Đề tài Phân tích những đặc điểm kinh tế dẫn tới sự phát triển thần kì của Nhật Bản (1952-1973) từ đó có thể rút ra bài học bổ ích gì

Quần đảo Nhật Bản nằm ở phía đông đại lục Âu Á, kéo dài 3800 km từ 2025 đến 45 33” vĩ tuyến bắc. Nhật Bản có tổng diện tích là 377815km2. Quần đảo Nhật Bản có 4 đảo lớn : Hôn shu,Synshu,Hokkaido,Shikoku và 3900đảo nhỏ khác. Dân số Nhật Bản:122,2 triệu người (vào năm 1987) Trong đó 99%là người Nhật. Dân đô thị chiếm 75%, ngôn ngữ chính: tiếng Nhật, tôn giáo chính :thần đạo chiếm khoảng 90,24 % dân số và phật giáo hơn 2/3 diện tích Nhật Bản là đồi núi trong đó có hơn 30 ngọn núi lửa đất đai trồng trọt rất ít, tài nguyên khoáng sản gần như không có gì. Khí hậu của Nhật Bản rất khắc nghiệt, thiên tai, bão lũ, động đất, núi lửa xảy ra dữ dội

doc35 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1693 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích những đặc điểm kinh tế dẫn tới sự phát triển thần kì của Nhật Bản (1952-1973) từ đó có thể rút ra bài học bổ ích gì, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lịch sử kinh tế quốc dân đề tàI :Phân tích những đặc điểm kinh tế dẫn tới sự phát triển thần kì của Nhật Bản (1952-1973) từ đó có thể rút ra bài học bổ ích gì để tham khảo cho Lời mở đầu Quần đảo Nhật Bản nằm ở phía đông đại lục Âu á, kéo dài 3800 km từ 20’25’’ đến 45’ 33” vĩ tuyến bắc. Nhật Bản có tổng diện tích là 377815km2. Quần đảo Nhật Bản có 4 đảo lớn : Hôn shu,Synshu,Hokkaido,Shikoku và 3900đảo nhỏ khác. Dân số Nhật Bản:122,2 triệu người (vào năm 1987) Trong đó 99%là người Nhật. Dân đô thị chiếm 75%, ngôn ngữ chính: tiếng Nhật, tôn giáo chính :thần đạo chiếm khoảng 90,24 % dân số và phật giáo hơn 2/3 diện tích Nhật Bản là đồi núi trong đó có hơn 30 ngọn núi lửa đất đai trồng trọt rất ít, tài nguyên khoáng sản gần như không có gì. Khí hậu của Nhật Bản rất khắc nghiệt, thiên tai, bão lũ, động đất, núi lửa xảy ra dữ dội Dù với nguồn tài nguyên nghèo nàn, điều kiện tự nhiên hết sức khắc nghiệt và những tàn phá đến kiệt quệ của chiến tranh thế giới lần thứ hai, Nhật Bản đã trở thành một cường quốc kinh tế trên thế giới,đứng thứ hai sau Mĩ và đạt nhiều kỉ lục về phát triển kinh tế và xã hội, đặc biệt là từ năm 1952-1973 (Được Gọi Là Giai Đoạn Phát Triển Thần Kì).Chỉ trong vòng chưa đến mười năm sau chiến tranh, tổng sản phẩm quốc dân đã ngang bằng những năm trước chiến tranh tỉ lệ tăng GNP mỗi năm là 9,5% trong giai đoạn 1955-1961,là 12,3% các năm 1965-1970.Đến năm 1966 tỉ lệ phát triển kinh tế của Nhật Bản đã đạt cao hơn nước Anh, năm 1967 đã đạt vượt nước Pháp, nước Đức và năm 1970(chỉ 25 năm sau chiến tranh thế giới lần thứ hai )Nhật Bản đã đứng thứ hai trong số các nước tư bản phát triển (sau Mỹ) Những đặc điểm của nền kinh tế nhật bản giai đoạn 1952 1973 Thời kì phát triển kinh tế nhanh trên toàn thế giới rất hiếm có trong lịch sử kéo dài từ đầu những năm 50 đến đầu những năm 70 cũng là một thời kì mà Nhật Bản đẵ có những biến đổi thần kì kinh tế trong nước cũng như trong quan hệ với nền kinh tế thế giới. những biến đổi này có tính liên tục và tăng nhanh về lượng. Nó không phải là kết quả của những chính sách đặc biệt của chính phủ cũng như không phải là kết quả của một vài thành tích anh hùng mà là do những cố gắng tích luỹ của toàn thể nhân dân Nhật Bản được sự phát triển của công nghiệp kích thích, các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế đều tăng trưởng nhanh, nhờ vậy tổng sản phẩm quốc dân, chỉ tiêu tổng quát cho mức hoath động của nền kinh tế đã tăng mạnh. Từ năm 1952 đến năm1958, tổng sản phẩm quốc dân dã tăng với tốc độ 6,9%bình quân hằng năm. năm 1959, khi tốc độ tăng trưởng vượt 10%, nền kinh tế Nhật Bản vẫn chưa gây được sự chú ý của thế giới. những năm sau, khi tốc độ tăng trưởng vượt tốc độ của những năm trước thì thế giới bắt đầu kinh ngạc và gọi đó là Sự Thần Kì Về Kinh Tế. Tốc độ cao này được duy trì suốt những năm 1960.Tất nhiên sự tăng trưởng vẫn diễn biến theo chu kì nhưng trong thập kỉ này tổng sản phẩm quốc dân tăng trung bình hằng năm là 10%. trong những năm 1970 - 1973 tốc độ tăng trưởng trung bình hơi giảm đi còn 7,8% nhưng vẫn cao hơn tiêu chuẩn quốc tế (Bảng 1 ) Về giá trị tuyệt đối, năm 1950,tổng sản phẩm quốc dân của Nhật Bản mới đạt 24 tỉ đô la, nhỏ hơn bất kì một nước phương tây nào và chỉ bằng vài phần trăm so với tổng sản phẩm quốc dân Mỹ. Nhưng NB đã nhanh chóng vượt qua tất cả các nướcphương tây(Trừ Mỹ) vượt tổng sản phẩm quốc dân của Canada vào năm 1960 của Anh và Pháp vào giữa thập kỷ này, của Tây Mỹ Năm 1973 tổng sản phẩm quốc dân của NB đạt khoảng 360 tỉ đôla tuy vẫn còn nhỏ hơn Mỹ, song sự chênh lệch đã thu hẹp lại còn 3/1. Nhân tố hàng đầu trong tăng trưởng kinh tế của NB thời kì này là sự phát triển nhanh chóng các ngành công nghiệp chế tạo. Chỉ số sản xuất công nghiệp (1934 – 1936:= 100) tăng từ 160 năm 1955 lên 1345 năm 1970. Tuy các ngành thuộc khu vực I (Nông lâm, Ngư nghiệp) cũng tăng khá mạnh, song phần tương đối của nó trong thu nhập quốc dân tiếp tục giảm từ 22,8% năm 1955 xuống 6% năm 1970. Sự giảm bớt sức lao động trong nông nghiệp và lâm nghiệp cũng rất đáng chú ý: Nó giảm từ 16 triệu năm 1955 xuống 8,4 triệu năm 1970 và phần của nó trong tổng lực lượng lao động giảm từ 38,3% xuống 17,4% trong cùng thời kì. Năm tài chính Theo giá hiện hành (%) Theo giá bất biến của năm 1965 1951 38,8% % 1952 16,3 13,0 1953 18,1 7,9 1954 4,0 2,3 1955 13,3 11,4 1956 12,3 6,8 1957 13,0 8,3 1958 4,8 5,7 1959 15,5 11,7 1960 19,1 13,3 1961 22,5 14,4 1962 9,1 5,7 1963 18,1 12,8 1964 15,9 10,8 1965 10,6 5,4 1966 17,2 11,8 1967 17,9 13,4 1968 17,8 13,6 1969 18,0 12,4 1970 16,3 9,3 1971 10,7 5,7 1972 17,6 12,0 (Nguồn: Cục kế hoạch kinh tế). Bảng 2: Chỉ số sản xuất công nghiệp của các ngành chính (1965=100) Ngành 1955 1960 1965 1970 Dệt 42,2 68,2 100 154,0 Giấy và bột giấy 34,1 63,9 100 175,9 Hoá chất 25,2 51,0 100 204,0 Dầu lửa và sp than 18,7 47,2 100 216,7 Gốm 32,0 62,5 100 175,8 Sắt và thép 24,6 56,3 100 230,9 Kim loại màu 25,9 61,6 100 211,4 Máy móc 14,6 51,2 100 291,6 Tổng cộng (CN chế tạo) 26,0 56,9 100 218,5 Nguồn: Bộ công nghiệp và mậu dịch quốc tế. Trong các ngành công nghiệp khu vực II, sự phát triển của các ngành công nghiệp nặng và hoá chất (máy móc, kim khí và hoá chất) là nổi bật nhất như ta đã thấy ở bảng 2. Sự phát triển của công nghiệp cơ khí là đáng chú ý vì chỉ số của nó (1965=100) tăng 14,6 năm 1955 lên 291,6 năm 1970, hơn 20 lần trong 15 năm. Tuy vậy chỉ số của ngành công nghiệp dệt chỉ gia tăng tương đối nhỏ: từ 42,2 năm 1955 lên 154,0 năm 1970. Kết quả của sự phát triển nói trên là phần của các ngành công nghiệp nặng và hóa chất trong tổng sản lượng của công nghiệp chế tạo đạt tới 57% năm 1970, cao hơn phần tương ứng ở Tây Đức hoặc ở Mỹ. Trong thời kì này, thu nhập quốc dân tính theo đầu người tuy không được ngoạn mục như tổng sản phẩm quốc dân, nhưng cũng đã tăng đáng kể. Năm 1972, thu nhập quốc dân theo đầu người ước đạt 2300 USD cao bằng nước Anh và gần bằng một nửa nước Mỹ nhưng cao hơn các nước Châu á khác rất nhiều. Vị trí quốc tế của NB cũng được nâng cao dần trên các lĩnh vực xuất khẩu và viện trợ kinh tế. Từ năm 1952 đến 1973 vốn đầu tư và thiết bị máy móc tăng khá nhanh tốc độ bình quân hàng năm đạt 22%. Vốn cơ bản dành cho các ngành thuộc khu vực 2 (khai khoáng, xây dựng, chế tạo) chiếm từ 35% trong tổng số vốn đầu tư năm 1955 lên 50% năm 1970, trong đó công nghiệp nặng và hoá chất tăng từ 14% năm 1955 lên 28% năm 1970. Đặc điểm đầu tư vốn như trên đã góp phần tạo ra sự tăng trưởng nhanh trong điều kiện lịch sử của NB thời kì này. Giá cả cũng tăng tương đối mạnh, gấp gần 3 lần trong thời kì này, trung bình khoảng 5,2%/năm. Cũng giống như tốc độ tăng trưởng, nó cũng hơi thấp vào những năm 50 (4%) và cũng hơi cao hơn từ năm 1960 đến năm 1973 (5,6%), hơn cả mức trước chiến tranh. Như vậy là tăng trưởng diễn ra cùng với lạm phát nhẹ. Quá trình tăng trưởng này không phải là sự phát triển nhẹ nhàng, không gấp khúc. Trong thời gian này, nền kinh tế NB đã trải qua những thăng trầm khá rõ rệt, chia ra thành những chu kì dài khoảng hơn 3 năm đôi khi 2 năm hoặc 5 năm. Những sự lên xuống này diễn biến một cách có hệ thống và phần lớn theo một lề lối nhất định. Tính từ năm 1951 đến năm 1973 có tất cả 7 thời kì phồn thịnh và 8 lần suy thoái. Những lần suy thoái chu kì này chỉ biểu hiện ở tốc độ tăng trưởng chậm lại chứ không phải là giảm sút tuyệt đối. Những nhà kinh tế phân tích theo quan điểm chu kì công nghiệp của Các Mác cho rằng chu kì tái sản xuất tư bản ngắn lại rất tiêu biểu ở NB gắn chặt với sự rút ngắn chu kì đổi mới kỹ thuật nhờ tiến bộ khoa học sau chiến tranh. Còn một số nhà kinh tế NB gọi đây là chu kì hàng hoá tồn kho. Lí do tái diễn chu kì hàng tồn kho gắn với những thiếu hụt trong các cán cân thanh toán quốc tế. Thời kì phồn thịnh: Sản xuất mở rộng, tiêu dùng sản xuất và cá nhân đều tăng đã làm tăng nhập khẩu, do vậy cán cân thanh toán bị thiếu hụt. Khi xuất hiện sự tăng hàng tồn kho và giảm dự trữ ngoại tệ, Chính Phủ thực hiện chính sách thắt chặt tài chính tiền tệ. Khi