Đề tài Hoạt động tài chính và phân tích hoạt động tài chính của doanh nghiệp

Để xây dựng một đất nước phát triển trên mọi phương diện điều đầu tiên là phải xây dựng một nền kinh tế vững chắc và phát triển. Một trong những nhân tố đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế đó chính là hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Hoạt đông tài chính là một trong những nội dung cơ bản của hoạt động sản xuất kinh doanh.

doc56 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1250 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động tài chính và phân tích hoạt động tài chính của doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời Nói Đầu Để xây dựng một đất nước phát triển trên mọi phương diện điều đầu tiên là phải xây dựng một nền kinh tế vững chắc và phát triển. Một trong những nhân tố đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế đó chính là hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Hoạt đông tài chính là một trong những nội dung cơ bản của hoạt động sản xuất kinh doanh. Hoạt đông tài chính là hoạt dông xuyên suốt qua tất cả các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh, từ khâu huy động vốn cho tới khâu cuối cùng là khâu phân phối lãi thu được từ hoạt động đó. Do đó hoạt đông tài chính có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời nó là chỉ tiêu chủ yếu đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của bất kỳ một doanh nghiệp nào. Trong cơ chế thị trường có sự cạnh tranh gay gắt giữa các chủ thể kinh tế, đòi hỏi các doanh nghiệp không chỉ biết huy động vốn để đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh mà điều quan trọng hơn là phải biết phân phối và sử dụng số vốn hiện có một cách hợp lý, có hiệu quả cao nhất trên cơ sở chấp hành các chế độ, chính sách của luật pháp hiện hành. Chính vì vậy cần phải thương xuyên phân tích hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Phân tích tài chính sẽ giúp các nhà quản lý doanh nghiệp thấy rõ thực trạng hoạt động tài chính, xác định đầy đủ và đúng đắn nguyên nhân mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến tình hình tài chính. Không chỉ những nhà quản lý mà bên cạnh đó còn có các nhà đầu tư, các nhà cung cấp nhìn nhận về doanh nghiệp. Xuất phát từ tầm quan trọng của hoạt động tài chính và phân tích hoạt động tài chính, sau thời gian thực tập ở trung tâm bán buôn bán lẻ hàng bách hoá văn hoá phẩm và thiết bị văn phòng để nghiên cứu và tìm hiểu chuyên đề tốt nghiệp " Hoạt động tài chính và phân tích hoạt động tài chính của doanh nghiệp" em đã hoàn thành được nội dung và hiểu được rõ hơn phần nào những lý luận trong thực tế. Chuyên đề bao gồm nhữnh nội dung sau: Chương I: Một số vấn đề lý luận chung về hoạt động tài chính và phân tích hoạt động tài chính. ChươngII: Thực trạng hoạt động tài chính và phân tích hoạt động tài chính ở trung tâm bán buôn bán lẻ hàng bách hoá văn hoá phẩm và thiết bị văn phòng. ChươngIII: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty Chương I Một số vấn đề lý luận chung về hoạt động tài chính và phân tích hoạt động tài chính I . Khái niệm và một số đường lối hoạt động tài chính. 