực mậu dịch tự do hoặc dưới mức độ nào đó của liên kết thị trương quốc tế. Ở cấp độ đa phương: Các nước cùng nhau thành lập hoặc tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vực hoặc toàn cầu. Hội nhập kinh tế quốc tế- yêu cầu khách quan của thời đại chúng ta: Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (Đại hội 9) Chủ trương về chủ động hội nhập kinh tế quốc tế tại Đại hội 8 đã được Đại hội 9 phát triển và nâng cao lên một tầm mới với phương châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”; “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi truờng”. Điều đáng lưu ý ở đây là chủ trương chủ động hội nhập tại Đại hội VIII đã được phát triển thành “chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế đa phương, song phương đã ký kết và chuẩn bị tốt các điều kiện để sớm gia nhập WTO” (Hội nghị Trung ương Khoá IX). Nghị quyết 07-NQ/TW về hội nhập kinh tế quốc tế  Ngày 27/11/2001, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW về hội nhập kinh tế quốc tế. Nghị quyết đã kế thừa, cụ thể hoá và triển khai các đường lối của Đảng đề ra từ truớc tới nay, đồng thời đáp ứng kịp thời những đòi hỏi khách quan của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Thành tựu đối với nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập: Việt Nam thoát khỏi tình trạng bao vây cấm vận, đưa đất nước bước vào thời kỳ phát triển, nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế. - Việt Nam ra khỏi tình trạng bị bao vây cấm vận, cô lập tạo dựng được môi trường quốc tế, khu vực thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế nước ta trên chính trường và thương trường thế giới. Cho đến nay, Việt Nam đã ký 86 hiệp định thương mại song phương, 46 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư và 40 hiệp định chống đánh thuế hai lần với các nước và vùng lãnh thổ; có quan hệ thương mại với trên 160 nước và nền kinh tế: thiết lập quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế; là thành viên của ASEAN, ASEM, APEC... - Thực hiện thành công Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội (1991-2000)GDP tăng trưởng bình quân 8,2%/năm trong giai đoạn 1991 -2000, khoảng 7% trong hai năm 2001 và 2002, năm 2003 tăng 7.24% và là nước có tốc độ tăng GDP thứ hai thế giới, chỉ đứng sau Trung Quốc Hội nhập kinh tế quốc tế: 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Thương mại quốc tế( % GDP) Xuất khẩu 24,9 26,3 29,4 34,5 34,5 40,2 46,5 46,2 47,5 51.7 Nhập khẩu 35,8 39,3 45,2 43,3 42,4 40,9 50,2 49,9 56,1 58,1 Tổng cộng 60,7 65,6 74,6 77,6 76,8 81,2 96,6 96,1 103,6 109,8 FDI (triệu USD) Cấp phép 3,766 6,531 8,496 4,649 3,897 1,568 2,012 2,536 1,558 Đầu tư mới 1,636 2,260 1,963 2,704 800 700 800 900 1,00 Tăng trưởng GDP 8,8 9,5 9,3 8,2 5,8 4,8 6,8 6,9 7,0 7,3 Ghi chú: Số liệu FDI bao gồm vốn đầu tư nước ngoài và vốn vay cảu các dự án liên doanh. Nguồn: Vietnam Development Report 2004, Tổng cục thống kê. Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần mở rộng thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam đưa hàng hóa của mình xâm nhập vào thị trường thế giới: Việc tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, chỉ số XNK nước ta ngày càng tăng. Năm 1990, Việt Nam đã xuất khẩu sang ASEAN đạt 348,6 triệu USD, nhưng đến năm 1998 đạt 2349 triệu USD. Nếu thực hiện đầy đủ các cam kết trong AFTA thì đến năm 2006 hàng công nghiệp chế biến có xuất xứ từ nước ta sẽ được tiêu thụ trên tất cả các thị trường các nước ASEAN. Năm 1990 kim ngạch XK mới đạt 2,404 tỷ USD và NK 2,752 tỷ USD thì năm 2001 kim ngạch XK đã đạt 15 tỷ USD (nếu tính cả dich vụ thì đạt 17,6 tỷ USD), tăng mỗi năm trung bình trên 20%, có năm tăng 30% (gấp hơn 7 lần năm 1990). Năm 2003 XK đạt 20,176 tỷ USD. XK bình quân đầu người đạt trên 200 USD, đây là mức được thế giới công nhận là quốc gia có nền XK bình thường. Bên cạnh XK hàng hoá, XK dịch vụ và hợp tác lao động cũng đạt được mức tăng trưởng liên tục. XK dịch vụ giai đoạn 2001 - 2003 đạt khoảng 8,15 triệu USD, tăng bình quân 9,65%/năm. Từ 2001 đến nay có 127 nghìn người đi làm việc ở nước ngoài, tăng 27% so với thời kỳ 1 996 - 2000. Số DN tham gia XK đã tăng lên 16.200 so với 495 DN năm 1991 . Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần tăng thu hút đầu tư nước ngoài, viện trợ phát triển chính thức và giải quyết vấn đề nợ quốc tế: Thu hút được một nguồn lớn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI): Đến nay ta đã thu hút được trên 41.538 tỷ USD vốn đầu tư từ 70 quốc gia và vùng lãnh thổ với trên 4.370 dự án. Trong số đó đã thực hiện trên 24,658 tỷ USD.Nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta: chiếm gần 30% vôn đầu tư xã hội, 35% giá trị sản xuất công nghiệp, 20% XK, giải quyết việc làm cho khoảng 40 vạn lao động và hàng chục vạn lao động gián tiếp. Tuy nhiên kể từ giữa năm 1997 đến nay, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước ta có hướng suy giảm. Tuy vậy, kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn tăng nhanh. Nếu như năm 1991 đạt 52 triệu USD thì năm 1997 là 1790 triệu USD. Viện trợ phát triển ODA: Tiến hành bình thường hoá quan hệ tài chính của Việt Nam, các nước tài trợ và các thể chế tài chính tiền tệ quốc tế đã tháo gỡ từ năm 1992 đã đem lại những kết quả đáng khích lệ, góp phần quan trọng vào việc xây dựng và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng. Tính đến 1999, tổng số vốn viện trợ phát triển cam kết đã đạt 13,04 tỉ USD. Tuy nhiên, vấn đề quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA còn bộc lộ nhiều yếu kém, nhất là tình trạng giải ngân chậm và việc nâng cao hiêu quả của việc sử dụng nguồn vốn ODA. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần giải quyết tốt vấn đề nợ Việt Nam: Trong những năm qua nhờ phát triển tốt mối quan hệ đối ngoại song phương và đa phương, các khoản nợ nước ngoài cũ của Việt Nam về cơ bản đã được giải quyết thông qua câu lạc bộ Paris, London và đàm phán song phương. Điều đó góp phần ổn định cán cân thu chi ngân sách, tập trung nguồn lực cho các chương trình phát triển kinh tế xã hội trong nước. Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo điều kiện cho ta tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến phát triển kinh tế đất nước: Việt Nam gia nhập kinh tế quốc tế sẽ tranh thủ được kĩ thuật, công nghệ tiên tiến của các nước đi trước để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, tạo cơ sở vật chất kĩ thuật cho công cuộc xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội. Qua đó mà các kĩ thuật, công nghệ mới có điều kiện du nhập vào nước ta, đồng thời tạo cơ hội để chúng ta lựa chọn kĩ thuật, công nghệ nước ngoài nhằm phát triển năng lực kĩ thuật, công nghệ quốc gia. Trong cạnh tranh quốc tế có thể công nghệ này là cũ đối với một số nước phát triển, nhưng lại là mới, có hiệu quả tại một nước đang phát triển như Việt Nam. Do yêu cầu sử dụng lao động của các công nghệ đó cao, có khả năng tạo nên nhiều việc làm mới. Trong những năm qua, cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật, nhất là công nghệ thông tin và viễn thông phát triển mạnh làm thay đổi bộ mặt kinh tế thế giới và đã tạo điều kiện để Việt Nam tiếp cận và phát triển mới này. Sự xuất hiện và đi vào hoạt động của nhiều khu công nghiệp mới và hiện đại như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Vĩnh Phúc, Đồng Nai, Bình Dương, Hải Phòng...và những xí nghiệp liên doanh trong ngành công nghệ dầu khí đã chứng minh điều đó. Hội nhập kinh tế quốc tế giúp đào tạo nguồn cán bộ, nguồn nhân lực trong lĩnh vực quản lý và lĩnh vực kinh doanh. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần không nhỏ vào công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trong nhiều lĩnh vực. Phần lớn cán bộ khoa học kĩ thuật, cán bộ quản lý, các nhà kinh doanh đã được đào tạo ở trong và ngoài nước. Chỉ tính riêng trong các công trình đầu tư nước ngoài đã có khoảng 30 vạn lao động trực tiếp, 600 cán bộ quản lý và 25000 cán bộ khoa học kĩ thuật đã được đào tạo. Trong lĩnh vực xuất khẩu lao động tính đến năm 1999 Việt Nam đã đưa 7 vạn người đi lao động ở nước ngoài. Nước ta có khoảng 80 triệu dân, nguồn nhân lực phục vụ cho qúa trình CNH_HĐH là to lớn. . Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo cơ hội để nguồn nhân lực của nước ta khai thông, giao lưu với các nước. Ta có thể thông qua hội nhập để xuất khẩu lao động hoặc có thể sử dụng lao động thông qua các hợp đồng gia công chế biến hàng xuất khẩu. Đồng thời tạo cơ hội để nhập khẩu lao động kĩ thuật cao, các công nghệ mới, các phát minh sáng chế mà ta chưa có. Cơ cấu lao động có sự chuyển đổi tích cực gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giảm tỷ lệ lao động trong sản xuất thuần nông, tăng tỷ lệ lao động trong công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Năm 1990, lao động nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 73,02% trong tổng số lao động xã hội, năm 2000 còn 56,8%. Trong khi đó, tỷ trọng lao động của ngành công nghiệp và xây dựng tăng từ 12,1% năm 2000 lên 17,9% năm 2005; lao động trong các ngành dịch vụ tăng tương ứng từ 19,7% lên 25,3%; lao động đã qua đào tạo tăng từ 20% năm 2000 lên 25% năm 2005. Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần duy trì hoà bình ổn định, tạo dựng môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế, nâng cao vị trí Việt Nam trên trường quốc tế. Đây là thành tựu lớn nhất sau hơn một thập niên triển khai các hoạt động hội nhập. Trước đây, Việt Nam chỉ có quan hệ chủ yếu với Liên Xô và các nước Đông Âu, nay đã thiết lập được quan hệ ngoại giao với 166 quốc gia trên thế giới. Với chủ trương coi trọng các mối quan hệ với các nước láng giềng và trong khu vực Châu á Thái Bình Dương. Chúng ta đã bình thường hoá hoàn toàn quan hệ với Trung Quốc và các quốc gia trong khu vực Đông Nam á. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng môi trường quốc tế hoà bình, ổn định nhằm tạo thuận lợi cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Ngoài ra đối với Mĩ chúng ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao vào năm 1955. Tháng 7 Việt Nam, Mĩ đã kí kết hiệp định thương mại, đánh dấu một mốc quan trọng trong tiến trình bình thường hoá nối quan hệ kinh tế giữa hai nước. Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ giúp nước ta đẩy mạnh chuyển biến cơ cấu kinh tế gắn với công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo hướng hiện đại: Về cơ cấu ngành, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1988 là 46,3%, năm 2005 còn 20,9%. Trong nội bộ ngành nông nghiệp cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Giá trị tạo ra trên một đơn vị diện tích ngày một tăng lên. Trong kế hoạch 5 năm 2001 - 2005, giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng 5,5%/năm, giá trị tăng thêm bằng khoảng 3,89%/năm. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên tục. Năm 1988 là 21,6%, năm 2005 lên 41%. Từ chỗ chưa khai thác dầu mỏ, đến nay, mỗi năm đã khai thác được khoảng gần 20 triệu tấn quy ra dầu. Ngành công nghiệp chế tác chiếm 80% giá trị sản lượng công nghiệp. Công nghiệp xây dựng phát triển mạnh với thiết bị công nghệ ngày càng hiện đại. Sản phẩm công nghiệp xuất khẩu ngày càng tăng, có chỗ đứng trong những thị trường lớn. Trong kế hoạch 5 năm 2001 - 2005, giá trị sản xuất công nghiệp và xây dựng tăng 15,9%/năm, giá trị tăng thêm đạt 10,2%/năm. Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên 38,1% năm 2005. Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống. Ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với tốc độ nhanh. Các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý... có bước phát triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả. Hội nhập quốc tế giúp nước ta giải quyết những vấn đề xã hội: Một thành công lớn đầy ấn tượng của nước ta qua 20 năm đổi mới là đã giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, các cơ hội phát triển được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân được nâng cao. Trước hết, công tác giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo đạt kết quả tốt, vượt mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Từ năm 2000 đến năm 2005, tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động. Năm 2005, thất nghiệp ở thành thị giảm xuống còn 5,3%; thời gian sử dụng lao động ở nông thôn đạt 80%. Thu nhập bình quân đầu người tăng mạnh từ 200 USD năm 1990 lên khoảng 640 USD năm 2005. Năm 2010 thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 1.160 USD. eo chuẩn quốc gia, tỷ lệ hộ đói nghèo đã giảm từ 30% năm 1992 xuống dưới 7% năm 2005. Theo chuẩn quốc tế (1 USD/người/ngày) thì tỷ lệ đói nghèo của Việt Nam đã giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 28,9% năm 2002. Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân được chú trọng và có nhiều tiến bộ. Chỉ số phát triển con người được nâng lên, từ mức dưới trung bình (0,498) năm 1990, tăng lên mức trên trung bình (0,688) năm 2002; năm 2005 Việt Nam xếp thứ 112 trên 177 nước được điều tra. Mạng lưới y tế được củng cố và phát triển, y tế chuyên ngành được nâng cấp, ứng dụng công nghệ tiên tiến; việc phòng chống các bệnh xã hội được đẩy mạnh; tuổi thọ trung bình từ 68 tuổi năm 1999 nâng lên 71,3 tuổi vào năm 2005. Những thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế: Những vấn đề nội tại hạn chế tiến trình hội nhập kinh tế của Việt Nam: Thứ nhất, nhận thức tư tưởng và kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế chưa đầy đủ Chủ trương của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế đã được khẳng định qua nhiều nghị quyết và văn kiện và đã được triển khai từng bước. Quá trình hội nhập ngày nay đã thực sự đi vào chiều sâu với việc Việt Nam trở thành thành viên 150 của WTO..., nhưng trên thực tế nhận thức về nội dung, lộ trình hội nhập của nhiều ngành, cấp và doanh nghiệp còn chưa đầy đủ, chưa thực sự hiểu rõ những cơ hội và thách thức của tiến trình hội nhập này để có kế hoạch chủ động nắm bắt thời cơ. Đối với các cơ quan quản lý các cấp, trên thực tế không ít chính sách, cơ chế còn chậm được đổi mới cho phù hợp với yêu cầu của hội nhập. Công tác hội nhập chủ yếu mới được triển khai ở các cơ quan trung ương và các thành phố lớn, sự tham gia của các ngành, các cấp và doanh nghiệp chưa đồng bộ, chưa tạo ra được sức mạnh tổng hợp cần thiết bảo đảm cho hội nhập kinh tế quốc tế đạt hiệu quả cao. Đây chính là những nhân tố hàng đầu ảnh hưởng và gây cản trở cho việc chủ động, tích cực triển khai hội nhập kinh tế quốc tế. Thứ hai, hệ thống pháp luật, chính sách quản lý đang trong quá trình hoàn thiện Hệ thống pháp luật, chính sách quản lý, đặc biệt là pháp luật về kinh tế - thương mại còn thiếu nhiều, chưa đồng bộ, chưa đủ rõ ràng và thông thoáng để tạo ra một môi trường kinh doanh bình đẳng, khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao năng lực, cạnh tranh lành mạnh. Nhiều biện pháp, chính sách tạo thuận lợi và bảo hộ cho phát triển thương mại được quốc tế thừa nhận như chế độ hạn ngạch thuế quan, quy chế xuất xứ, các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp, chính sách cạnh tranh ở nước ta chưa ban hành. Trong khi đó nước ta vẫn đang áp dụng nhiều biện pháp, chính sách không có trong thông lệ quốc tế, hoặc không phù hợp với các nguyên tắc của các tổ chức quốc tế. Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế điều không tránh khỏi là sẽ phát sinh nhiều điểm xung đột giữa hệ thống luật hiện tại với hệ thống luật quốc tế mà ta sẽ tham gia. Đây là điều không dễ giải quyết trong ngày một ngày hai, mà cần một lộ trình chuẩn bị, bổ sung và hoàn thiện cơ chế, chính sách, tổ chức thực hiện. Thứ ba, năng lực cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ, của các doanh nghiệp và tổng thể nền kinh tế còn yếu so với khu vực Nước ta xuất phát từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, gần 3/4 dân số và lao động sống bằng nông nghiệp, công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn chưa được chú trọng đúng mức. Trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, trình độ, trang thiết bị lạc hậu từ 3 đến 4 thế hệ so với các nước khác trong khu vực, trình độ kỹ thuật, công nghệ thấp. Kết cấu hạ tầng và các ngành dịch vụ cơ bản phục vụ sản xuất, kinh doanh như kho bãi, thông tin - liên lạc, điện, nước, vận tải... đều kém phát triển và có chi phí cao hơn so với các nước khác trong khu vực. Những yếu tố
Tài liệu liên quan