Đề tài Những mặt hạn chế của hệ thống luật chơi trong nền chính trị quốc tế đương đại

Tương tự như mối quan hệ giữa các cá nhân trong xã hội được điều chỉnh bởi các quy chuẩn và giá trị, quan hệ của các quốc gia với các thực thể khác trong hệ thống quốc tế bị chi phối bởi một mạng lưới những sự cho phép và ép buộc. Người ta gọi nó là “Luật chơi”. Đây là những nguyên tắc được tất cả các quốc gia khi tham gia vào đời sống quốc tế thừa nhận và cam kết tuân thủ. Xuất phát từ những nguyên tắc đã được quy định trong luật quốc tế, thời gian trôi đi cùng với sự thay đổi không ngừng của tình hình quốc tế, hệ thống luật chơi ngày càng được mở rộng và hoàn thiện. Nó nắm một vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh cách hành xử của các quốc gia khi tham gia vào đời sống quốc tế, từ đó có thể giải quyết ổn thỏa cũng như hạn chế các xung đột, tăng cường hợp tác giữa các quốc gia với nhau. Nền chính trị quốc tế hiện nay vận hành thông qua một hệ thống luật chơi đặc thù, được hình thành trong suốt một chặng đường lịch sử lâu dài của loài người. Trong quá trình tương tác giữa các quốc gia hiện nay, các cường quốc hàng đầu luôn muốn nắm lấy cái quyền quyết định luật chơi và bắt các quốc gia “chiếu dưới” phải thực hiện theo. Chính vì vậy, bên cạnh những mặt tích cực mà hệ thống luật chơi hiện nay mang lại vẫn còn tồn tại nhiều mặt hạn chế chưa thể khắc phục được. Trong bài khóa luận này em xin được đề cập đến những mặt hạn chế này, bên cạnh đó em cũng nói về một số giải pháp và đánh giá.

doc28 trang | Chia sẻ: hongden | Lượt xem: 1437 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những mặt hạn chế của hệ thống luật chơi trong nền chính trị quốc tế đương đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ VÀ NGOẠI GIAO ----------------- KHÓA LUẬN BỘ MÔN CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ HIỆN ĐẠI ĐỀ TÀI: NHỮNG MẶT HẠN CHẾ CỦA HỆ THỐNG LUẬT CHƠI TRONG NỀN CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ ĐƯƠNG ĐẠI Giảng viên hướng dẫn : TS.Đỗ Sơn Hải Sinh viên thực hiện : Nguyễn Sinh Hoàng Lớp : CT38H - 0104 Hà Nội, tháng 12 năm 2014 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Tương tự như mối quan hệ giữa các cá nhân trong xã hội được điều chỉnh bởi các quy chuẩn và giá trị, quan hệ của các quốc gia với các thực thể khác trong hệ thống quốc tế bị chi phối bởi một mạng lưới những sự cho phép và ép buộc. Người ta gọi nó là “Luật chơi”. Đây là những nguyên tắc được tất cả các quốc gia khi tham gia vào đời sống quốc tế thừa nhận và cam kết tuân thủ. Xuất phát từ những nguyên tắc đã được quy định trong luật quốc tế, thời gian trôi đi cùng với sự thay đổi không ngừng của tình hình quốc tế, hệ thống luật chơi ngày càng được mở rộng và hoàn thiện. Nó nắm một vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh cách hành xử của các quốc gia khi tham gia vào đời sống quốc tế, từ đó có thể giải quyết ổn thỏa cũng như hạn chế các xung đột, tăng cường hợp tác giữa các quốc gia với nhau. Nền chính trị quốc tế hiện nay vận hành thông qua một hệ thống luật chơi đặc thù, được hình thành trong suốt một chặng đường lịch sử lâu dài của loài