Đề tài Nghiên cứu khả năng nhân nuôi và sử dụng nhện bắt mồi Amblyseius sp trong phòng chống nhện đỏ Tetranychus cinnabarinus Kochs

Trong sản xuất nông nghiệp, mỗi loại cây trồng có một vai trò quan trọng khác nhau đối với đời sống của con người đặc biệt là cây lương thực và cây thực phẩm. Cây rau đóng góp một phần không nhỏ và đây là một nhu cầu tất yếu của con người. Mặt khác, cây rau còn là cây có giá trị về kinh tế, xã hội, cung cấp các loại Vitamin hàng ngày cho con người. Với khí hậu nóng Èm quanh năm nên thành phần, chủng loại rau ăn ở nước ta rất phong phú. Một trong những nhuyên nhân làm ảnh hưởng đến năng suất và phẩm chất của cây tròng đó là ảnh hưởng của nhóm sâu bệnh hại. Tình hình sâu bệnh lại diễn biến khá phức tạp, xuất hiện nhiều loài dịch hại tàn phá, công tác phòng chống dịch hại cây trồng gặp rất nhiều khó khăn. Thành phần sâu hại trên các loại cây trồng rất đa dạng và phong phú, xuất hiện nhiều nhóm sâu phổ biến và gây hại nghiêm trọng. Trong đó nhện đỏ là một loại gây hại nghiêm trọng trên các loại cây như bông, chè, rau, đậu, đỗ, cây hoa (thược dược, hoa hồng) Chúng dùng kim chích vào mo câu hút dịch cây làm cho cây còi cọc làm chết đỉnh sinh trưởng, rụng lá, hoa quả Ngoài tác hại trực tiếp, một số loại nhện còn truyền các vius nguy hiểm cho cây. Do cơ thể nhện hại thường rất nhỏ bé, khó có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Những hiểu biết và nhận thức về nhện hại còn hạn chế, ngưới sản xuất nhiều khi không phân biệt được triệu chứng gây hại của nhện hại. Mặt khác, nhện hại có thời gian sinh trưởng phát triển ngắn có khả năng thích nghi cao với điều kiện môi trường. Do vậy việc phòng chống nhện hại gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt hiện nay việc dùng các loại thuốc hoá học có phổ tác dụng rộng là một trong các nguyên nhân chính làm tăng tính kháng thuốc của nhện hại nói riêng và làm cho một số laòi địch hại từ chỗ chưa nguy hiểm nay trở thành nguy hại, nguy hiểm đối với cây trồng. Đồng thời, việc dùng các loại thuốc hoá học làm ảnh hưởng tới cá loài thiên địch và làm ô nhiễm môi trường. Ngày nay, với xu thế phát triển chung của toàn thế giới đó là xây dựng một nền nông nghiệp sạch, bền vững và ổn định. Điều này đòi hỏi công tác bảo vệ thực vật phải có cái nhìn sâu hơn trong việc phòng trừ dịch hại tổng hợp, chính vì thế mà việc sừ dụng biện pháp phòng trừ sinh học trong công tác phòng chống dịch hại là một trong những biện pháp cốt lõi trong công các quản lý dịch hại tổng hợp. Đối với nhóm nhện hại cây trồng, việc phòng trừ chỉ yếu vẫn là bằng thuốc hoá học. Như vậy cây hỏi đặt ra là làm thế nào để phòng trừ nhện hại nói chung va nhện đỏ nói riêng mà vẫn giữ được mối cân bằng sinh thái tự nhiên. Vỵe vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “ Nghiên cứu khả năng nhân nuôi và sử dụng nhện bắt mồi Amblyseius sp trong phòng chống nhện đỏ Tetranychus cinnabarinus Kochs”