điều kiện tài chính bị xiết chặt thì đầu tư giảm, tiêu dùng trong nước cũng giảm theo. Tất nhiên, hàng tồn kho giảm do giảm đầu tư, cán cân thanh toán quốc tế trở lại thuận lợi do giảm nhập khẩu và khi đó Chính Phủ lại nới lỏng chính sách tài chính, tiền tệ, chu kì hàng tồn kho mới lại bắt đầu. Việc thắt chặt tiền tệ được áp dụng vào đỉnh điểm của các thời kì phồn thịnh năm 1951, 1954, 1957 – 1958, 1961 – 1962, 1964, 1967, 1969 – 1970 và 1973 – 1975. Từ thời kì khan hiếm tiền kéo dài trong 2 năm liền 1973 – 1975, tổng số các thời kì khan hiếm tiền chỉ khoảng 12 tháng. Chính sách hạn chế tiền tệ của Nhật tỏ ra tác dụng nhanh với hiệu quả cao… Người ta có thể dẫn ra khá nhiều nhân tố đã góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế nhanh, nhưng nói chung những nhân tố đó đều nằm trong hoàn cảnh quốc tế và điều kiện trong nước của NB lúc bấy giờ và khả năng vận dụng tối ưu mọi hoàn cảnh và điều kiện đó cho tăng tăng trưởng. Những nguyên nhân dẫn đến sự phát triển thần kì của nền kinh tế Nhật Bản năm 1952 – 1973 I/ Những di sản từ trước chiến tranh: Trước hết, chiến tranh đã tàn phá hầu hết thiết bị công nghiệp của NB, nhưng vốn liếng về con người – chất xám tích luỹ được từ thời Minh Trị thì vẫn còn giữ được. Những kinh nghiệm quản lí xí nghiệp, đội ngũ công nhân lành nghề, trình độ giáo dục cao của dân chúng và chế độ dân chủ…Không phải là những thứ một sớm một chiều có thể tạo ra được. Đó là điểm khác cơ bản với trường hợp các nước đang phát triển bắt đầu bước vào phát triển kinh tế. Khi nhập khẩu được bông, dầu mỏ, than đá…, nhờ có sự giúp đỡ của Mỹ, những nhà máy ở NB vừa thoát khỏi các cuộc oanh tạc lập tức có thể bắt tay vào sản xuất ngay được. Các công nhân NB làm việc cật lực để phục hồi lại đất nước, phục hồi lại nhà máy từ đống tro tàn của chiến tranh. Một thời gian sau chiến tranh NB đã bắt đầu tích luỹ được một số vốn và lần lượt xây dựng các nhà máy có công nghệ tối tân. Những nhà máy cũ bị tàn phá trong chiến tranh có tác dụng buộc NB phải trang bị lại những thiết bị tối tân nhất. Khi các ngành sản xuất của Mỹ tụt hậu so với Nhật Bản thì có người đã nói đùa rằng, nước Mỹ muốn khôi phục lai khả năng cạnh tranh với NB phải làm lại một cuộc chiến tranh với Nhật Bản và trong cuộc chiến tranh này Mỹ cần phải thua. Trong một thời kỳ mà cuộc cách mạng kỹ thuật diễn ra hết sức nhanh chóng, điều quan trọng là phải đào tạo được những con người thành thạo kỹ thuật mới và phải có vốn để du nhập những kỹ thuật đó. Nếu thiết bị quá cũ sẽ là trở ngại cho sự phát triển. II-Cải cách kinh tế: Công cuộc cải cách kinh tế được bắt đầu ngay sau chiến tranh đã có tác dụng rất to lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế Nhật Bản sau này.Trong quá trình cải cách,việc chế định 3 luật:Luật cải cách ruộng đất,luật giải tán các tài phiệt và luật lao động là quan trọng nhất.GHQ(bộ tư lệnh quân đồng minh sau chiến tranh chiếm đóng Nhật Bản –General Head-quarters) đã đưa ra rất nhiều quy định buộc chính phủ NB phải tiến hành cải