người. Trong quá trình tương tác giữa các quốc gia hiện nay, các cường quốc hàng đầu luôn muốn nắm lấy cái quyền quyết định luật chơi và bắt các quốc gia “chiếu dưới” phải thực hiện theo. Chính vì vậy, bên cạnh những mặt tích cực mà hệ thống luật chơi hiện nay mang lại vẫn còn tồn tại nhiều mặt hạn chế chưa thể khắc phục được. Trong bài khóa luận này em xin được đề cập đến những mặt hạn chế này, bên cạnh đó em cũng nói về một số giải pháp và đánh giá. Do kiến thức của em còn hạn hẹp và nguồn tài liệu tương đối ít nên bài khoá luận này khó tránh khỏi những thiếu sót, Kính mong nhận được những ý kiến nhận xét và đóng góp của thầy để bài khóa luận của em được đầy đủ và hoàn thiện hơn. Em tìm hiểu bài khóa luận này theo 2 nội dung lớn như sau: CHƯƠNG I: Sự hình thành luật chơi CHƯƠNG II: Những mặt hạn chế của hệ thống Luật chơi trong nền Chính trị quốc tế đương đại NỘI DUNG TÌM HIỂU CHƯƠNG I SỰ HÌNH THÀNH LUẬT CHƠI 1. Vai trò của nước lớn Người xưa có câu “Mạnh vì gạo, bạo vì tiền” để nói về những người dùng sức mạnh về kinh tế vật chất để đạt được mục đích, hay nói cách khác là xoay vãn tình thế sao cho có lợi cho mình nhất. Con người, một cá nhân trong xã hội vẫn luôn thừa nhận điều này như một nguyên tắc bất di bất dịch. Và nhiều con người tạo nên xã hội, xã hội sẽ cấu thành nên một quốc gia, dường như cái nguyên tắc ấy để điều chỉnh mối quan hệ giữa người với người bỗng nhiên lại trở nên vô cùng hợp lý khi áp dụng vào môi trường chính trị quốc tế mà ở đó mối quan hệ nâng lên một mức cao hơn ở cấp độ quốc gia. Từ xưa đến nay, vai trò của những kẻ giàu có trong xã hội luôn được thừa nhận và chiếm một vị trí quan trọng trong quá trình vận hành xã hội, và tương tự như vậy, xã hội quốc tế cũng luôn giành một sự quan tâm đặc biệt đến các nước lớn, mà có thể nói một cách bạo miệng hơn là chính trường quốc tế là một sân khấu lớn trong đó các nước lớn thủ các vai chính và các nước nhỏ chỉ góp những vai phụ hay diễn viên quần chúng. Chính các nước lớn mới là nhân tố tạo ra các luật chơi của nền chính trị thế giới. Quá trình tương tác giữa họ trong sự giao lưu toàn cầu đã thiết lập nên những luật chơi mà bất kể quốc gia nào khác, dù lớn hay nhỏ, phát triển hay đang phát triển đều phải thừa nhận và hành động theo. Chủ nghĩa hiện thực ra đời sau chiến tranh thế giới thứ hai với tư cách là một mô hình lý thuyết hoàn chỉnh. Tư tưởng của các nhà hiện thực đề cao vai trò của các quốc gia, coi quốc gia là thực thể chính yếu nhất của quan hệ quốc tế. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, trong khi các quốc gia như Nga, Nhật Bản, Tây Âu, bị tàn phá một cách nặng nề thì thế giới đã chứng kiến sự thống trị tuyệt đối của Mỹ với xu hướng bành trướng và áp đặt. Chủ nghĩa hiện thực với cái cốt lõi bản chất từ hiện thực khách quan mà rút ra các nội dung tư tưởng có lẽ đã bị ảnh hưởng sâu sắc bởi thực tế này. Đối với họ, Mỹ là siêu cường duy nhất, có sức mạnh vượt trội và quyết định hầu như toàn bộ các vấn đề chính trị quốc tế. Chính Mỹ là nước lớn duy nhất có khả năng hình thành cũng như áp đặt các luật chơi trong suốt thời kỳ này. Đến cuối những năm 70 của thế kỷ XX đã xuất hiện