Đề tài Tổng quan tình hình nghiên cứu lao động trẻ em ở Việt Nam và thực tế lao động trẻ em tại xã Quảng Châu

Theo thống kê của tổ chức Lao động quốc tế (ILO) năm 1997, trên thế giới có khoảng 73 triệu trẻ em lao động làm thuê. Trong đó một nửa số lao động này tập trung tại các nước châu Á. Tham gia hoạt động làm thuê rất dễ dẫn đến việc sức lao động của trẻ em bị lạm dụng. Vì vậy, vấn đề lao động trẻ em cần được quan tâm hơn nữa nhằm tránh những tổn hại đến sự phát triển toàn diện của trẻ em.

doc93 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2641 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tổng quan tình hình nghiên cứu lao động trẻ em ở Việt Nam và thực tế lao động trẻ em tại xã Quảng Châu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu Theo thống kê của tổ chức Lao động quốc tế (ILO) năm 1997, trên thế giới có khoảng 73 triệu trẻ em lao động làm thuê. Trong đó một nửa số lao động này tập trung tại các nước châu á. Tham gia hoạt động làm thuê rất dễ dẫn đến việc sức lao động của trẻ em bị lạm dụng. Vì vậy, vấn đề lao động trẻ em cần được quan tâm hơn nữa nhằm tránh những tổn hại đến sự phát triển toàn diện của trẻ em. Tháng 5 - 2002, tại phiên họp đặc biệt của Đại hội đồng Liên hợp quốc về trẻ em đã đưa ra một cam kết: “ Xoá nghèo, đầu tư vào trẻ em: chúng ta khẳng định quyết tâm phá vỡ vòng luẩn quẩn của nghèo đói trong một thế hệ cùng liên kết khẳng định rằng đầu tư vào trẻ em và thực hiện quyền trẻ em là những cách hữu hiệu nhất để xoá nghèo” (Báo cáo phát triển Việt Nam 2004: tr.34). Từ tuyên bố này chúng ta có thể thấy vai trò quan trọng của việc quan tâm tới sự phát triển toàn diện của trẻ em. Tương lai của trẻ em cũng chính là tương lai của đất nước. Đó là lý do vì sao vấn đề lao động trẻ em hiện nay đang là vấn đề được bàn luận trong nhiều diễn đàn quốc gia, khu vực, và quốc tế. Việt Nam là một nước nông nghiệp, có hai phần ba dân số sống ở nông thôn trong điều kiện khoa học kỹ thuật kém phát triển nên mọi hoạt động nông nghiệp thường phải sử dụng bằng sức người; luôn đòi hỏi nguồn lao động cao. Vì vậy, trẻ em cũng là một nguồn lao động chính trong gia đình, “80% - 90% trẻ em vị thành niên nông thôn đã từng tham gia lao động sản xuất”(1). Với những đặc thù kinh tế - xã hội của Việt Nam, trẻ em đóng góp một phần không nhỏ vào nguồn lao động của gia đình dưới sự giám sát của cha mẹ. Nhưng trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường như hiện nay, việc đấu tranh chống lại sự khắc nghiệt của nghèo đói càng làm tăng thêm nguồn lao động trẻ em. Với diện tích đất nông nghiệp có hạn trong khi dân số và mức chi cho các nhu cầu tối thiểu của người dân ngày càng lớn khiến người nông dân không thể chỉ trông chờ vào sản xuất nông nghiệp. Theo số liệu điều tra năm 2002, Việt Nam có khoảng 28,9% số hộ nghèo và 35,6% số hộ nghèo tại khu vực nông thôn(2) . Trong khi đó, sự phát triển mạnh mẽ của các ngành nghề dịch vụ kéo theo nhu cầu về lao động ngày càng gia tăng. Nhưng thực tế, đối với một số ngành nghề thì nguồn lao động trẻ em lại thu hút các chủ thuê lao động bởi một số lý do như tiền công thấp, dễ quản lý… Sự phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ rệt lại càng làm tăng thêm số lượng lao động trẻ em tại các thành phố lớn. Theo số liệu điều tra năm 2002, tỷ lệ giàu nhất/ nghèo nhất là 6,03% (so với năm 1993 là 4,97%, năm 1998 là 5,49%) cho thấy sự phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ rệt (3). Sự phân hoá này hoàn toàn phù hợp với quá trình phân hoá thành thị - nông thôn hiện nay ở Việt Nam, do vẫn có gần 80% dân số Việt Nam sống ở nông thôn. Điều kiện kinh