cách triệt để mà không có cách nào trốn tránh 1-Cải cách ruộng đất: Tháng1-1946,NB tiến hành cải cách ruộng đất vòng thứ nhất. Tháng 11,tháng12 cùng năm tiến hành cải cách ruộng đất vòng hai, không công nhân địa chủ vắng mặt ở địa phương có quyền chiếm hữu đất, ngay cả địa chủ ở tại làng đó cũng chỉ cho phép có một diện tích đất canh tác tối thiểu là 1 cho (đơn vị đo diện tích của Nhật Bản, 1 cho tương đương với 99,8 a –ND ở Hokkaido được phép cấp 4 cho. Đây là một quy định hết sức ngặt nghèo. Ban cải cách ruộng đất mua đất của địa chủ. Tiền bán đất được thanh toán bằng công trái, giá đất không những rất thấp mà lạm phát xảy ra sau đó làm cho giá trị càng thấp, nên thực chất là tịch thu. Đó là biện pháp rất hà khắc buộc địa chủ phải chấp nhận sự hi sinh. Việc địa chủ mất đất, các tá điền được chia đất đã làm thay đổi hẳn trật tự xã hội nông thôn. Bằng biện pháp đó hầu hết nông dân ở nông thôn trở thành tiểu nông nhờ năng suất trong nông nghiệp tăng lên. Diện tích đất phát canh trước cải cách ruộng đất là 46%,nhưng sau cải cách giảm xuống chỉ còn khoảng 10%.Những tranh chấp về phát canh bị thủ tiêu ở nông thôn bắt đầu xuất hiện tầng lớp trung lưu. Cải cách ruộng đất cũng đã góp phần mở rộng thị trường trong nước và trở thành địa bàn ủng hộ cho đảng bảo thủ 2-Giải tán các tập đoàn tài phiệt (Zaibat su) ở Mỹ, phần lớn người ta coi tài phiệt là thủ phạm làm cho NB lao vào cuộc chiến tranh đế quốc theo chỉ thị của GHQ, chính phủ NB đã tiến hành giải tán các tập đoàn tài phiệt vào tháng 10 năm 1945.Ngoài 4 tập đoàn tài phiệt lớn như Mitsui,Mitsu bisi, Suni tomo,Yasuda bị giải tán có 2500 người trong hội đồng quản trị có 1600 xí nghiệp có quan hệ với giới tài phiệt đã buộc phải rời khỏi chức vụ của mình. Các cổ phần thuộc quyền sở hữu của các công ti tài phiệt và các gia đình tài phiệt đã bị xử lí dưới hình thức đem ra bán ở thị trường cổ phần. Vì thế đã loại trừ được sự chi phối của các cá nhân và của chủ cổ phần. Công ty bị chia nhỏ thành những công ty nhỏ với những người lãnh đạo trẻ tuổi (được gọi là giới lãnh đaọ cấp 3 ). Nhiều người lo ngại rằng liệu toàn người lãnh đạo cấp 3 như thế có thể gánh vác nổi nền kinh tế NB hay không nhưng ngược lại lớp trẻ đã phát huy tốt tinh thần của các nhà kinh tế. do đó nền kinh tế NB đã lấy lại được sức sống của nó. Việc giải thể các tập đoàn tài phiệt được tiến hành theo luật thủ tiêu tình trạng tập trung cao độ kinh tế. một mặt có thể nghĩ đó là ý đồ của Mỹ dùng pháp luật để làm yếu nền kinh tế NB, nhưng mặt khác cũng có thể khẳng định được rằng :Nó đã làm tăng sức cạnh tranh, giúp cho nền kinh tế NB tăng trưởng mạnh 3-Chế định ba luật về lao động : Chính sách quan trọng của Mỹ là khuyến khích hoạt động công đoàn. Đó là bảo đảm ngăn chặn sự hồi sinh của chủ nghĩa quân phiệt và hành vi xâm lược và được coi là biện pháp đề cao tự do và nâng cao đời sống vật chất của nhân dân NB Luật công đoàn được đề ra vào tháng 12-1945 và bắt đầu được thực hiện vào đầu tháng 3 năm 1946 luật công đoàn quy định công nhân