một trào lưu mới, đó chính là chủ nghĩa hiện thực mới được đánh dấu bằng việc phát hành cuốn sách của nhà lý luận người Mỹ K. Waltz "Lý luận chính trị quốc tế" vào 1979. Nhà nghiên cứu này cho rằng chủ nghĩa hiện thực mới đã "chỉnh sửa nội dung thiếu chặt chẽ và rời rạc của tư tưởng hiện thực chủ nghĩa kinh điển thành một lý thuyết cân đối”. Có lẽ sự ra đời của chủ nghĩa này là hoàn toàn có thể hiểu được, đơn giản bởi vì tình hình chính trị quốc tế luôn biến động không ngừng, và các nhà hiện thực mới với cái nhìn sát sao thực tế sẽ không bao giờ bằng lòng với những tư tưởng trước đây của các nhà hiện thực chủ nghĩa kinh điển. Đối với họ giờ đây, Mỹ tuy vẫn là siêu cường số 1 trên thế giới, nhưng rõ ràng nước Mỹ không còn mạnh như trước nữa, tầm ảnh hưởng của Mỹ cũng không còn bao quát rộng lớn như trước nữa. Cùng với sự nổi lên của các quốc gia khác như Nhật Bản, Tây Âu, Nga, Trung Quốc,.. vai trò siêu cường của Mỹ đang ngày càng bị thách thức. Trật tự thế giới đã thay đổi, Mỹ không còn là quốc gia duy nhất có quyền định hình luật chơi nữa mà thay vào đó là sự tham gia ngày càng nhiều của các nước lớn khác kể trên. Nhìn chung, luật chơi chính là kết qủa của sự tương tác giữa các nước lớn này. Quy trình hình thành một luật chơi trong nền chính trị quốc tế trải qua các giai đoạn sau. Đầu tiên, xuất hiện nước lớn với xu hướng bành trướng và áp đặt. Và để thực hiện chính sách này của mình nước lớn một đã chủ động đưa ra những đề xuất, tất nhiên là những đề xuất này phải phục vụ cho lợi ích quốc gia của nước lớn một này. Trong quan hệ quốc tế, rất ít khi chúng ta bắt gặp một sự hài hòa về lợi ích quốc gia giữa các nước, đặc biệt là những nước lớn, lợi ích của quốc gia này đôi khi lại là hiểm họa tai hại đối với một quốc gia khác. Bởi vậy, sau khi nước lớn một đưa ra đề xuất của họ, mặc nhiên sẽ xuất hiện một nước lớn hai đưa ra phản đề xuất. Va chạm này sẽ giải quyết như thế nào? Xung đột và hợp tác luôn là hai mặt của quan hệ quốc tế. Và để giải quyết va chạm này, hai nước lớn một và hai có thể dùng các biện pháp ngoại giao hoặc chiến tranh. Kết quả của việc giải quyết va chạm này chính là “Luật chơi”. Chúng ta có thể cụ thể hóa quá trình hình thành luật chơi theo sơ đồ sau: Nước lớn 1 Đề xuất Phục vụ LIQG Nước lớn 2 Phản đề xuất Va chạm phải giải quyết bằng ngoại giao hoặc chiến tranh Kết quả của việc giải quyết va chạm là “luật chơi” Sơ đồ quá trình hình thành luật chơi 2. Xung đột hay hợp tác, lựa chọn nào đây? Quá trình giải quyết va chạm giữa các nước lớn luôn là giai đoạn quan trọng nhất trong quá trình hình thành luật chơi. Có thể nói luật chơi có công bằng hay không phụ thuộc phần lớn vào lựa chọn giải pháp giải quyết va chạm của các nước lớn. Ở đây, đó chính là hợp tác – đàm phán thương lượng và xung đột – chiến tranh. Nếu như người ta nhắc đến giải pháp đàm phán thương lượng như một trò chơi đôi bên cùng có lợi (win-win game) thì chiến tranh đồng nghĩa với sự mất mát, tổn thất nặng nề, đôi bên cùng thất bại (lose-lose game). Tuy nhiên một khi chiến tranh đã nổ ra thì nhất định sẽ phải có kẻ thắng người thua, kẻ được người mất, và đương nhiên là bên thắng trận sẽ có quyền quyết định tất cả, áp đặt đối với bên thua trận, đây cũng chính là mặt hạn chế của chiến tranh. Từ bản chất này nghe có vẻ một luật chơi được hình thành thông qua con đường thương lượng đàm phán sẽ có nhiều điểm mạnh và khó có thể tìm thấy bất kỳ một hạn chế nào trong đó so với một luật chơi được hình thành bằng chiến tranh. Tuy nhiên chúng ta cũng cần phải suy xét xem liệu rằng quá trình đàm phán thương lượng đó thực sự đã công bằng? Và những gì mà cả hai bên nhận được sau đàm phán thực sự đã phù hợp và đúng đắn. Tóm lại, dù có thông qua con đường hợp tác hay chiến tranh để tạo ra luật chơi thì ngay chính trong bản thân luật chơi này cũng chứa đựng những mặt hạn chế khó tránh khỏi. CHƯƠNG II NHỮNG MẶT HẠN CHẾ CỦA HỆ THỐNG LUẬT CHƠI TRONG NỀN CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ ĐƯƠNG ĐẠI 1. Sự bất bình đẳng của các luật chơi “Quyền lực vẫn là nhân tố quyết định nội dung của luật chơi” Xã hội phân biệt kẻ giàu người nghèo cũng như chính trị quốc tế có nước lớn nước nhỏ. Trong xã hội đã có kẻ giàu người nghèo chứng tỏ đã có sự phân biệt giai cấp và sự bất bình đẳng diễn ra như một hậu quả tất yếu. Tương tự như vậy, trong quan hệ quốc tế các nước lớn với sức mạnh vượt trội của mình luôn có xu hướng bành trướng, áp đặt các quốc gia nhỏ bé, yếu kém. Quá trình tương tác giữa các quốc gia này hình thành nên các luật chơi có lợi cho họ nhưng lại vô cùng bất lợi đối với các nước nhỏ. Điều này tạo ra sự bất bình đẳng trong các luật chơi. Chúng ta có thể nhận thấy rằng hiện nay quyền lực vẫn là nhân tố quyết định nội dung của luật chơi, Ai có quyền lực thì người đó có quyền quyết định. Quốc gia nào quyền lực càng mạnh thì càng chi phối nhiều hơn đến các công việc của đời sống quốc tế. Các nhà hiện thực chủ nghĩa kinh điển quan niệm rằng trong đời sống chính trị quốc tế không phải tất cả các quốc gia đều bình đẳng như nhau mà chỉ có các nước lớn là có quyền quyết định. Như H. Morgenthau nhấn mạnh: “Không phải tất cả các quốc gia đều tham dự vào nền chính trị quốc tế như nhau. Thái độ của quốc gia đối với chính trị quốc tế là một phẩm chất năng động, Nó thay đổi cùng với sự thay đổi sức mạnh của quốc gia mà có thể đưa quốc gia lên tuyến đầu của chính trị quốc tế, cũng có thể loại bỏ khả năng hành động tích cực trên trường quốc tế của quốc gia đó” “Quan điểm chủ nghĩa hiện thực về quan hệ quốc tế”, Vũ Thế Hiệp, Học Viện Ngoại Giao Việt Nam . Tiếp theo Thusydides, những người hiện thực chủ nghĩa cho rằng những quốc gia mạnh làm được những gì mà họ có thể làm, còn các quốc gia yếu thì làm được những gì mà các quốc gia mạnh cho phép họ làm. Mọi trạng thái của quan hệ quốc tế đều lệ thuộc vào mối quan hệ tương tác giữa một số nhỏ các cường quốc. Khi ký kết các liên minh và đồng minh với nhau, khi tham gia vào chiến tranh hoặc các cuộc xung đột, các cường quốc có thể hy sinh vị trí và lợi ích của các nước nhỏ. Theo họ, an ninh quốc tế và trật tự thế giới tuỳ thuộc vào các nước lớn, sẽ được duy trì nếu họ thỏa thuận được với nhau về lợi ích và sẽ bị phá vỡ nếu các thỏa thuận này không đạt được. Trước đây, chúng ta đã chứng kiến sức mạnh chi phối này của Mỹ, sau