tế khó khăn, cộng thêm tỷ lệ người trong độ tuổi lao động thiếu việc là do diện tích đất nông nghiệp không tăng trưởng theo dân số nên dẫn đến tình trạng một số trẻ em nông thôn phải nghỉ học để lao động kiếm tiền và bị thu hút bởi nhu cầu lao động tại các thành phố lớn(4). Trong khoá luận tốt nghiệp này, tôi sẽ tập trung tìm hiểu tác động của việc tham gia lao động giúp việc tới những trải nghiệm cá nhân và các mối quan hệ xã hội của trẻ tại quê nhà. Đối tượng mà nghiên cứu này hướng tới là những em gái đã từng giúp việc gia đình tại Hà Nội vào dịp Tết. Cụ thể là những em có độ tuổi dưới 16 tuổi đang còn đi học tại thời điểm diễn ra hoạt động giúp việc. Tôi áp dụng cách tiếp cận nghiên cứu trường hợp, tập trung vào một số em gái đã từng tham gia lao động giúp việc thời vụ trong dịp Tết từ năm 2003- 2005. Bên cạnh đó, người thân trong gia đình, bạn bè (bạn học ở trường, bạn chơi ngoài trường), hàng xóm và cả gia đình người chủ thuê lao động cũng là những đối tượng cung cấp thông tin chính. Địa điểm nghiên cứu tại hai làng (làng Hạ và làng Vân)(5) thuộc xã Quảng Châu, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hoá dựa trên hai lý do chính. Thứ nhất là từ mối quan hệ cá nhân người nghiên cứu với một số người dân tại đây. Thứ hai là có sự quen biết với một người đang sinh sống ở xã Quảng Châu và hiện làm môi giới lao động cho một trung tâm giới thiệu việc làm ở Hà Nội. Những đối tượng nghiên cứu trong khoá luận này đã tham gia lao động giúp việc thông qua sự giới thiệu của người này. Khoá luận được kết cấu với 04 chương chính sau: Chương 1: “Tổng quan tình hình nghiên cứu lao động trẻ em ở Việt Nam và thực tế lao động trẻ em tại xã Quảng Châu” đưa ra một cái nhìn tổng quan về vấn đề lao động trẻ em ở nước ta, lao động trẻ em giúp việc gia đình và cụ thể tình hình lao động trẻ em giúp việc của Quảng Châu. Chương 2: “ Nghiên cứu lao động trẻ em - Từ góc độ phương pháp” tập trung làm rõ các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong khoá luận này. Chương3: “Tác động của lao động trẻ em - Cảm nhận của trẻ” tìm hiểu những ảnh hưởng của việc tham gia lao động giúp việc tới những trải nghiệm cá nhân được thể hiện qua những quan niệm về cuộc sống của trẻ. Chương 4: “Lao động trẻ em - qua lăng kính gia đình - xã hội” cho thấy quan niệm, thái độ của người dân địa phương về vấn đề lao động trẻ em giúp việc gia đình. Chương 1 Tổng quan tình hình nghiên cứu lao động trẻ em ở Việt Nam và thực tế lao động trẻ em tại Quảng Châu Trước khi tiến hành một nghiên cứu về vấn đề lao động trẻ em, cần khái quát những công trình nghiên cứu trước đó để có cái nhìn tổng quan, thực tế về quá trình nghiên cứu của vấn đề và từ đó có thể đưa ra một mục tiêu nghiên cứu mới có tính chất bổ xung cho những nghiên cứu trước đó. Vì vậy, việc tìm hiểu về vấn đề lao động trẻ ở Việt Nam và thực tế lao động trẻ em tại Quảng Châu là một việc cần thiết, không thể thiếu. 1.1 Khái niệm Khi nghiên cứu về lao động trẻ em, khái niệm đầu tiên chúng ta cần phải làm rõ là khái niệm “trẻ em” và “ lao động trẻ em”. Tuỳ thuộc vào hệ thống pháp luật ở mỗi quốc gia, độ tuổi quy định của “trẻ em” có khác nhau: - Theo Công ước quốc tế quyền trẻ em của Liên hiệp quốc (20/11/1989) thì “trẻ em” được xác định “là người dưới 18 tuổi trừ khi luật pháp quốc gia công nhận tuổi thành niên sớm hơn” (6). - Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) và Tổ chức khoa học, giáo dục và văn hoá (UNESCO) thì xếp “trẻ em là những người dưới 15 tuổi”(7). - Trong một số văn bản pháp luật Việt Nam cũng quy định: “Những người dưới 18 tuổi là người chưa thành niên” (Luật dân sự