doc45 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 2925 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu khả năng nhân nuôi và sử dụng nhện bắt mồi Amblyseius sp trong phòng chống nhện đỏ Tetranychus cinnabarinus Kochs, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần thứ nhất MỞ ĐẦU I. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong sản xuất nông nghiệp, mỗi loại cây trồng có một vai trò quan trọng khác nhau đối với đời sống của con người đặc biệt là cây lương thực và cây thực phẩm. Cây rau đóng góp một phần không nhỏ và đây là một nhu cầu tất yếu của con người. Mặt khác, cây rau còn là cây có giá trị về kinh tế, xã hội, cung cấp các loại Vitamin hàng ngày cho con người. Với khí hậu nóng Èm quanh năm nên thành phần, chủng loại rau ăn ở nước ta rất phong phú. Một trong những nhuyên nhân làm ảnh hưởng đến năng suất và phẩm chất của cây tròng đó là ảnh hưởng của nhóm sâu bệnh hại. Tình hình sâu bệnh lại diễn biến khá phức tạp, xuất hiện nhiều loài dịch hại tàn phá, công tác phòng chống dịch hại cây trồng gặp rất nhiều khó khăn. Thành phần sâu hại trên các loại cây trồng rất đa dạng và phong phú, xuất hiện nhiều nhóm sâu phổ biến và gây hại nghiêm trọng. Trong đó nhện đỏ là một loại gây hại nghiêm trọng trên các loại cây như bông, chè, rau, đậu, đỗ, cây hoa (thược dược, hoa hồng)…Chúng dùng kim chích vào mo câu hút dịch cây làm cho cây còi cọc làm chết đỉnh sinh trưởng, rụng lá, hoa quả… Ngoài tác hại trực tiếp, một số loại nhện còn truyền các vius nguy hiểm cho cây. Do cơ thể nhện hại thường rất nhỏ bé, khó có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Những hiểu biết và nhận thức về nhện hại còn hạn chế, ngưới sản xuất nhiều khi không phân biệt được triệu chứng gây hại của nhện hại. Mặt khác, nhện hại có thời gian sinh trưởng phát triển ngắn có khả năng thích nghi cao với điều kiện môi trường. Do vậy việc phòng chống nhện hại gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt hiện nay việc dùng các loại thuốc hoá học có phổ tác dụng rộng là một trong các nguyên nhân chính làm tăng tính kháng thuốc của nhện hại nói riêng và làm cho một số laòi địch hại từ chỗ chưa nguy hiểm nay trở thành nguy hại, nguy hiểm đối với cây trồng. Đồng thời, việc dùng các loại thuốc hoá học làm ảnh hưởng tới cá loài thiên địch và làm ô nhiễm môi trường. Ngày nay, với xu thế phát triển chung của toàn thế giới đó là xây dựng một nền nông nghiệp sạch, bền vững và ổn định. Điều này đòi hỏi công tác bảo vệ thực vật phải có cái nhìn sâu hơn trong việc phòng trừ dịch hại tổng hợp, chính vì thế mà việc sừ dụng biện pháp phòng trừ sinh học trong công tác phòng chống dịch hại là một trong những biện pháp cốt lõi trong công các quản lý dịch hại tổng hợp. Đối với nhóm nhện hại cây trồng, việc phòng trừ chỉ yếu vẫn là bằng thuốc hoá học. Như vậy cây hỏi đặt ra là làm thế nào để phòng trừ nhện hại nói chung va nhện đỏ nói riêng mà vẫn giữ được mối cân bằng sinh thái tự nhiên. Vỵe vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “ Nghiên cứu khả năng nhân nuôi và sử dụng nhện bắt mồi Amblyseius sp trong phòng chống nhện đỏ Tetranychus cinnabarinus Kochs” II. MỤC ĐÍCH VÀ YÊU CẦU 1. Mục đích Nghiên cứu khả năng nhân nuôi và sử dụng nhện bắt mồi trong phòng chống nhện đỏ Tetranychus cinabarinus. 