có quyền đoàn kết, quyền thương lượng tập thể, quyền bãi công…Luật điều chỉnh quan hệ lao động được đề ra vào tháng 7 – 1947. Luật tiêu chuẩn lao động được đề ra vào tháng 4 – 1947. Vì vậy lực lượng công đoàn phát triển nhanh chóng. Phong trào công đoàn thời kì đầu sau chiến tranh mang tính chiến đấu rất rõ rệt. Bởi vì lúc đó bối cảnh về mặt tư tưởng. Công nhân có nguy có bị tư bản tước đoạt các quyền lợi của mình. Một nguyên nhân nữa là đời sống của công nhân trong thời kì đó vô cùng khổ cực nếu không đấu tranh đòi tăng lương thì không sao sống nổi. Vì thế mà phong trào công đoàn đã dương cao nhiều mục tiêu để tập hợp công nhân đấu tranh như: truy cứu trách nhiệm chiến tranh, phản đối cuộc giãn thợ, bảo vệ đời sống…về quyền của công nhân, thì ngoài quyền bãi công ra công nhân đòi quyền tham gia dưới hình thức quản lí. Những cuộc bãi công, đấu tranh lớn của công nhân sau chiến tranh có thể kể đến: cuộc bãi công của công nhân viên báo Yomiuri năm 1945, cuộc bãi công của nhà máy đóng tàu Tsurumi thuộc tập đoàn sắt thép Nihon Kokan… Các tổ chức công đòan đã tiến hành các cuộc bãi công kéo dài đe doạ đến quản lí sản xuất như manh nha đòi phải có sự giám sát của dân trong kinh tế, đe doạ sự tồn tại của xí nghiệp. Sau đó qua nhiều cuộc đấu tranh khác nữa đó là sự biến dạng khá nhiều; hoạt động của công đoàn trở nên thực dụng hơn, chuyển sang các nội dung chủ yếu là về kinh tế ôn hoà hơn và trở thành một cơ sở quan trọng giúp cho nền kinh tế NB đạt được tốc độ tăng trưởng cao. Những diễn biến như vậy là điều không thể tưởng tượng được vào thời điểm ngay sau chiến tranh. III/ Những nhà kinh doanh xí nghiệp tích cực: Một trong những nguyên nhân quan trọng giúp cho nền kinh tế NB tăng trưởng mạnh sau chiến tranh là các nhà kinh doanh xí nghiệp đã tỏ rõ năng lực kinh doanh rất tích cực của mình. Thời gian ngay sau chiến tranh, do tác động của cơn sốt thua trận, phong trào cộng sản chủ nghĩa lan rộng truy tố những tội phạm chiến tranh, sự tan rã của tổ chức sản xuất – lưu thông truyền thống… các nhà kinh doanh xí nghiệp ở NB đã rơi vào tình trạng bi quan. Một thời gian những vật tư nguyên liệu cất giấu trong chiến tranh được truy ra, hoạt động buôn lậu tìm những khe hở trong mạng lưới quản lí của nền kinh tế tập trung được những món lời béo bổ tiếp tục được duy trì. Nhưng không bao lâu các nhà kinh doanh cũng đã nhận thức được vị trí của mình. Tháng 4 năm 1946 Hội đồng hữu kinh tế (Katai – Doyukai – tổ chức các nhà kinh doanh – ND) đã được thành lập với quyết tâm của những nhà kinh doanh trẻ dưới 50 tuổi như ông Kanichi Mroi, otsuka…phê phán những nhà kinh doanh lỗi thời không chịu tuân thủ nguyên tắc dân chủ hoá sau chiến tranh và phong trào công nhân quá khích tuyên bố xác lập vị trí riêng của tổ chức mình, phân chia gianh giới giữa tư bản và kinh doanh, nhằm thực hiện chủ nghĩa tư bản xét lại trong đó dựa vào sự thoả hiệp giữa chủ và thợ. Những người kinh doanh xí nghiệp ở NB sau chiến tranh có thể phân thành ba loại : +/ Loại 1: Những nhà kinh