Việt Nam -1995); “Trẻ em là những người dưới 16 tuổi” (Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em - 1991). - Dựa trên những khái niệm về trẻ em, người ta cũng có thể đưa ra khái niệm về “lao động trẻ em”: đây là thuật ngữ chỉ trẻ em dưới tuổi lao động đang giành nhiều thời gian làm việc, ảnh hưởng đến sự phát triển về thể chất, giáo dục và tâm lý của trẻ(8). Theo bộ Luật Lao động Việt Nam - 1995, lao động trẻ em là người lao động chưa đủ 16 tuổi. Tuổi tối thiểu để trẻ em được phép học nghề là 13 tuổi. Tuy nhiên, trẻ em dưới 13 tuổi cũng được phép học nghề trong một số trường dạy nghề do Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội quy định. - Công ước tuổi tối thiểu của ILO năm 1973 (số138) : hạ tuổi tối thiểu chung là 14 và hạ tuổi vào làm công việc nhẹ là 12. Cho phép làm việc từ tuổi 16 trong công việc độc hại nếu có những bảo vệ thích hợp (Điều 7: …cho phép sử dụng lao động của người từ 13- 15 tuổi trong những công việc nhẹ nhàng mà không có hại cho sức khoẻ hoặc sự phát triển, học tập…) - Lao động trẻ em giúp việc gia đình là loại lao động thuê mướn có tính chất thoả thuận giữa người chủ nhà (người sử dụng lao động) và trẻ em (người dưới 18 tuổi hoặc dưới 16 tuổi) (9). Trong nghiên cứu này, tôi sử dụng khái niệm trẻ em (người lao động chưa đủ tuổi 16) theo quy định của Bộ luật Lao động Việt Nam (1995). Cũng như Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (trẻ em là những người dưới 16 tuổi) đã cho thấy đây là giai đoạn quan trọng đầu tiên hình thành và phát triển nhân cách, trí tuệ của trẻ. Vì vậy, giai đoạn này trẻ em cần được chăm sóc và bảo vệ đặc biệt. Lao động là một trong những yếu tố cơ bản để trẻ em có thể phát triển toàn diện và lành mạnh nhưng nếu lao động không đúng cách hoặc quá sức sẽ dẫn đến sự phát triển lệch lạc về cả thể chất lẫn tâm hồn trẻ em. 1.2 Nghiên cứu lao động trẻ em ở Việt Nam ăngghen trong tác phẩm “Vai trò của lao động trong lịch sử biến hoá từ vượn thành người” đã viết “ trong một chừng mực nhất định có thể nói lao động sáng tạo nên chính con người”. Đối với giáo dục con người thì lao động cũng là một biện pháp giáo dục tốt. Thông qua quá trình lao động, trẻ em có thể dần hoàn thiện bản thân, hình thành nhân cách và góp phần phát triển toàn diện mọi mặt của trẻ em. Những hoạt động lao động có ảnh hưởng tới sự phát triển bình thường của trẻ em thường được coi là vi phạm quyền cơ bản của trẻ em. Nhưng thật đáng buồn là trẻ em đã và đang là một trong những ngồn lao động chính tại nhiều gia đình, địa phương ở nước ta (chủ yếu là tại các khu vực nông thôn). Trong các gia đình Việt Nam, việc trẻ em tham gia giúp đỡ những công việc của gia đình là một việc rất bình thường và đương nhiên, nhất là đối với những gia đình thiếu lao động. Và nhiều người cho rằng công việc trong các gia đình mang lại lợi ích cho trẻ với tính chất là một phần xã hội hóa (giáo dục không chính quy), dạy cho trẻ những kỹ năng cần thiết cho cuộc sống sau này. Không thể nói rằng những công việc trong gia đình ấy hoàn toàn không mang lại tổn hại về thể chất hay tâm lý cho trẻ em. Nhưng việc trẻ em phải rời nhà đi lao động kiếm sống tại các thành phố lớn lại gây nhiều tổn hại lớn tới sự phát triển bình thường của trẻ em. Nếu nói đến nguyên nhân chính thì kinh tế là yếu tố lớn đầu tiên dẫn đến sự ra đi của trẻ em. Những năm gần đây, hội nhập quốc tế đã giúp nền kinh tế nước ta vươn lên mạnh mẽ nhưng đồng thời cũng dẫn đến sự phát triển không đồng đều ở nhiều nơi trong cả nước. Sự phân hoá giàu nghèo ngày càng tăng. Nhiều trẻ em đã phải bỏ học để tự kiếm sống và giúp đỡ gia đình. Một số trẻ em may mắn