đó là đến Mỹ và Liên Xô trong chiến tranh lạnh, và giờ đây là Mỹ, Nga và một số nước lớn khác nữa như Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Âu, Ấn Độ. Chính các quốc gia này là những nước lớn nắm giữ quyền lực và từ đó chi phối quá trình hình thành các luật chơi áp dụng cho phần còn lại của thế giới. Hẳn là quá bất bất bình đẳng khi diễn ra thực tế là số đông phải phục vụ lợi ích của số ít và làm theo những điều mà phần số ít đó đặt ra, Chúng ta sẽ phân tích qua một số ví dụ để hiểu rõ hơn mặt hạn chế này: Ví dụ thứ nhất là Nghị quyết 1718 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc trừng phạt CHDCND Triều Tiên. Liệu rằng đây có phải là quyết định của tất cả? Liên Hợp Quốc, với 193 thành viên, hiện đang là tổ chức có số lượng thành viên chiếm hầu hết các quốc gia trên thế giới. Các nhà sáng lập Liên Hợp Quốc đã thành lập ra Hội Đồng Bảo An bao gồm 5 thành viên thường trực là Mỹ, Nga, Trung Quốc, Anh và Pháp và một nhóm luân phiên các thành viên không thường trực. Hội đồng bảo an có thể được nhìn nhận như một sự hòa nhập khái niệm cân bằng quyền lực thế kỷ 19 và khuôn khổ an ninh tập thể của Liên Hợp Quốc. Với vai trò duy trì hòa bình và an ninh thế giới, Hội Đồng Bảo An có thể thông qua các nghị quyết mang tính ràng buộc theo quy định tại chương VII của hiến chương Liên Hợp Quốc. Nếu năm thành viên thường trực không đồng ý thông qua nghị quyết, mỗi thành viên này có một quyền phủ quyết. Có thể nói quyền phủ quyết có trọng lượng rất lớn, được coi là đặc quyền của chỉ riêng 5 cường quốc này. Bởi vì chỉ với một quyền phủ quyết được đưa ra đồng nghĩa với việc nghị quyết ấy không được thông qua. Về nghị quyết 1718, đây là nghị quyết do Mỹ đề xuất nhằm trừng phạt CHDCND Triều Tiên sau khi nước này tiến hành vụ thử hạt nhân lần thứ nhất năm 2005. Việc thông qua nghị quyết này hoàn toàn thuộc thẩm quyền quyết định của 15 thành viên Hội Đồng Bảo An, mà cụ thể hơn là phụ thuộc vào ý chí của năm thành viên thường trực. Nhìn vào quốc gia đề xuất nghị quyết và số lượng các quốc gia tham gia bỏ phiếu chúng ta có thể nhận thấy rằng đây rõ ràng không phải là một quyết định của tất cả. Thậm chí quá trình thông qua nghị quyết này cũng gặp rất nhiều khó khăn do có sự khác biệt về lợi ích giữa năm thành viên thường trực. Việc bỏ phiếu nghị quyết 1718 bị trì hoãn xuất phát từ những lo ngại của Nga và Trung Quốc. Đại sứ Trung Quốc tại Liên Hợp Quốc Vương Quang Á bình luận, nghị quyết là một "câu trả lời thích hợp", nhưng ông kêu gọi các nước thành viên Liên Hợp Quốc giữ thái độ thận trọng và có trách nhiệm, đồng thời kiềm chế những bước đi mang tính khiêu khích. Trước đó, Bộ trưởng Quốc phòng Nga Sergei Ivanov đã khẳng định rằng nghị quyết "không nên nhắc đến việc sử dụng vũ lực và không được chống lại trực tiếp người dân Bắc Triều Tiên" . Với mong muốn nghị quyết được thông qua, Washington đã phải sửa đổi văn bản này để nhận được sự chấp thuận của Nga và Trung Quốc. Sửa đổi quan trọng nhất là việc xóa bỏ nội dung đề cập đến hành động vũ lực chống lại CHDCND Triều Tiên. Đề nghị cấm vận hoàn toàn về quân sự đối với Bắc Triều Tiên như ban đầu cũng được sửa lại, bằng