2. Yêu cầu Điều tra mật độ nhện đỏ Tetranychus cinabarinus kochs và nhện bắt mồi ngoài đồng ruộng Nhân nuôi nhện bắt mồi bằng nhện đỏ Tetranychus cinabarinus. Đánh giá hiệu quả sử dụng nhện bắt mồi trong phòng chống nhện đỏ Tetranychus cinabarinus. Phần thứ hai TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU I.TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRÊN THẾ GIỚI 1.1. Các nghiên cứu chung về nhện Nhện thuộc ngành động vật chân khớp Anthropada, nhện là nhóm có bụng không phân đốt rõ ràng ( Kzantz, G.W. 1978) [19] cho đến nay đã có trên 30000 loài nhện được mô tả trong nửa triệu loài ( Kzantz, G.W. 1978). Trên thể giới, ở các châu lục khác nhau thì sự phân bố của nhện này là khác nhau, có những họ chỉ có ở vùng ôn đới mà không có ở vùng nhiệt đới… Như họ Antypidar, họ Parotopidae chỉ có ở âmzon, hay họ Migidae chỉ có ở vùng Nam Phi và trên đảo Madagasca, Milan ( theo Dove Savory, 1964)[10]. Thành phần về nhện là tương đối lớn, chúng phân bố ở khắp mọi nơi, từ trong nhà , ở ngoài đồng cỏ, trong rừng và trên các bụi cây, những vùng đồi núi có độ cao thấp khác nhau. Trong nhóm nhện bao gồm cả loài nhện có Ých và nhện hại. Những nghiên cứu về nhện hại còn rất Ýt so với thành phần nhện trên thế giới. Mới chỉ có một số công trình nghiên cứu về nhóm nhện này. Các kết quả của công trình nghiên cứu này đã góp phần xây dựng nên công tác phòng trừ nhện hại bằng phương pháp quản lý dịch hại IPM. 1.2. Các nghiên cứu về nhện hại Với đặc thù riên của nhóm nhện cây (phytophagous mites) bao gồm trên 10 họ và tập trung chủ yếu và 4 họ. Đó là họ nhện chăng tơ thật (Tetranychidae), họ nhện chăng tơ giả (Tenuipalpidae), họ nhện u sầu Eriophydae và họ Tarsonemidae (Jeppson etal 1975; Meyer 1981) [3]. Từ những năm 1950-1960 các nhà bảo vệ thực vật thực sự quan tâm đến những nhóm nhệnhại bởi vì chúng từ chỗ những vật haị không thường xuyên chúng đã trở thành những vật hại dáng kể và cuối cùng là những vật hại đáng kể và cuối cùng là những vật hại nguy hiểm. Trong nhiều trường hợp chúng quyết định tới kết quả trồng trọt (McMurtry et al 1970;Van de Vrie 1985;Beklotti 1985...)[3] Nhện hại cây thường có kích thích nhỏ (0,1-0,5 mm) rất khó nhìn thấy mắt thường, nhưng lại có ưu thế sinh học rất cao các loài động vật khác như chúng có khả năng thích nghi cao với môi trường có sức sinh sản và sức tăng quần thể cao, chỉ cần 5-7 ngày đã tăng gấp đôi số lượng Tuy không có cánh nhưng chúng bò khá nhanh nhẹn.Cơ thể nhỏ nên chúng dễ Èn náu trong lá, vỏ cây, các kẽ lá ở thân, hoa, quả, chúng dễ dàng bay nhờ gió. Khả năng sinh sản cao nhờ đa dạng sinh học làm cho nhện hại rất nhanh trở nên "trơ " với thuốc hoá học(Helle 1985;Cranham& Helle 1985;Jéppon et al 1975)[3].Nhiều nghiên cứu đã đề cập tới các đặc điểm sinh học, đặc tính gây hại của nhện ảnh hưởng của các yếu tố môi trường nhằm xác định sức tăng quần thể cuả nhện hại (Huffaker et al 1970;Sabelis 1982...)