1. Doanh nghiệp và cơ sở hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Doanh nghiệp là những tổ chức kinh tế độc lập có tư cách pháp nhân, hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường nhằm mục đích thu được lợi nhuận để phát triển doanh nghiệp. Tuỳ theo các ngành nghề kinh doanh khác nhau có các loại hình doanh nghiệp khác nhau như phân loại theo ngành nghề kinh doanh, phân loại theo hình thức sở hữu. Mỗi loại hình doanh nghiệp có những cách thức tổ chức và quản lý khác nhau. Sự tồn tại và phát triển của loại hình doanh nghiệp này chịu ảnh hưởng của loại hình doanh nghiệp kia và giữa chúng có mối quan hệ tác động qua lại, hỗ trợ cho nhau. Để tồn tại và phát triển thì các doanh nghiệp đều phải tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh theo những ngành nghề của mình. Muốn tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp phải có một lượng vốn bằng tiền nhất định. Doanh nghiệp dùng số vốn có thể mua các yếu tố đầu vào: bao gồm tài sản cố địng, nguyên vật liệu và các vật tư hàng hoá... Doanh nghiệp dùng các yếu tố đầu vào quá trình sản xất quá trình sản xuất dưới sự tác động của sức lao đông tạo ra các sản phẩm, hàng hoá vật chất khác để bán ra thị trường tương ứng với các hoạt động đó là doanh thu bán hàng. Toàn bộ quá trình chuyển hoá đó được khái quát qua sơ đồ: Dòng vật chất đi vào Dòng tiền tệ đi ra (xuất quỹ) Sản xuất chuyển hoá Dòng tiền tệ đi vào (nhập quỹ) Dòng vật chất đi ra Qua sơ đồ, thấy rằng tương ứng với dòng vật chất đi vào (hàng hoá, dịch vụ đầu vào) là dòng tiền tệ đi ra và ngược lại tương ứng với dòng vật chất đi ra là tiền tệ đi vào doanh nghiệp thực hiện hoạt động trao đổi hoặc với thị trường đầu vào hoặc với thị trường phân phối tiêu thụ sản phẩm sản xuất ra và tuỳ thuộc vào tính chất hoạt động sản xuất kinh doanh làm thay đổi cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Dòng tài chính chỉ xuất hiện trên cơ sở tích luỹ ban đầu những hành hoá, dịch vụ hoặc tiền tệ trong mỗi doanh nghiệp, nó sẽ làm thay đổi khối lượng tài sản tích luỹ của doanh nghiệp trong quá trình hoạt động. Để khái quát hoạt động tài chính doanh nghiệp, ta có sơ đồ sau: Sơ đồ hoạt động tài chính doanh nghiệp 2. Hoạt động tài chính và nội dung hoạt động tài chính 2.1. Khái niệm chung về tài chính doanh nghiệp Tài chính doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế khách quan gắn liền với sự ra đời và hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế. Tính chất, mức độ phát triển của tài chính doanh nghiệp phụ thuộc vào tính chất trình độ phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Nền kinh tế tập chung đã sản sinh ra cơ chế quản lý tài chính tập chung, còn nền kinh tế thị trường đã làm xuất hiện hàng loạt các quan hệ tài chính mới. Do đó, tinh chất và phạm vi hoạt động của tài chính doanh nghiệp cũng có những thay đổi đáng kể. Hoạt động tài chính là một trong những nội dung cơ bản của hoạt đông sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. Hoạt động tài chính doanh nghiệp có nội dung là giải quyết các mối quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ. Nói cách khác, tài chính doanh nghiệp là hệ thống chỉ tiêu kinh tế dưới hình thức giá trị nảy sinh trong quá trình phân phối của xã hội, gắn liền với việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp để phục vụ cho yêu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và yêu cầu chung của xã hội. 2.2. Các quan hệ tài chính của doanh nghiệp Các quan hệ tài chính của doanh nghiệp rất phong phú và đa dạng. Những quan hệ đó tuy chứa đựng những nội dung kinh tế khác nhau nhưng chúng có những đặc trưng giống nhau, nên có thể chia làm bốn nhóm quan hệ: 2.2.1. Nhóm quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với nhà nước. Quan hệ này phát sinh trong quá trình phân phối và tái phân phối tổng sản phẩm xã hội, thu nhập quốc dân giữa nhà nước với doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp nhà nước quan hệ này có