Đề tài Lập danh mục đầu tư các cổ phiếu ngành bất động sản trên thị trường Việt Nam

Thị trường chứng khoán Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ và thu hút rất nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước. Các nhà đầu tư có thể là các cá nhân hay các tổ chức, và họ tham gia vào thị trường theo những cách tiếp cận khác nhau. Nhiều nhà đầu tư ưa thích rủi ro, nhiều nhà đầu tư e ngại rủi ro, có nhà đầu tư thụ động và chủ động. Tuy nhiên tất cả các nhà đầu tư cá nhân hay tổ chức đều với một mục tiêu là thu được lợi nhuận cao và với mức rủi ro thấp nhất.

docx84 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1394 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lập danh mục đầu tư các cổ phiếu ngành bất động sản trên thị trường Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Thị trường chứng khoán Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ và thu hút rất nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước. Các nhà đầu tư có thể là các cá nhân hay các tổ chức, và họ tham gia vào thị trường theo những cách tiếp cận khác nhau. Nhiều nhà đầu tư ưa thích rủi ro, nhiều nhà đầu tư e ngại rủi ro, có nhà đầu tư thụ động và chủ động. Tuy nhiên tất cả các nhà đầu tư cá nhân hay tổ chức đều với một mục tiêu là thu được lợi nhuận cao và với mức rủi ro thấp nhất. Trong thời gian hiện nay, với sự biến động của thị trường thì việc đầu tư cổ phiếu khá nhiều rủi ro. Vì vậy việc thiết lập một danh mục chứng khoán đầu tư là rất quan trọng. Mục đích củc việc đầu tư theo danh mục là giảm thiểu rủi ro bằng việc đa dạng hóa danh mục đầu tư. Dựa trên cơ sở các tài sản đầu tư, nhà đầu tư lập một danh mục đầu tư bao gồm các tài sản khác nhau. Trên nguyên tắc là “không bỏ trứng vào một giỏ”, các nhà đầu tư tạo ra một danh mục có rủi ro thấp nhất, đó là rủi ro của thị trường (rủi ro hệ thống). Khi đó, nhà đầu tư vẫn đạt được ở tại mức lợi nhuận kỳ vọng. Vì vậy, nhà đầu tư luôn cố gắng tạo ra một danh mục tối ưu. Với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế hiện nay đã mang đế cho thị trường bất động sản một vị thế mới, một diện mạo mới. Chính vì vậy mà trên thị trường chứng khoán hiện nay thì các cổ phiếu của ngành bất động sản đang khá được quan tâm và đầu tư với những tên tuổi có thương hiệu của các công ty bất động sản mạnh. Tuy nhiên với sự biến động chung của thì trường thì cổ phiếu bất động sản là loại cổ phiếu ”nhạy cảm” đầu tư vào các loại chứng khoán các công ty ngành bất động sản cũng mang lại nhiều rủi ro cho các nhà đầu tư. Tầm quan trọng đối với lập và quản lý danh mục đầu tư đối với nhà đầu tư chính là bí quyết để thành công. Vì vậy mà qua thời gian thực tập tại Công ty Chứng khoán APEC, và những thông tin tìm hiểu thêm cùng sự hướng dẫn của thầy Nguyễn Quang Dong em đã chọn đề tài “ Lập danh mục đầu tư các cổ phiếu ngành bất động sản trên thị trường Việt Nam” Chuyên đề gồm ba chương: Chương 1: Tổng quan về đầu tư chứng khoán và danh mục đầu tư chứng khoán và lý thuyết xây dựng danh mục đầu tư. Chương này bao gồm các kiến thức tổng quan về chứng khoán, thị trường chứng khoán, các kiến thức về đầu tư chứng khoán và lý thuyết xây dựng danh mục đầu tư Chương 2: Phân tích các chỉ số tài chính của các công ty trong danh mục đầu tư. Chương này bao gồm tóm tắt các chỉ số tài chính của các công ty, bảng số liệu các chỉ số tài chính đã được tính toán cho các công ty trong năm 2007. Chương 3: Xây dựng danh mục đầu tư của ngành bất động sản. Trong chương này em thực hiện xây dựng danh mục đầu tư cho cổ phiếu ngành Bất động sản. Để hoàn thành được đề tài này, em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong Khoa Toán Kinh tế đã giúp đỡ em trong thời gian học tập và thực tập vừa qua. Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn Quang Dong đã hướng dẫn, chỉ bảo tận tình, giúp đỡ. Và trong thời gian thực tập qua, nhờ sự giúp đỡ của các anh chị cô chú trong Công ty chứng khoán APEC, em đã tìm hiểu được nhiều kiến thức và kinh nghiệm đầu tư thực tế của Công ty. Từ đó, em có cơ sở thực tiễn để thực hiện đề tài này. Vì vậy, em xin chân thành cảm ơn các anh chị, cô chú trong Công ty đã giúp đỡ em. CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN I. Tổng quan về thị trường chứng khoán 1. Khái niệm thì trường chứng khoán Thị trường chứng khoán là một bộ phận quan trọng trong thị trường Tài chính, là nơi diễn ra các hoạt động mua bán các chứng khoán và các giấy tờ ghi nợ chung hoặc dài hạn thường từ một năm trở lên. Thị trường chứng khoán cũng chính là thị trường vốn mà mối quan hệ về giao lưu vốn dài hành trên TTCK được thể hiện tập trung bằng các hoạt động kinh doanh các loại chứng khoán đã được phát hành và đang lưu hành trên thị trường. Việc mua bán các loại chứng khoán này được diễn ra trên thị trường sơ cấp khi trao đổi các loại chứng khoán lần đầu được phát hành và ở thị trường trao đổi thứ cấp khi có sự mua bán lại các loại chứng khoán đã được phát hành trên thị trường thứ cấp. Như vậy xét về mặt hình thức thì thị trường chứng khoán chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán các loại chứng khoán, qua đó thay đổi các chủ thể nắm giữ chứng khoán. Nhưng xét về mặt bản chất thì: TTCK là nơi tập trung và phân phối các nguồn tiết kiệm. Tập trung các nguồn tiết kiệm để phân phối lại cho những người sử dụng sẵn sàng trả và theo phán doán của thì trường về khả năng sinh lời từ các dự án của người sử dụng. Chuyển tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh. TTCK là định chế tài chính trực tiếp cả chủ thể cung và cầu đều tham gia vào thị trường một cách trực tiếp. TTCK thực chất là quá trình vận động của tư bản tiền tệ, là nơi mua bán các quyền sở hữu tư bản, là hình thức phát triển cao của nền sản xuất hàng hóa. Trong nền kinh tế thị trường, sự tồn tại và phát triển của TTCK là tất yếu khách quan. Hoạt động trên TTCK có tác động, hiệu ứng trực tiếp tới hiệu quả đầu tư của các cá nhân, của các doanh nghiệp và hành vi của người tiêu dùng, và tới động thái chung của toàn bộ nền kinh tế. Như vậy việc hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán là bước phát triển tất yếu của nền kinh tế thị trường. Việt Nam với nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường cùng với các bước phát triển để hội nhập cũng đòi hỏi phải hình thành và phát triển TTCK. Sự ra đời của TTCK Việt Nam đuợc đánh dấu bằng sự thành lập của Trung tâm Giao dịch chứng khoán tại thành phố Hồ Chính Minh (HoSTC) ngày 20/07/2000. Đến ngày 08/03/2005 sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội ra đời (HaSTC) đánh dấu sự phát triển nhanh chóng của TTCK Việt Nam. Đến nay, sau hơn 8 năm hoạt động tính đến 31/12/2007, trung tâm giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh đã có 141 loại cổ phiếu được niêm yết, hai quỹ đầu tư VFMVF1 và PRUBF1 và hơn 400 loại trái phiếu, với tổng giá trị hơn 80.000 tỷ đồng. Ngoài ra còn hơn 2000 công ty có cổ phiếu được trao đổi trên thị trường OTC. Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội cũng tham gia với 112 cổ phiếu. Theo thống kê về khối lượng giao dịch và giá trị giao dịch trên thị trường thì năm 2007 là một năm khá thành công. Năm 2007 cũng là năm đánh dấu sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài. Tính cả trên thị trường không chính thức thì giá trị danh mục đầu tư của NĐTNN đạt gần 20 tỷ USD, tăng gấp 3 lần quy mô năm 2006. Ta có thống kê giao dịch trên 2 sàn chứng khoán như sau: 2006 2007 Tăng trưởng Vn-index 752 927.02 23.3% Tổng KLDG 643,281,249 2,008,535,798 2 lần Tổng GTGD 38,175,024,441 205,732,389,629 2.8 lần Hastc-index 242.89 323.55 33.2% Tổng KLGD 95,606,426 3,917,384,521 6 lần Tổng GTGD 3,917,384,521 63,422,391,065 15.8 lần 2. Chức năng của thị trường chứng khoán và phân loại thị trường 2.1. Chức năng cơ bản của thị trường chứng khoán Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán Đánh giá các hoạt động của doanh nghiệp Tạo môi trường giúp chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô 2.2. Phân loại thị trường 2.2.1. Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn Căn cứ vào sự luân chuyển các luồng vốn, TTCK được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp là thị trường mia bán các loại chứng khoán mới phát hành. Trên thị trường này, vốn từ các nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc các nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành. Vai trò của thị trường sơ cấp: + Chứng khoán hóa nguồn vốn cần huy động vốn của công ty được huy động qua việc phát hành chứng khoán. + Thực hiện quá trình chu chuyển tài chính, trực tiếp đưa các khoản tiền nhàn rỗi sang dạng vốn dài hạn. Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các loại chứng khoán đã phát hành trên thị trường sơ cấp. Thì trường thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành. 2.2.2. Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường, TTCK được phân thành thị trường tập trung (sở giao dịch chứng khoán ) và phi tập trung ( thị trường OTC) Sở giao dịch chứng khoán: Tại sở giao dịch chứng khoán các giao dịch tập trung tại một địa điểm, các lệnh được truyền tới sàn giao dịch và tham gia giao dịch và tham gia vào quá trịnh ghép lệnh để hình thành nên giá giao dịch. Thì trường OTC (Over the Counter market) : các giao dịch và sơ cấp và thứ cấp đều được diễn ra trên mạng lưới các công ty chứng khoán phân tán trên khắp quốc gia và được nối với nhau bằng mạng điện tử. Giá cả của thị trường này được hình thành theo phương thức thỏa thuận. Đối với thị trường thứ cấp, cấu trúc thị trường cơ bản đều được hình thành dựa trên cơ sở đấu giá và đấu lệnh. Trên thị trường đấu giá thì các nhà tạo dựng thị trường đưa ra gí đặt mua và giá chào bán các loại chứng khoán được ấn định của họ. Trên thị trường đấu lệnh, lệnh của các nhà đầu tư được ghép với nhau không có sự tham gia của các nhà tạo lập thị trường. 2.2.3. Căn cứ vào hàng hóa trên thị trường Căn cứ vào hàng hóa trên thị trường thì TTCK có thể phân thành: Thị trường cổ phiếu, Thị trường trái phiếu, Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh. Thị trường cổ phiếu là thì trường giao dịch và mua bán các loại cổ phiếu, bao gồm cổ phiếu thường, cô phiếu ưu đãi. Thị trường trái phiếu là thị trường giao dịch và mua bán các laoij trái phiếu đã được phát hành bao gồm trái phiếu công ty, trái phiếu đô thị, trái phiếu chính phủ. Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh là thị trường phát hành và mua đi bán lại các chứng khoán phái sinh đã được phát hành như việc mua bán các giấy tờ tài chính khác như: chứng quyền, quyền mua, hợp đồng quyền chọn. Đây là loại thị trương cao cấp chuyên giao dịch các loại chứng khoán cao cấp. 3. Hàng hóa của thị trường chứng khoán 3.1. Cổ phiếu Cổ phiếu là một loại chứng khoán được phát hành dưới dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu cổ phiếu đối với tài sản hoặc vốn của một công ty cổ phần. Khi mua cổ phiếu những người đàu tư (các cổ đông) sẽ trở thành nhữn chủ sở hữu đối với các công ty. Mức độ sở hữu đó tùy thuộc vào tỷ lệ cổ phần mà cổ đông đó nắm giữ. Là chủ sở hữu, các cổ đông cùng nhau chia sẻ lợi nhuận cũng như tổn thất trong quá trình hoạt động của công ty, và chỉ nhận lại những gì còn lại sau khi thực hiện các khoản nghĩa vụ trong trường hợp công ty phá sản. Cổ phiếu là công cụ không có thời hạn. Theo tính chất của các quyền mà cổ phiếu mang lại cho cổ đông thì có 2 loại cổ phiếu cơ bản: Cổ phiếu phổ thông: là loại cổ phiếu mang lại cho người chủ sở hữu quyền hưởng cổ tức, quyền mua cổ phiếu mới và quyền bỏ phiếu. Cổ phiếu ưu đãi: là loại cổ phiếu dành cho cổ đông những ưu đãi so với cổ phiếu cổ đông phổ thông. Cổ phiếu là tài sản có tác dụng giảm biến động lợi tức của danh mục cao nhất do độ giao động của tài sản này không trùng khớp với chu kỳ hay thời gian với các loại tài sản khác. Vì thế cổ phiếu là loại tài sản được đầu tư phổ biến trên thị trường nhưng thu nhập có độ biến động cao nên đây là loại tài sản này cũng có rủi ro cao. Lợi ích của đầu tư cổ phiếu thông thường bao gồm: tính thanh khoản cao của cổ phiếu, nguồn tăng trưởng dài hạn, lợi ích về thuế. Rủi ro của nhà đầu tư trong đầu tư cổ phiếu bao gồm: cổ tức không ổn định, rủi ro phá sản công ty phát hành , các rủi ro về ngoại hối … 3.2. Trái phiếu Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành (người vay tiền) phải trả cho người nắm giữ chứng khoán (người cho vay) một khoản tiền nhất định, thường là trong khoản thời gian cụ thể, và phải hoàn trả khoản cho vay ban đầu khi nó đáo hạn. Trái phiểu là một công cụ nợ đòi hỏi người phát hành hoàn trả cho người cho vay (người đầu tư) khối lượng vốn đã vay cộng với tiền lãi trong một khoản thời gian nhất định. Trái phiếu cũng là tài sản quan trọng thứ hai sau cổ phiếu trong việc xác định danh mục đầu tư. Đầu tư trong trái phiếu là loại đầu tư có tỷ lệ rủi ro thấp. Rủi ro trong đầu tư trái phiếu bao gồm rủi ro về lãi suất, kỳ hạn của trái phiếu, rủi ro ngoại hối, rủi ro tín dụng… Trái phiếu bao gồm: trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty, trái phiếu đảm bảo và trái phiếu không đảm bảo. 3.3. Chứng chỉ quỹ đầu tư Chứng chỉ quỹ đầu tư là quỹ hình thành từ vốn góp của nhà đầu tư để đầu tư vào chứng khoán. Việc huy động vốn vào quỹ đầu tư chứng khoán được thực hiện theo 2 cách là phát hành cổ phần ra công chúng hoặc phát hành dưới dạng chứng chỉ quỹ. 3.4. Chứng khoán có thể chuyển đổi Chứng khoán có thể chuyển đổi là các loại chứng khoán cho phép người nắm giữ nó, tùy theo lựa chọn và trong những điều kiện nhất định, có thể đổi nó lấy một chứng khoán khác. 3.5. Các loại chứng khoán phái sinh Có nhiều loại chứng khoán phái sinh như: Quyền mua cổ phần Chứng quyền Hợp đồng kỳ hạn Hợp đồng tương lai Quyền lựa chọn Chứng khoán là hàng hóa của thị trường chứng khoán và là tài sản chính vì nó mang lại thu nhập chính cho nhà đầu tư và khi cần thị có thể bán để thu tiền về. Theo sự phát triển của thị trường thì hàng hóa ngày càng đa dạng và phong phú. Trên thị trường chứng khoán hiện nay, phát triển mạnh nhất vẫn là thị trường cổ phiếu và trái phiếu. 4. Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán Các tổ chức và cá nhân tham gia thị trường chứng khoán có thể được chia thành các nhóm sau: nhà phát hành, nhà đầu tư và các tổ chức có liên quan đến chứng khoán. 4.1.  Nhà phát hành Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán. Nhà phát hành là người cung cấp các chứng khoán - hàng hoá của thị trường chứng khoán. - Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu Chính phủ và trái phiếu địa phương. - Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty. - Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các trái phiếu, chứng chỉ thụ hưởng... phục vụ cho hoạt động của họ. 4.2.  Nhà đầu tư Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán. Nhà đầu tư có thể được chia thành 2 loại: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức. - Các nhà đầu tư cá nhân. - Các nhà đầu tư có tổ chức. 4.3.  Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán - Công ty chứng khoán. - Quỹ đầu tư chứng khoán. -  Các trung gian tài chính. 4.4. Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán - Cơ quan quản lý Nhà nước. - Sở giao dịch chứng khoán. - Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán. - Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán. - Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán. - Các tổ chức tài trợ chứng khoán. - Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm... 5. Các nguyên tắc hoạt động cơ bản 5.1. Nguyên tắc công khai Thị trường chứng khoán được xây dựng trên cơ sở hệ thống công bố thông tin tốt. Việc công bố thông tin trên thị trường chứng khoán phải thảo mãn các yêu cầu: Chính xác, kịp thời và dễ tiếp cận. Nguyên tắc công khai nhằm bảo vệ người đầu tư, song đồng thời cũng hàm chứa rằng, khi người đầu tư đã được cung cấp thông tin đầy đủ và kịp thơi và chính xác thì nhà đầu tư phải chịu trách nhiệm về các quyết định của mình. 5.2. Nguyên tắc trung gian Theo nguyên tắc này, trên thị trường chứng khoán, các giao dịch được thực hiện thông qua tổ chức trung gian là các công ty chứng khoán. 5.3. Nguyên tắc đấu giá Nguyên tắc đấu giá dựa trên mối quan hệ cung cầu trên thị trường quyết định. Có các loại đấu giá: Đấu giá trực tiếp Đấu giá gián tiếp Đấu giá tự động Đấu giá định kỳ Đấu giá liên tục Khi thực hiện nguyên tắc đấu giá bao giờ cũng tuân theo các thứ tự ưu tiên về giá, về thời gian, về khác hàng và về quy mô. II. Phân tích chứng khoán Phân tích chứng khoán được nhà đầu tư tiến hành nhằm trả lời câu hỏi trước khi đưa ra quyết định đầu tư 1. Phân tích vĩ mô và thị trường chứng khoán 1.1. Môi trường chính trị - xã hội và pháp luật Đối với bất kỳ một quốc gia nào, môi trường xã hội và chính trị luôn có những tác động đến thị trường chứng khoán nước đó. Tình hình chính trị ảnh hưởng rất lớn đến thị trường chứng khoán. Các yếu tố chính trị bao gồm những thay đổi về chính phủ và các hệ thống chính trị. Thay đổi chính trị làm cho nhiều quy định và sự kiểm soát của chính phủ đối với một số ngành được thắt chặt và một số quy định trong các ngành khác được nới lõng. Chúng đều có tác động lớn tới kết quả kinh doanh của mỗi ngành, mỗi công ty. Môi trường pháp luật cũng là yếu tố cơ bản gây ra tavs động tới thị trường chứng khoán, các cơ quan Chính phủ tác động đến thị trường chứng khoán bằng luật. Như các quy định bằng giá cả, dịch vụ sẽ gây tác động trực tiếp đến các ngành dịch vụ công cộng. Luật chống độc quyền thường làm giảm giá chứng khoán của các công ty bị điều chỉnh bởi chính nó. Chính sách tiền tệ tín dụng của Ngân hàng trung ương có thể gây tác động to lớn tới thị trường. 