[3]. Vào những năm của thập kỷ 70 Baker đã công bố thấy 90 loài nhện thuộc họ nhện chăng tơ thật Tetranychidae ở Thái Lan .Trong họ này có rất nhiều loài gây hại trên cây bông, dưa chuột, sắn, đậu đỗ, cam chanh, chè, cà chua, hành tỏi...được tìm thấy ở Nhật Bản, Philippin, Thái Lan, Đài Loan, Trung Quốc và Ên độ ...(Eraha 1975)[3] Loài nhện đỏ Tetranychus Cinnabarinus là một trong những loài dịch hại nguy hiểm nhất đối với cây ký chủ, chúng thường phá cây ký chủ cho đến chết (Jeppson et al 1975;Meyer 1981)[7]. Nhện đỏ Tetranychus cinnabarinus là một trong hai loài dịch nguy hiểm nhất trên cây dâu tây Fragaria sp (Rosaceae) ở Nam Phi (Meyer 1981). Nhện đỏ có thể làm giảm năng suất tới 50%(coates, 1974)[15]. Và tác hại của nhện đỏ bắt đầu từ mặt dưới của lá già, khởi điểm là những chấm lá vàng hoặc vàng trắng cạnh gân lá. Khi bị hại nặng toàn bộ lá biến vàng hoặc vàng nâu và rụng.Lúc đó cả lô ruộng chuyển sang màu vàng nâu, hàng trăm con nhện chăng tơ phân tán kín khắp cây và cây chết (Meyer 1981;Jeppson et al 1975; Mc Murtry 1985)[3]. Theo thống kê tại một số nước, thiệt hại đối với cây táo có thể lên tới 50-60%,lê 90%; dâu tây 40-70%...Hay như với cây tre, một loại cây trồng lâm nghiệp chính tại tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc, trong các năm 1970-2002 hai loài nhện hại đã làm giảm năng suất lượng măng 20-40%hoặc nhiều hơn, làm cho nhiều rừng tre trúc bị "cháy" phải huỷ bỏ(Yan và CTV,2000)[2][5] Nhiệt độ thích hợp cho nhện đỏ phát triển là 32°C.Khi độ Èm quá cao kéo dài giai đoạn lột xác, vòng đời dài 10 ngày (Jeppon et al 1975)[18].Meyer (1981)[21] cho rằng nhiệt độ thích hợp cho sự phát triển là 29°C-32°C và Èm độ thấp .Chúng có vòng đời từ 10 đến 14 ngày và có khả năng đẻ 10-150 trứng trong vòng 20-30 ngày (Meyer,1981)[21]. Việc tìm cách phòng trừ nhện hại chủ yếu dựa vào biện pháp hoá học và kết quả là một số loài nhện này có tính kháng thuốc như đối với loài nhện đỏ son (Commonred Spider mite) đã hoàn toàn kháng thuốc gốc lân hữu cơ (Meger 1981) ở Nam Phi. Cùng với thời gian này ở Ên Độ vẫm sử dụng thuốc lưu huỳnh và lưu huỳnh vôi để trừ nhện đỏ. Sau đó lại được thay bằng Tetradifon, Dicofol(Banejee Cramham 1985)[13].Còng theo Banerjee Cranham 1985 tì khi sử dụng một số loài thuốc trừ sâu này để trừ nhện hại thìmạat độ nhện hại này tăng lên .Điều này có thể giải thích rằng thuốc sử dụng không phải là không đem lại hiêu quả mà có thể do khi sử dụng các laọi thuốc này đã tiêu diệt mới cân bằng tự nhiên vốn đã có sẵn do đó số lượng các loài nhện hại tăng lên. Mặt khác nhện hại còn là trung gian truyền các bệnh Virus loại cây như PXY được coi là do nhện Tetranychus Urticaekochi truyền từ cây bị bệnh sang cây khoẻ và dược chứng minh bằng thí nghiệm ở trong nhà kính(Keifer và CTV 1975)[5].Ngoài ra nhện hại còn là trung gian truyền các bệnh khác như Virus đốm vàng lá thuốc lá, khảm thuốc lá .. 