tính chất hai chiều: Nhà nước cấp vốn để doanh nghiệp hoạt đông, doanh nghiệp có trách nhiệm sử dụng vốn có hiệu quả và trích nộp đầy đủ các khoản thuế theo quy định của nhà nước. Đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì quan hệ này chỉ thể hiện qua khoản thuế phải nộp. 2.2.2. Nhóm quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính Doanh nghiệp thực hiện quá trình trao đổi, mua bán các sản phẩm của mình, nhằm thoả mãn nhu cầu về vốn của doanh nghiệp. + Đối với thị trường tiền tệ: Thông qua thị trường tiền tệ, hệ thống ngân hàng, doanh nghiệp có thể tạo được nguồn vốn phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. + Đối với thị trường tạo vốn: Doanh nghiệp có thể tạo ra được nguồn vốn bằng cách phát hành chứng khoán như cổ phiếu, trái phiếu nhằm thoả mãn thêm nhu cầu về vốn cho kinh doanh. 2.2.3. Nhóm quan hệ giữa doanh nghiệp với các thị trường khác. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có rất nhiều quan hệ trao đổi, quan hệ với các thị trường khác như thị trường hàng hoá, dịch vụ, sức lao đông ... trong qúa trình thu mua các yếu tố sản xuất, đồng thời mua bán hàng hoá, dịch vụ. Qua mối quan hệvới thị trường đó, doanh nghiệp có thể xác định được nhu cầu sản phẩm và dịch vụ cung ứng, từ đó đề ra các kế hoạch sản xuất kinh doanh ngắn hạn, dài hạn để đủ sức mạnh cạnh tranh trên thị trường. 2.2.4. Nhóm quan hệ tài chính diễn ra trong nội bộ doanh nghiệp. Quan hệ này được thể hiện trong doanh nghiệp: Thanh toán tiền lương, tiền công và thực hiện các khoản tiền thưởng và tiền phạt với công nhân viên của doanh nghiệp. Quan hệ thanh toán giữa các bộ phận trong doanh nghiệp, trong việc phân phối lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp, việc phân chia cổ tức cho các cổ đông, việc hình thành các quỹ của doanh nghiệp. Các quan hệ kinh tế phát sinh gắn liền với việc tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp hợp thành các quan hệ tài chính của doanh nghiệp. Các quan hệ tài chính được tổ chức tốt cũng nhằm đạt tới các mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. 2.3. Vai trò, vị trí của tài chính doanh nghiệp. 2.3.1. Vai trò của tài chính doanh nghiệp. Vai trò của tài chính là hoạt động chủ quan của người quản lý trong việc nhận thức và sử dụng tổng hợp các chức năng cuả nó nhằm thực hiện mục tiêu kinh tế nhất định. Vai trò của tài chính doanh nghiệp sẽ trở nên tích cực hay tiêu cực đối với kinh doanh do nhiều nguyên nhân tác động, bởi lẽ tài chính doanh nghiệp không chỉ là một phạm trù kinh tế khách quan mà còn là một công cụ quản lý kinh tế. Trong điều kiện môi trường kinh doanh đang từng bước hoàn thiện, tài chính doanh nghiệp có đủ điều kiện để phát huy vai trò của mình. Bởi vì: + Tài chính doanh nghiệp là công cụ quan trọng để tạo lập vốn, đảm bảo vốn cho sản xuất kinh doanh. Đây là vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp vì vốn là điều kiện đầu tiên và quyết định trong bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào. + Tài chính doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong việc tổ chức và sử dụng vốn có hiệu quả, đảm bảo khả năng sinh lời của vốn. + Tài chính doanh nghiệp có vai trò là đòn bẩy kinh tế trong sản xuất, tạo động lực thúc đẩy hoạt động kinh doanh phát triển không ngừng nhằm thu được hiệu quả kinh tế cao. + Tài chính doanh nghiệp là công cụ quan trọng để kiểm tra, kiểm soát các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 2.3.2. Vị trí của tài chính doanh nghiệp. Trong cơ chế thị trường, tài chính doanh nghiệp giữ vai trò quan trọng