1.2. Ảnh hưởng kinh tế vĩ mô Các điều kiện kinh tế vĩ mô sẽ quyết didnhj rủi ro chung của thị trường mà trong lý thuyết gọi là rủi ro hệ thống. Rủi ro này tác động đến toàn bộ thị trường, đến tất cả mọi chứng khoán mà bản thân doanh nghiệp hay từng ngành không thể tránh được. Đối với từng người đầu tư hay từng tổ chức phát hành thì đây được coi là rủi ro khách quan. Do các điều kiện kinh tế vĩ mô quyết định rủi ro hệ thống nên chúng sẽ quyết định xu thế đại thể của thu nhập trong đầu tư chứng khoán. Biến động của thị trường chứng khoán có mối liên quan chặt chẽ tới nền kinh tế vĩ mô. Như giá của hầu hết trái phiếu được quyết định bởi khung lãi suất của thị trường và khung lãi suất này lại bị tác động của các hoạt đọng kinh tế nói chung và chính sách lãi suất của ngân hàng trung ương. Nói cách khác chính sách tài chính – ngân hàng và chính sách tiền tệ cảu Chính phủ có ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế của một nước. Các điều kiện về kinh tế do các chính sách này tác động sẽ ảnh hưởng đến tất cả các ngành và các công ty trong nền kinh tế. Chính sách tài chính – ngân hàng như miễn giảm thuế có thể khuyến khích tiêu dùng, ngược lại các khoản thuế bổ sung đánh vào thu nhập, xăng dầu, thuốc lá và rượu thì có thể hạn chết tiêu dùng. TĂng hay giảm chi tiêu của Chính phủ cho quốc phòng , bảo hiểm thất nghiệp hoặc các chương trình đào tạo lại hay cho các xa lộ cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế nói chung. Hơn thế nữa, chi tiêu chính phủ có ảnh hưởng cấp số nhân rất mạnh. Chính sách tiền tệ cũng tạo ra những thay đổi tương tự. Một chính sách tiền tệ thắt chặt với tốc độ cung tiền giảm sẽ giảm việc cung cấp vốn lưu động và sẽ hạn chế việc mở rộng sản xuất kinh doanh đối với tát cả doanh nghiệp. Bên cạnh đó chính sách tiền tệ thắt chặt với lãi suất định trước có thể làm tăng lãi suất thị trường và do vậy chi phí của cấc công ty sẽ tăng. Phân tích một nền kinh tế nhất thiếp phải xem xét đến lãi suất và lạm phát. Lạm phát sẽ dẫn đến sự khác nhau giữa lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực, thay đổi hành vì tiêu dùng và tiết kiệm cyar dân cư và doanh nghiệp. Như vậy, có nhiều yếu tố vĩ mô cơ bản tác động trực tiếp đến các hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoán: Tổng sản phẩm quốc nội (GDP), Việc làm Tỷ giá hối đoái Thâm hụt ngân sách Thái độ Cung ứng tiền tệ và tổng chi người tiêu dùng Lạm phát và lãi suất Chu trình kinh doanh 1.3. Dự đoán tình hình kinh tế và xu hướng thị trường Môi trường kinh tế vĩ mô quyết định xư hướng chung của thị trường chứng khoán. Thông thường nền kinh tế phát triển tốt, thị trường chứng khoán đi lên và ngược lại khi nền kinh tế vĩ mô sa sút, rõ nét nhất là trong khủng hoảng kinh tế, thì thị trường xuống. Như vậy nếu ta có thể dự đoán được xu thế phát triển của nền kinh tế thì sẽ dự đoán được xu thế phát triển chung cảu thì trường chứng khoán. Tuy nhiên thì vì nhiều lý di kahcs nhau thi không phải lúc nào quan hệ giữa tình hình kinh tế và diễn biến chung của thị trường chứng khoán là diễn ra cùng chiều. Biến động giá cổ phiếu đoi khi xảy ra trước biến động nền kinh tế. Vì vậy mà các nhà đầu tư luôn luôn cố gắn dự đoán tình hình kinh tế để tìm ra những đỉnh điểm của chu kỳ kinh tế để tim ra những đinihr điểm của chu kỳ kinh tế và chọn thời co tham gia hoặc rút khỏi
Tài liệu liên quan