3.1 Các nghiên cứu về nhện bắt mồi Ngày nay trên thế giới đã có một số công trình nghiên cứu đề cập tới việc sử dụng nhện bắt mồi trong phòng trừ nhện hại.Những công trình này đã thấy vai trò của nhóm kẻ thù tự nhiên trong việc phòng choóng nhện hại Wysohi 1985;Var lenteren 1983;Var lenteren & Woets 1988 đã đưa ra kết quả của việc sử dụng nhện bắt mồi và côn trùng bắt mồi trong phòng trừ sinh học. Năm 1985 theo Chareau[14] cho biết có 2 loài nhện bắt mồi Phytoseulus sp và Amblyseius sp Đối với biện pháp sinh học, quan trọng nhất là nhện nhỏ thuộc họ Phytoseidae. Phần lớn các loài của họ này là những loài bắt mồi ăn thịt nhện nhỏ hại cây. Một số Ýt dùng các côn trùng nhỏ (bọ phấn, rệp sáp bọ trĩ..) làm con mồi.Trong họ này có nhiều loài là thiên địch quan trọng trong phòng trừ nhện nhỏ hịa cây và côn trùng nhỏ (bọ trĩ ).ở Hoa kỳ đã nghiên cứu sử dụng 6 loài nhện nhỏ bắt mồi ăn thịt và có hơn 50 công ty sản xuất chế phẩm sinh học là nhện nhỏ bắt mồi ăn thịt.Loài nhện nhỏ bắt mồi ăn thịt được sử dụng rộng rãi trong nhân thể là Phytoseiulus Persimilis.Loài này được sử dụng đẻ trừ nhện đỏ Tetralychus urtical trong nhà kính ở Anh, Hà Lan, Liên Xô cũ.Diện tích sử dụng nhện đỏ Phytoseiulus Persimilis để trừ sâu hại là 100 ha (năm 1982) lên 2900 ha (năm 1990)[7]. Năm 1995 loài phytoseiulus persimiis được nuôi rộng rãi trên 15 nướcvới diện tích áp dụng là 5000ha (Vanleteren,1998). Hiện nay một số lãnh thổ như Nhật Bản, Đài Loan đang sản xuất nhện bắt mồi phytoseiulus persimilis để trừ nhện đỏ. Tại Trung Quốc các tỉnh Phúc Kiến, Quảng Tây đang sản xuất loài Amblyseius cucurmeris để trừ nhện đỏ hại cam chanh [5]. Loài nhện bắt mồi Amblyseius sp nằm trong nhóm lorgoensic chúng phổ biến trên cây cam quýt ở vùng ôn đới. ở Quảng Đông Huang(1978) cho rằng loài Amblyseius newsami (Evan) là thiên địch quan trọng nhất đối với nhện đỏ cam chanh [10]. Loài Amblyseius finlandicus chung phân bố và sinh sống trong mùn cưa. Loài Amblyseius deloni Muma là loài có thể sống trên môi trường thức ăn là phấn hoa của cây cẩm quỳ 25 ngày. thời gian nó sống dài nhất là 42 ngày. nếu trong môi trường thức ăn khan hiếm thì nó ăn luôn thịt đồng loại. ở Nhật Bản loài nhện bắt mồi này là thiên địch của nhện Panonychus ulmi nó làm cho loài nhện này gây hại dưới ngưỡng kinh tế (Tanaka and Kasio,1979) [10] 1.4. Các nghiên cứu về đặc điểm sinh thái học của nhện bắt mồi Đặc diểm cấu tạo của nhện bắt mồi đã được các nhà khoa học hàng đầu thế giới về lĩnh vực này mô tả trong cuón “Spider mites”. Nhện bắt mồi có cơ thể dài khoang 500mm, cơ thể chia làm hai phần: phần miệng và phần bụng. Phần bụng có chứa các đôi chân để di chuyển. phía sau