trong hệ thống tài chính nói chung và trong các công cụ quản lý kinh tế ở mỗi doanh nghiệp nói riêng. Nếu xét trên góc độ hệ thống tài chính trong nền kinh tế quốc dân thì tài chính doanh nghiệp được coi là cầu nối giữa nhà nước với doanh nghiệp . Thông qua mạng lưới tài chính doanh nghiệp, nhà nước thực hiện chính sách quản lý vĩ mô để điều tiết nền kinh tế thị trường bằng các cơ chế chính sách và luật pháp nhằm đạt mục tiêu phát triển kinh tế chung, đồng thời mở rộng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Nếu xét trên phạm vi một đơn vị sản xuất kinh doanh, tài chính doanh nghiệp có ảnh hưởng đến tất cả các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh, nó được coi là công cụ quan trọng nhất để quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến quá trình sản xuất kinh doanh, nên nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự tăng trưởng, phát triển của doanh nghiệp. 2.4. Nội dung, chức năng của hoạt động tài chính doanh nghiệp. Hoạt dộngtc doanh nghiệp nhằm thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp là có lợi nhuận, tăng trưởng kinh tế và tồn tại phát triển doanh nghiệp. Hoạt động tài chính doanh nghiệp bao gồm bao gồm các nội dung cơ bản sau: + Doanh nghiệp nên đầu tư vào đâu và như thế nào cho phù hợp với hình thức kinh doanh đã lựa chọn. + Nguồn vốn của doanh nghiệp huy dộng ở đâu, cơ cấu vốn và chi phí thấp nhất. + Lợi nhuận của doanh nghiệp được sử dụng như thế nào để phát triển sản xuất kinh doanh. + Doanh nghiệp phải thường xuyên đánh giá, phân tích các hoạt động tài chính như thế nào để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. + Quản lý các hoạt động tài chính như thế nào để đưa ra các quyết định đầu tư cho phù hợp. 2.4.2. Chức năng của tài chính doanh nghiệp. Từ vai trò và nội dung của hoạt động tài chính mà tài chính doanh nghiệp có hai chức năng cơ bản sau: + Chức năng phân phối: (sản phẩm xã hội trong doanh nghiệp). Chức năng phân phối là thuộc tính khách quan vốn có của tài chính doanh nghiệp, là công cụ quản lý kinh tế, là sự phân chia sản phẩm, xác lập các quan hệ giữa các bộ phận khác nhau trong doanh nghiệp. Nhờ có chức năng này mà doanh nghiệp có khả năng khai thác, thu hút nguồn tài chính trong nền kinh tế để hình thành vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Cũng nhờ khả năng phân phối mà vốn kinh doanh được đầu tư và sử dụng vào các mục đích kinh doanh để tạo ra thu nhập và tích luỹ tiền tệ của doanh nghiệp là yếu tố quan trọng nhất quyết định phương hướng và sự tồn tại sủa doanh nghiệp. + Chức năng Giám đốc: Biểu hiện tập chung nhất của chức năng Giám đốc là Giám đốc các quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp. Với khả năng Giám đốc tài chính các quỹ tiền tệ được hình thành từ các nguồn tài chính hợp lý, hợp pháp và có hiệu quả. Thông qua chức năng Giám đốc đảm bảo cho các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp sử dụng đúng các mục đích đã định từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Chức năng Giám đốc chính là sự giám sát, dự báo tính hiệu quả các quá trình phân phối từ đó nhà quản lý có thể thấy được các nhược điểm trong sản xuất kinh doanh để điều chỉnh nhằm thực hiện được mục tiêu kinh doanh đã hoạch định. II. Phân tích các nhóm chỉ tiêu đặc trưng trong hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Để có cơ sở hướng kinh doanh cho kỳ tới, các nhà quản lý phải biết được tình hình biến động tài sản, mức thừa thiếu vốn trong kinh doanh, mức đảm bảo nhu cầu cho vốn lưu động tình hình thanh toán, khả năng thanh toán