hơn khi không phải bỏ học thì phải chọn cho mình một công việc nào đó để tự lo liệu tiền để trang trải việc học tập của mình (Năm 2002, tỷ lệ đi học đúng tuổi ở khu vự nông thôn tại các cấp: tiểu học là 98,2%, trung học cơ sở là 69,9%, trung học phổ thông là 37,7%) (10). Và các trung tâm kinh tế lớn của cả nước như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng…đã trở thành đích đến của những người dân nông thôn mong muốn có thể cải thiện được đời sống. Để có một cái nhìn khái quát về vấn đề lao động trẻ em nói chung, cũng như thực trạng nghiên cứu vấn đề này ở Việt Nam tôi xin tóm lược một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như sau: Trước hết, phải kể đến chương trình nghiên cứu Trẻ em làm thuê giúp việc gia đình do Tổ chức Cứu trợ trẻ em của Thuỵ Điển (Save the Children Sweden) cộng tác với Khoa Tâm lý học (Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn- Đại học Quốc gia Hà Nội) thực hiện năm 2000. Đối tượng nghiên cứu tập trung vào nhóm trẻ em giúp việc gia đình tại Hà Nội, nhằm tìm hiểu nguyên nhân, đặc điểm và ảnh hưởng của lao động tới sự phát triển cá nhân của trẻ cũng như mô tả mối quan hệ xã hội của trẻ tại nơi làm việc. Nghiên cứu này được tiến hành bằng sự kết hợp sử dụng các phương pháp định lượng (dùng bảng hỏi), định tính (phỏng vấn sâu 20 trường hợp trong đó có 5 trường hợp phỏng vấn gia chủ và 15 trường hợp trẻ em) và phân tích tư liệu. Tiếp theo là báo cáo của nhóm tác giả về vấn đề Lao động trẻ em tại thành phố Hồ Chí Minh do Quỹ cứu trợ nhi đồng Anh tiến hành năm 1998. áp dụng phương pháp điều tra bảng hỏi để thu thập thông tin về nhiều loại ngành nghề khác nhau có trẻ em tham gia. Và một số báo cáo như, Điều đầu tiên trước hết trong lao động trẻ em: xoá bỏ những công việc độc hại với trẻ em do Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) phối hợp với quỹ nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) điều tra năm 1999, Một thế giới phù hợp với trẻ em được thực hiện năm 2001 dưới sự tài trợ của Quỹ bảo trợ nhi đồng Anh… Vấn đề lao động trẻ em cũng là mối quan tâm hàng đầu của các bộ ngành liên quan. Chúng ta có thể đưa ra một số điều tra tiêu biểu như: Vấn đề lao động trẻ em ở Việt Nam (Bộ Lao động và Thương binh xã hôị, 1997). Đây là tài liệu tập trung những báo cáo được trình bày tại một cuộc toạ đàm về vấn đề lao động trẻ em ở Việt Nam. Những báo cáo này chỉ rõ nguyên nhân, hậu quả của lao động trẻ em và đưa ra một số kiến nghị. Bên cạnh đó, là một số bài nghiên cứu đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành các tác giả. Đáng chú ý nhất là Nguyễn Văn Chính (1999). Trong bài viết này, tác giả đã đề cập đến thực trạng công việc và bản chất của lao động trẻ em. Thông qua việc phân tích các khía cạnh khác nhau của hiện tượng lao động trẻ em, tác giả nêu lên một số giả thiết khoa học mang tính lý luận đồng thời chỉ rõ các phương pháp tiếp để nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này. Còn với tác giả Nguyễn Hồng Thái (2003) lại đi sâu vào tìm hiểu các hình thức lạm dụng trẻ em. Theo cách phân loại của tác giả thì có lạm dụng trẻ em về thân thể, lao động trẻ em, lạm dụng tình dục trẻ em, bạo lực gia đình đối với trẻ em và trẻ em phải chứng kiến bạo lực gia đình. Tác giả cho rằng, sự phát triển kinh tế và lối sống do cơ chế thị trường đã tác động tiêu cực đến tình trạng lạm dụng, ngược đãi trẻ em ở Việt Nam trong thời gian qua. Tác giả Nguyễn Thị Bích Nga (2003) lại đề cập đến vấn đề việc làm và đời sống của nam nữ nông thôn lao động theo thời vụ tại Hà Nội, được rút ra từ kết quả nghiên cứu định tính với quy mô nhỏ tại Hà Nội và xã Xuân