mảnh lưng không phân chia trừ các đốt chi và mặt bụng có phân chia thành các mảnh nhỏ. Cả phần lưng và bụng có nhiều lông cứng. Đây cũng là một đặc trưng để phân biệt giữa nhện đực và nhện cái. Mảnh lưng ngực giữa của nhện bắt mồi này có khoảng 20 lông cứng phân bố đều. Phía đuôi có từ 1-2 lông cứng. Mặt sau bụng có 8 lông cứng. Nhện bắt mồi phát triển qua 5 giai đoạn: Trứng, tuổi1, tuổi 2, tuổi 3 và trưởng thành. Ở giai đoạn tuổi 1 của nhện bắt mồi có 3 đôi chân còn tất cả các giai đoạn còn lại có 4 đôi chân. Đối với trưởng thành con cái có cơ thể to hơn con đực. Phần bông con cái tròn to và hậu môn hưi cong hơn so với con đực. ở giai đoạn tuổi 3 con đực và con cái phân biệt ở sự hoá cứng của mặt bụng và bộ phận chân kìm (Kzantz, 1978; Dossl.1950; âmno and Chant,1978)[10]. Mặt bụng của nhện bắt mồi phân chia thành những mảnh nhỏ và liên kết giữa các mảnh này là những phần thịt chắc nhỏ. Đặc điểm này rất rõ ở gần đầu bụng và trước vùng mông. Thực chất của vùng thịt này có tác dụng giúp cho nước lưu thông chạy suốt từ vùng miệng đến mặt bụng (Wernz and Kzantz,1970)[10] . Con đực có khả năng sống sót trong điều kiệótmoi trường Ýt thức ănhơn con cái. Con cái có khả năng săn mồi và tấn công con mồi mạnh hơn con đực (Foelic,1982). McMurtry et al 1976 đã công bố kết quả nhgiên cứu so sánh về điều sống của loài Amblyseius potentilla Garman thu thập ở vườn táo ỏ Hà Lan và cũng loài Amblyseius potentilla thu thập ở vườn quýt của ý. Kết quả là ở Hà Lan nhên bắt mồi này có một thời kỳ ngừng dục còn ử ý nhện bắt mồi này không có thời gian ngừng dục. Nh­ vậy sự khác nhau về điều sống đã làm thay đổi một số đặc điểm sinh học của nhện bắt mồi, đặc biệt là độ Èm. Độ Èm liên quan trực tiếp tới tỷ lệ nử của trứng (McMurtry and Scriven,1965…)[3]. Nếu điều kiện độ Èm là 100% thì tỷ lệ nở của trứng và sự sống của nhện non là tương đối khó khăntỷ lệ chết tương đối cao (Sabelis.1981)[22]. II. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC 2.1. Các nghiên cứu về nhện hại Ở nước ta từ những năm 50 nhện đỏ đã trở thành loài dịch hại quan trọng trên chè (Phú Hộ – Vĩnh Phú), cam (Bố Hạ- Hà Bắc) và ở (Xuân Mai- Hà Tây). Đặc biệt là khi sử dung thuốc trừ sâu liên tục lại bị nhện đỏ gây hại nặng hơn. Nhện đỏ Tetranychus cinnabarinus được ghi nhận hại trên sắn (Trần Ngọc Ngoan,1983). Theo ý kiến của Lê Trường và Nguyễn Văn Viên tại Vĩnh Phú nhện đỏ trong những năm 78-79 đã làm cho hàng trăm ha sắn bị rụng vào tháng 7-8 [3]. Nhện đỏ Tetranychus cinnabarinus đuợc ghi nhận hại trên hoa hồng và gây hại nặng vào tháng 3 và tháng 4(Nguyễn Thị Kim Oanh, 2003)[8]. Sù gia tăng của quần thể nhện hại cây phụ thuộc nhiều vào khả năng thích ứng của loài đối với sự thay đổi của môi trương sống. Rất nhiều nghiên cứu đã xác định thời gian các giai doạn phát triểncủa nhện hại cây. Khi nhiệt độ xuống thấp vào mùa đông hay lên cao vào hè có thể gây chết hàng loạt. Tỷ lệ trứng nở qua đông phụ thuộc vào