cách nêu rõ những mặt hàng cụ thể nước này bị cấm nhập khẩu như xe tăng, trực thăng và tên lửa. Nghị quyết 1718 trừng phạt CHDCND Triều Tiên Yêu cầu Bắc Triều Tiên hủy toàn bộ các loại vũ khí hạt nhân, vũ khí hủy diệt và tên lửa đạn đạo. Các nước ngăn cấm việc buôn bán hoặc vận chuyển nguyên vật liệu liên quan đến chương trình vũ khí hủy diệt với Bình Nhưỡng cùng những thiết bị quân sự cỡ lớn như xe tăng, tên lửa và trực thăng. Yêu cầu các nước phong tỏa những nguồn tài chính ở nước ngoài thuộc sở hữu của những cá nhân và công ty liên quan đến chương trình hạt nhân và tên lửa đạn đạo của Bắc Triều Tiên. Cho phép các nước kiểm tra hàng hóa xuất nhập khẩu từ Bắc Triều Tiên để phát hiện các loại vũ khí hủy diệt. Nghị quyết không ủng hộ đe dọa về quân sự Kêu gọi Bình Nhưỡng quay lại vòng đàm phán 6 bên vô điều kiện. Nghị quyết 1718 trừng phạt CHDCND Triều Tiên Qua đó chúng ta thấy được cơ chế thông qua nghị quyết tại Hội Đồng Bảo An Liên Hợp Quốc còn quá nhiều bất bình đẳng khi trao thẩm quyền quyết định quá lớn cho năm thành viên thường trực. Bất cứ một nghị quyết nào có được thông qua hay không không phụ thuộc vào ý chí của 193 quốc gia thành viên mà phụ thuộc vào ý chí của chỉ năm thành viên thường trực này. Rõ ràng quyết định tại Hội đồng Bảo an chưa bao giờ và sẽ không bao giờ là quyết định của tất cả. Ví dụ thứ hai là về Tổ chức thương mại thế giới WTO. Liệu các quy định của WTO có sự nhất trí cao của mọi nước thành viên? WTO được thành lập và đi vào hoạt động từ ngày 01/01/1995. Tính đến ngày 26/06/2014, WTO có 160 thành viên chính thức. Các Hiệp định của WTO rất dài và phức tạp vì đó là những văn bản pháp lý qui định rất nhiều lĩnh vực hoạt động như: nông nghiệp, hàng dệt may, hoạt động ngân hàng, viễn thông, thị trường công, tiêu chuẩn công nghiệp, tính an toàn của sản phẩm, qui định liên quan đến an toàn vệ sinh thực phẩm, sở hữu trí tuệ, và còn rất nhiều lĩnh vực khác nữa Tuy nhiên, có một số nguyên tắc đơn giản và cơ bản làm kim chỉ nam cho tất cả các lĩnh vực này, và trở thành nền tảng của hệ thống thương mại đa biên, đó là: Thương mại không phân biệt đối xử (thông qua nguyên tắc tối huệ quốc và nguyên tắc đối xử quốc gia). Thương mại ngày càng tự do hơn (bằng con đường đàm phán). Nguyên tắc ổn định trong hoạt động thương mại, kinh doanh quốc tế Nguyên tắc này còn có tên gọi là “có thể dự báo được các rủi ro thương mại”.Xem thêm: WTO, “Understanding the WTO”, Geneva 2008; tr.11-12 . Nguyên tắc tăng cường cạnh tranh lành mạnh. Nguyên tắc giành điều kiện thuận lợi hơn cho các nước đang phát triển và chậm phát triển và khuyến khích các nước đó phát triển và cải cách kinh tế. Vậy cách thức các quốc gia thành viên WTO thỏa thuận để thiết lập nên các nguyên tắc này là như thế nào? Phải chăng trong quá trình ấy có sự tham gia của tất cả các nước thành viên, đạt được sự nhất trí cao nhất từ tất cả các nước thành viên? Đó là những câu hỏi mà các câu trả lời của nó thể hiện một cách sâu sắc nhất hạn chế của chính hệ thống này. Thông thường, các nguyên tắc thương mại toàn cầu được hình thành theo một quá trình như sau: Một cuộc gặp gỡ chiến lược giữa hai nền kinh