trong những kỳ vừa qua. Do đó khi phân tích cần phải dựa trên các yêu cầu đó nhằm cung cấp thông tin chính xác, kịp thời phục vụ cho quản lý. Trong phân tích tài chính sử dụng các nhóm tỷ lệ: + Nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán: Đây là chỉ tiêu đặc chưng cho việc sử dụng tài nguyên, nguồn lực của doanh nghiệp. + Nhóm tỷ lệ và khả năng cân đối vốn ( Hoặc cơ cấu vốn ): Nhóm chỉ tiêu này phản ánh mức độ ổn định, tự chủ tài chính cũng như khả năng sử dụng nợ vay của doanh nghiệp. + Nhóm tỷ lệ về khả năng sinh lời: Nhóm chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh tổng hợp nhất của một doanh nghiệp. 1.Phân tích tình hình và khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Tình hình tài chính của doanh nghiệp thể hiện rất rõ nét qua khả năng thanh toán. Muốn biết tình hình tài chính của doanh nghiệp là tốt hay xấu, có đủ khả năng chi trả hay không ta phải phân tích khả năng thanh toán. Nếu tình hình tài chính tốt thì doanh nghiệp sẽ ít công nợ, khả năng thanh toán dồi dào, ít bị chiếm dụng vốn. Nếu tình hình tài chính khó khăn thì doanh nghiệp sẽ không có khả năng thanh toán, chi trả, hoạt động kinh doanh bị đình trệ và dẫn đến thua lỗ, phá sản. Để đánh giá khả năng thanh toán, ngoài việc dựa vào bảng cân đối kế toán và thuyết minh báo cáo tài chính, báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh , ta còn phải tính đến các khả năng sau: 1.1. Chỉ tiêu "tỷ suất thanh toán hiện thời" (ngắn hạn) Tỷ suất thanh toán Tổng số tài sản lưu động (loại A - Tài sản) hiện hành (ngắn hạn) tổng số nợ ngắn hạn Loại A - Mục I, NV) Tỷ suất này cho thấy khả năng đáp ứng cho các khoản nợ ngắn hạn (Phải thanh toán trong vòng một năm hay một chu kỳ kinh doanh) của doanh nghiệp là cao hay thấp. Để trả được khoản nợ này doanh nghiệp phải dùng toàn bộ phần tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của mình để thanh táon các khoản nợ ngắn hạn. Nếu tỷ suất này nhỏ hơn 1 thì khả năng thanh toán của doanh nghiệp không khả quan và ngược lại. Nếu tỷ suất này bằng 1 khả năng trả nợ của doanh nghiệp bằng 1 nhưng khả năng kinh doanh của doanh nghiệp bị hạn chế vì tài sản lưu động trong doanh nghiệp chỉ vừa đủ để trả nợ, không có dư thừa để mua các yếu tố dự trữ cho quá trình sản xuất sau. Nếu tỷ suất này cao hơn 1 quá nhiều sẽ gây tình trạng thừa tài sản lưu động và giải quyết nợ ngắn hạn, dễ gây ứ đọng vốn lưu động, hiệu quả đạt được sẽ hạn chế. 1.2. Chỉ tiêu "tỷ suất thanh toán của vốn lưu động". Tỷ suất thanh toán Tổng số vốn bằng tiền (Loại A - Mục I, tài sản) của vốn lưu động Tổng số tài sản lưu động (Loại A - Tài sản ) Tỷ suất này phản ánh vốn bằng tiền và các khoản đầu tư ngắn hạn chiếm tỷ trọng bao nhiêu trong tổng số tài sản lưu động. Thực tế này cho thấy nếu chỉ tiêu này lớn hơn 0,5 hoặc nhỏ hơn 0,1 đều không tốt vì sẽ gây ứ đọng vốn hoặc thiếu tiến khi cần thiết để thanh toán. 1.3. Chỉ tiêu "tỷ suất thanh toán tức thời nhanh". Tỷ suất thanh toán Tiền và tương đương tiền tức thời nhanh Nợ tới hạn Nếu tỷ suất này lớn hơn 0,5 thì tình hình thanh toán tương đối khả quan. Nếu tỷ suất này nhỏ hơn 0,5 thì doanh nghiệp có thể gặp khó khăn trong việc thanh toán công nợ. Để đánh giá chính xác hơn tình hình tài chính, khả năng thanh toán của doanh nghiệp cần xem xét hệ số "quay vòng các khoản phải thu" thành tiền của doanh nghiệp. Vòng quay các Doanh thu thuần khoản phải thu Số dư bình quân các khoản phải thu Nếu hệ số này cao có nghĩa là doanh nghiệp thu hồi nhanh các khoản nợ, tránh được các khoản vốn bị chiếm dụng. Nếu hệ số này cao quá có nghĩa