nhiệt độ mùa xuân. Sự phát triển gây hại mạnh mẽ của đại đa số nhện chăng tơ là ở trong nhiệt độ cao kèm theo khô hạn. Độ Èm cao kìm hãm sự phát triển của quần thể chúng bị chết nhiều trong quá trình lột xác. Lượng mưa cũng ảnh hưởng đáng kể đến số lượng quần thể nhệ hại vào các tháng mưa phùn mạng tơ dẫn nước và giữ ngập nước nơi cư trú của nhện làm cho phần lớn trứng bị ngâm trong nước ảnh hưởng tới khả năng nở trứng(Nguyễn Văn Đĩnh 1994)[3]. Nếu mưa lớn nhện đỏ sẽ bị rửa trôi dẫn đến chết hàng loạt Khi thâm canh cao, trồng thuần cây bông chè, cam chanh,…nhện hại từ những loài thứ yếu trở thành phổ biến và trong nhiều trường hợp trở thành loài nguy hiểm nhất (Nguyễn Văn Đĩnh 1994; Nguyễn Thái Thắng 2001)[5]. Ngoài ra còn giống, kẻ thù tự nhiên làm cho mật độ nhện hại thay đổi đáng kể Các nghiên cứu về đặc tính phát triển gây hại của nhện hại thành phần các loại nhện hại cây trồng, đặc điểm sinh thái học của một số loài nhện hại cây mới chỉ có tài liệu của Nguyễn Văn Đĩnh là đầy đủ nhất. Các nghiên cứu này đã góp phần đáng kể trong công tác phòng chống nhện hại cây trồng trong chương trình phòng trừ tổng hợp IPM. 2.2.Các nghiên cứu về nhện bắt mồi ở nước ta các công trình nghiên cứu về nhện hại còn Ýt đặc biệt là nhóm nhện bắt mồi lại càng Ýt, mới chỉ có một số công trình nghiên cứu về nhện lớn bắt mồi trên lúa.Theo Nguyễn Văn huỳnh (1977) thì nhện bắt mồi pardoso Psedoannulata là thiên địch của rầy nâu hại lúa. Tại viện bảo vệ thực vật chèm-Từ Liêm cũng ghi nhận nhện bắt mồi có vai trò quan trọng trong việc trừ rầy nâu hại lúa[7]. Năm 1994 khi nghiên cứu về thiên địch của loài nhện hại cây trồng tác giả Nguyễn Văn Đĩnh [3]cho thấy loài nhện bắt mồi Anblyseius sp là loài thiên địch có diễn biến mật độ tăng tỷ lệ với diễn biến nhện hại.Loài Anblyseius sp có sức tấn công con mồi mạnh. Tác giả còn cho thấy Amblyseius sp là kẻ thù tự nhiên khá lý tưởng và nó phù hợp với yêu cầu cần thiết củ loài thiên địch đó là có sức ăn vật chủ cao, có khả năng sống được trong điều kiện bất lợi, có nơi ở và điều kiện sinh thái tương tự như vật chủ Đặc điểm chung của nhóm nhện bắt mồi là đều thích ăn pha trứng của nhện hại như loài Anblyseius idaeus và Anblyseius anconynus là loài ở giai đoạn đẻ trứng có sức ăn cao nhất, nhện non tuổi 1 không ăn , nhện đưc và nhện cái không được thụ tinh nó ăn từ 1,8-2,4 trứng (Nguyễn Văn Đĩnh 1994)[3]. Hai loài nhện này có hệ số nhân và tỷ lệ tăng tự nhiên cao, vòng đời ngắn khoảng 7 ngày một vòng đời. Nhiệt độ thích hợp cho chúng phát triển là ở nhiệt độ thích hợp là ở điều kiện từ 258C-288C và Èm độ 80-85% Còng theo Nguyễn Văn Đĩnh (1994)[3] loài nhện bắt mồi Phytoseiulus Persimilis được nhập nội và nhân thả thành công tại Việt Nam. Loài nhện bắt mồi này khi nuôi tại trường đại học Nông Nghiệp I - Hà Nội cũng có tỷ lệ tăng tự nhiên rất cao,r>0,3 và có sức ăn nhện đỏ hại cao, hoàn toàn có thể khống chế được nhện đỏ gây hại Phần thứ ba ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1.