doanh trẻ được đề bạt với tư cách là người thay thế các nhà lãnh đạo các xí nghiệp hàng đầu đã bị buộc phải rời khỏi chức vụ theo luật giải tán các tập đoàn tài phiệt. Tiêu biểu là các ông Chikara Kurata (hãng chế tạo Hitachi), Kikuo Ssoyama(hãng Toyo Rayon)… +/ Loại 2:Những nhà kinh doanh lập nghiệp sau chiến tranh, tức là trước chiến tranh chỉ là các xí nghiệp trung tiểu, sau chiến tranh phát triển nhảy vọt. Tiêu biểu là Konosuke Mastu(công ty điện Mastu Shita), Sazo Idemitsu (Idemitsu Hunsan)… +/ Loại 3: các nhà doanh nghiệp nổi lên sâu chiến tranh. Đại diện là Ohibuka, A Kio morita (Sony), Shoi chiro honda(hãng nghiên cứu kỹ thuật Honda)… Đúng là thời thế khó khăn đã tạo ra anh hùng. Sự cạnh tranh gay gắt giữa các xí nghiệp do các tập đoàn tài phiệt bị giải thể và bầu không khí tự do sau chiến tranh đã là mảnh đất tốt để cho ra đời các nhà doanh nghiệp mới. Điều đầu tiên mà các nhà doanh nghiệp đó đã làm là mạnh dạn đổi mới kỹ thuật. Nhiều kỹ thuật đã du nhập từ Mỹ vào, nhưng đưa vào NB phải cải tiến đê sản xuất ra những mặt hàng mới và phải tạo ra được năng suất cao hơn. Tiếp đó lại mạnh dạn đầu tư thiết bị. Bản thân phương pháp đó là một sự cải cách. Về việc đưa ra những mặt hàng mới, công ty Toyo Rayon đưa ra mặt hàng Nilon có ý nghĩa bước ngoặt trong thời kỳ sau chiến tranh. Năm 1951 công ty Toyo Rayon nhân việc có sự tranh chấp về vấn đề xâm phạm bí quyết kỹ thuật với công ty Duybon của Mỹ, đã quyết định du nhập kỹ thuật sản xuất Nilon 66, có trả một khoản tiền lớn về sử dụng bí quyết kỹ thuật. Quyết định táo bạo đó đã trở thành nguồn gốc cho sự phát triển của nghành tơ sợi tổng hợp ở NB trong thời kỳ sau đó. Năm 1953, hãng Sony đã quyết định mua kỹ thuật bán dẫn (Transis tor) của hãng westen Electronic và đã thành công trong việc sản xuất đài bán dẫn (Tran sistor Radio ). Công ty sắt thép Kawasaki, bất chấp sự phản đối của ngân hàng NB, đã xây dựng một nhà máy luyện thép liên hoàn tại tỉnh Chiba và đặt nền móng cho hiện đại hoá ngành luyện kim của NB ngày nay. Trên đây là những ví dụ tiêu biểu về cải tiến kỹ thuật ở NB trong thời kỳ đầu sau chiến tranh thế giới lần II. Nhưng trong nguồn gốc sức mạnh chủ yếu để NB có thể thích ứng được với môi ttrường kinh tế thay đổi trong khoảng 40 năm sau chiến tranh và thúc đẩy NB thay đổi kịp thời lại nằm trong hoạt động của các xí nghiệp có tinh thần dám đi tiên phong. IV/ Lực lượng lao động ưu tú: Về mặt lực lượng lao động sau chiến tranh, NB có một lợi thế lớn là có một nguồn lao động dồi dào. Sau chiến tranh một lực lượng lớn người rút ra từ các thuộc địa của NB về giải ngũ ra từ quân đội. Nguồn cung cấp lao động lúc đó là quá thừa và họ sẵn sàng làm việc với đồng lương rẻ mạt. Nói theo thuật ngữ kinh tế học của Mac thì lao động tạo ra giá trị thặng dư và có khả năng tích luỹ tư bản. Dù đồng lương thấp đến mức nào, nhưng vì chất lượng lao động tồi, năng suất lao động thấp thì cũng không phát sinh giá trị thặng dư. Nhưng phần lớn lao động ở NB có trình độ giáo dục cao
Tài liệu liên quan