là doanh nghiệp bị hạn chế các khoản nợ và sẽ ảnh hưởng đến doanh thu. 2.Cấu trúc tài chính. Để đảm bảo đủ tài sản cho hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp cần phải tập hợp các biện pháp tài chính cần thiết cho việc huy động và hình thành nguồn vốn. Nguồn vốn của doanh nghiệp được hình thành trước hết từ nguồn vốn của bản thân chủ sở hữu (vốn góp ban đầu và bổ sung trong quá trình sản xuất kinh doanh). Sau nữa được hình thành từ nguồn vốn vay và nợ hợp pháp (vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn, nợ người cung cấp, nợ công nhân viên chức ... ) Cuối cùng, nguồn vốn được hình thành từ các nguồn bất hợp pháp (nợ quá hạn, vay quá hạn, chiếm dụng bất hợp pháp của người mua, người bán, của công nhân viên chức ... ) Bên cạnh việc huy động và sử dụng vốn, khả năng đảm bảo về tài chính và mức độ độc lập hay phụ thuộc cũng như sự chủ động trong kinh doanh hay những khó khăn mà doanh nghiệp cần tháo gỡ cũng cho thấy một cách khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp. Cần xác định chỉ tiêu: Tỷ suất tự Nguồn vốn chủ sở hữu (Loại B - Nguồn vốn) tài trợ Tổng nguồn vốn Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ mức độ độc lập về mặt tài chính của doanh nghiệp vì hầu hết tài sản mà doanh nghiệp hiện có đều đưọc đầu tư bằng vốn của mình và ngược lại. Phân tích nguồn vốn kinh doanh và tình hình sử dụng vốn kinh doanh là việc xem xét đánh giá và phân bổ nguồn vốn kinh doanh như thế nào cho phù hợp. Vì vậy, việc xem xét xác định tỷ trọng của từng khoản vốn chiếm trong tổng số vốn, đối chiếu nhiệm vụ của doanh nghiệp để xác định tính chất hợp lý của việc sử dụng vốn là việc phải làm. Khi nghiên cứu tình hình đảm bảo vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, các nhà phân tích còn sử dụng chỉ tiêu ngu cầu vốn lưu động thường xuyên. Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên là lượng vốn ngắn hạn doanh nghiệp cần để tài trợ cho một phần tài sản lưu động, đó là hàng tồn kho và các khoản phải thu. Nhu cầu vốn lưu Tồn kho và các khoản phải Nợ ngắn động thường xuyên thu (không phảilà tiền) hạn Để biết được nhu cầu vốn lưu động thường xuyên ta phải xét đến cơ cấu: Tồn kho, các khoản phải thu, nợ ngắn hạn đồng thời mối quan hệ giữa các khoản mục này. Từ kết quả tính được và so sánh các năm để đánh giá xu hướng dùng vốn lưu động thường xuyên của doanh nghiệp. Sau khi biết được tỷ trọng từng khoản mục ta phải xem xét đến cơ cấu đó ra sao. Điều đó giúp ta trả lời câu hởi trong tổng số hàng tồn kho gồm những cái gì vì nếu cần có chuyển thành tiền dễ dàng không? Biết được điều đó nhà quản lý sẽ có những chính sách thích nghi để tìm kiếm lợi nhuận hoặc đầu cơ hoặc tung hàng ra bán nhanh. Bên cạnh đó, các khoản phải thu là nguyên nhân gây ứ đọng vốn mà nhiều khi không đem lại hiệu quả kinh tế gì? cơ cấu các khoản phải thu cho phép nhà phân tích thấy dược quy mô vốn mà doanh nghiệp bị chiếm dụng, phần nào là tự nguyện, phần nào là bắt buộc. Điều này giúp nhà quản lý xem xét các khả năng làm thế nào để vốn bị chiếm dụng là thấp nhất nhưng có hiệu quả. Do vậy, vai trò của người quản lý phải có cách thức làm thế nào để có biện pháp thu hồi vốn hay tiếp tục huy động vốn lưu động, thúc đẩy tuêu thu hàng hoá ..... Bên cạnh đó, cần chú ý đến các khoản nợ ngắn hạn, khoản thường phải chịu lãi suất cao, vay ngắn hạn, vay dài hạn đến hạn trả, khoản phải trả người bán, khoản phải trả người mua, khoản phải trả cán bộ công nhân viên để có những giải pháp cụ thể. Như vậy, để đánh giá mức độ đảm bảo nguồn vốn và vốn
Tài liệu liên quan