Địa điểm nghiên cứu Nghiên cứu khả năng nhân nuôi nhện bắt mồi tiến hành tại bộ môn côn trùng khoa Nông Học trường đại học Nông Nghiệp I- Hà Nội Điều tra mật độ nhện đỏ và nhện bắt mồi được tiến hành tại trường đại học Nông Nghiệp I- Hà Nội và tại xã Đặng Xá-Trâu Quỳ-Gia Lâm-Hà Nội 3.2.Thời gian nghiên cứu Đề tài được tiến hành bắt đầu từ ngày 1/7/2003 kết thúc vào ngày 25/12/2003 3.3 Vật liệu nghiên cứu -Kéo -Kính lúp cầm tay, kính lúp điện tử -Hộp nhựa, hộp petri, bông thấm nước, giấy hút ẩm,bút lông -Tủ định ôn -Hạt giống cây rau đay và cây đậu côve -Loài nhện Tetranychus Cinnabarinus Kochs -Loài nhện bắt mồi Amblyseius sp 3.4. Phương pháp nghiên cứu 3.4.1. Phương pháp điều tra Trên từng loại cây trồng (rau đay,đậu đỗ,..) tiến hành điều tra định kỳ 7-10 ngày một lần theo phương pháp 5 điểm chéo góc, mỗi điểm điều tra trên 10 cây liên tiếp, mỗi cây điều tra 1 lá hái lá của từng điểm cho vào túi nilông riêng rẽ, buộc kín đem về phòng thí nghiệm Công thức tính Mật độ (con/lá) = Tổng sè con điều tra Tổng số lá điều tra Trong quá trình điều tra đẻ đánh giá các mức độ xuất hiện gây ra của nhện đỏ Tetranychus Cinnabarinus như sau: 0: không xuất hiện +. có xuất hiện nhưng gây hịa không đáng kể (dưới 1 con/lá hoặc 1 con/mẫu cành thân dài 5-7 cm). ++. Xuất hiện mức trung bình, gây hại trung bình (1-4 con/lá) hoặc mẫu cành thân dài (5-7 cm). +++. Xuất hiện nhiều, gây hại nặng đến rất nặng (trên 4 con /lá hoặc mẫu thân dài 5-7cm) 3.4.2 Nhân nuôi nhện bắt mồi Amblyseius bằng nhện đỏ Tetranychus cinnabarinus 3.4.2.1. Để thực hiện yêu cầu này chúng tôi tiến hành nhan nuôi nhện bắt mồi bằng cách dùng bút lông chuyển 20 nhện cái trưởng từ ngoài đồng ruộng sang đĩa lá rau đay có nhiều nhện đỏ và trứng của nhện đỏ cho đẻ trứng trong thời gian 3 đến 4 giờ.Sau đó chuyển từng trứng của nhẹn bắt mồi sang đĩa rau đay (232 cm ) có đủ pha phát triển của nhện đỏ đĩa lá được đặt úp trên bông Èm trong đĩa petri và được thay 3 ngày 1 lần. Theo dõi được tiến hành 2 lần 1ngày, nhờ quá trình lột xác mà ta biết được nhện chuyển tuổi.Trước khi lột xác hoá trưởng thành 2 nhện dực được đưa vào đĩa lá để ghép đôi giao phối.Sau khi nhện đẻ trứng đầu tiên theo dõi được tiến hành mỗi ngày một lần cho tới khi nhện chét sinh lý. Hàng ngày chuyển toàn bộ số trứng đẻ ngày hôm trước nhằm tránh ảnh hưởng của mật độ trứng tới khi quá trình sinh sản. Lấy trứng được đẻ từ ngày thứ hai đến ngày thứ bảy nuôi riêng rẽ cho đến khi hoá trưởng thành để tính tỷ lệ giới tính .Thí nghiệm được tiến hành ở nhiệt độ thường,258C và 300C và nhiệt độ phòng thí nghiệm. 3.4.2.2. Thí nghiệm đánh giá tỷ lệ nở của trứng Trứng của nhện bắt mồi được đẻ trong 24h trong tủ nhiệt Èm độ cố định trên lá đậu với nhện vật mồi được điểm toàn bộ nhện bắt mồi và lá đậuvào tủ nhiệt Èm độ cố định 4 ngày sau vỏ trứng được đếm tỷ mỷ dưới kính lúp điện tử. Vỏ trứng dễ phát hiện
Tài liệu liên quan