tế chủ chốt có thể diễn ra tại một địa điểm không chính thức, ví dụ như tại một nhà hàng. Tại cuộc gặp này, hai bên sẽ đưa ra những đề xuất cũng như những phản đề xuất cho đến khi đạt được một thỏa thuận. Tiếp theo, một bản dự thảo hiệp định sẽ được chuyển tới những nền kinh tế chính khác. Các nền kinh tế này đưa ra những quan điểm, đánh giá và tiến đến thiết lập một thỏa thuận. Bản dự thảo hiệp ước có thể tiếp tục được chuyển đến một nhóm lớn hơn các nền kinh tế khác. Cho đến khi bản hiệp ước đạt được sự hài hòa về lợi ích giữa các nước thì sẽ không cần thiết phải có những sự tham gia góp ý thêm nữa. Sử dụng ảnh hưởng của các nước lớn, ban thư ký có thể gây áp lực buộc các nước nhỏ phải chấp nhận hiệp định. Cuối cùng, hiệp định đã được thương lượng này sẽ được đưa ra bỏ phiếu tại một cuộc họp chính thức, nơi mà gần như chắc chắn sẽ được thông qua. Thông qua quá trình trên chúng ta có thể tự tìm ra cho mình các câu trả lời cho những câu hỏi trên. Rõ ràng quá trình thiết lập các nguyên tắc của WTO tỏ ra thiếu minh bạch và lắm bất công. Quyết định cuối cùng luôn luôn thuộc về các nước lớn có nền kinh tế nắm một vai trò chủ chốt trong tổ chức. Dường như các nước nhỏ không mấy ảnh hưởng đối với quá trình này. Theo như một quan chức của WTO thì điều duy nhất mà các nước nhỏ có thể làm là đóng vai trò như một “kẻ chuyên gây phiền toái” , còn tất cả các công việc của WTO đều được quyết định một cách không chính thức bởi các nước lớn. Tóm lại, các cơ chế, thể chế quốc tế hiện nay đang hoạt động cùng với những luật chơi được thiết lập chủ yếu bởi các nước lớn, chính điều này đã tạo ra sự bất bình đẳng trong chính bản thân các luật chơi này. Một nguyên tắc được thừa nhận trong hầu hết các văn bản luật quốc tế hiện nay là mọi người đều bình đẳng trước luật, nhưng nguyên tắc đó chỉ là trên giấy tờ, còn ngoài đời thực thì luật chưa bao giờ bình đẳng với mọi người. 2. Tính hai mặt của quá trình thực hiện luật chơi 2.1. Thực hiện luật, lách luật Quá trình hình thành luật chơi đã luôn ẩn chứa bao sự bất bình đẳng, bởi vậy trong quá trình thực hiện luật chơi ấy cũng có nhiều vấn đề tiêu cực cần bàn đến. Sự thực hiện luật chơi của các chủ thể trong nền chính trị quốc tế là một quá trình hai mặt. Có những chủ thể thực hiện một cách nghiêm túc, hay nói cách khác tức là tuân thủ luật chơi, nhưng bên cạnh đó có những chủ thể không thực hiện đúng theo những luật chơi này và tìm mọi “kẽ hở” để có thể lợi dụng mà người ta hay gọi là tìm cách “lách luật”. Tại sao lại như vậy? Tại sao cùng một luật chơi đó thôi mà lại có những nước tuân thủ một cách nghiêm túc, ngược lại có những nước không tuân thủ đúng, thậm chí không thực hiện nó, vậy thì tại sao? Nhìn vào quá trình hình thành luật chơi cũng như thực tế áp dụng nó ta có thể thấy được điều này là hoàn toàn có thể dễ hiểu. Bản thân việc hình thành luật chơi đã là một sự bất công lớn bởi vì quyền quyết định đâu có ở tất cả các quốc gia mà chỉ nằm trong tay một số ít các nước lớn. Bởi vậy, luật chơi luôn đại diện cho lợi ích của các nước lớn này và không phù hợp thậm chí là đi ngược lại với lợi ích của phần đông các nước nhỏ. V
Tài liệu liên quan