Thượng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định trong năm 2000 - 2001. Khái quát nêu trên về thực trạng nghiên cứu vấn đề lao động trẻ em ở Việt Nam, cho thấy, phần lớn các nghiên cứu này đều được tiếp cận từ góc độ Xã hội học. Hơn nữa, mảng đề tài về nhóm trẻ em lao động giúp việc gia đình theo thời vngười vẫn còn chưa được chú ý nhiều. Xuất phát từ mong muốn đóng góp phần nào vào việc nghiên cứu về đối tượng trẻ em đặc thù này, tôi sẽ tập trung tìm hiểu những tác động của việc tham gia lao động thời vụ tới những trải nghiệm cá nhân và mối quan hệ xã hội của các em tại địa phương. Vận dụng các phương pháp nghiên cứu thường thấy trong Nhân học, tôi có thể tìm hiểu sâu hơn những tác động, thay đổi trong nhận thức của cá nhân trẻ. Những thay đổi này được thể hiện thông qua cách thức giao tiếp của trẻ trong các mối quan hệ xã hội. 1.3 Thực trạng lao động trẻ em ở Quảng Châu Quảng Châu là một trong 41 xã của huyện Quảng Xương, cách thành phố Thanh Hoá 12 km và cách biển Đông 3 km. Quảng Châu có diện tích 4.107 km2 với dân số 8.112 người. Toàn xã chia thành 9 thôn, gồm 520 hộ. Ngoài ra, xã còn có thể chia thành 6 làng. Ngoài sản xuất nông nghiệp là nghề chính, địa phương còn có thêm một số nghề khác như chăn nuôi, đánh bắt cngười ngoài ra còn cos một số nghề phụ khác như thợ xây, phụ hồ, cửu vạn…với khoảng 400 lao động tự do. Theo số liệu của chính quyền địa phương, thu nhập bình quân đầu người ở xã là gần 4 triệu đồng/người/năm. Quảng Châu cũng chỉ là một trong nhiều địa phương khác có nguồn lao động dư thừa và ngồn lao động trẻ em cung cấp cho Hà Nội. Theo nguồn số liệu của một người làm nghề môi giới cung cấp lao động cho một trung tâm giới thiệu việc làm ở Hà Nội thì tính trong toàn bộ xã Quảng Châu và một vài xã lân cận (nhưng chủ yếu ở địa bàn xã Quảng Châu) trong khoảng thời gian 1 năm ( 16/3/2004 – 10/4/2005 ) số người mà chị đã giới thiệu tới trung tâm giới thiệu việc làm là 180 người. Trong số đó có 12 người là nam giới còn lại là nữ giới. Đặc biệt, có 64 người trong số đó là trẻ em gái có độ tuổi 13 - 16 tuổi. Tất cả các em đều làm công việc giúp việc gia đình ở Hà Nội. Có 13 trẻ trong số 64 trẻ gái đó còn đang đi học tại thời điểm diễn ra hoạt động lao động giúp việc theo thời vụ. Với một số người dân địa phương thì lao động theo thời vụ là việc làm quen thuộc trong những ngày nông nhàn. Đó là thời điểm và công việc thích hợp để kiếm thêm tiền trong khi không có việc làm. Như vậy, lao động theo thời vụ là giải pháp hữu hiệu để giải quyết hai khía cạnh cơ bản của cuộc sống: việc làm và kinh tế. Lao động giúp việc gia đình là công việc của những người phụ nữ địa phương trong khi chờ mùa vụ. Họ chỉ đi là trong dịp nông nhàn vì khi tới mùa vụ thì sẽ trở về. Như vậy, trên thực tế thì phần lớn người lao động tham gia công việc này của địa phương lao động mang tính chất thời vụ vì với họ nông nghiệp mới là công việc chính. Đặc biệt là đối với trẻ em gái đang còn đi học. Chỉ một số ít trong họ là coi đây là công việc thường xuyên quanh năm. Giúp việc gia đình đòi hỏi sự khéo léo, đức tính cẩn thận, thật thà và có thể cả một chút sự chịu đựng. Giúp việc gia đình đặc biệt phù hợp với lứa tuổi nhỏ (khoảng dưới 18) hoặc người lớn tuổi (40 - 60 tuổi) không có gia đình hay con cái đã lớn. Đây là hai khoảng lứa tuổi được nhiều người thuê lao động lựa chọn bởi những lý do khá tế nhị. Để giả thích cho lựa chọn này, người chủ thuê lao động đã đưa ra lý do sau: Thông thường khi con gái trên 18 tuổi là lứa tuổi biết yêu đương, dễ đua đòi hoặc đã có chồng và con nhỏ nên không thể làm công việc này vì thời gian xa nhà kéo dài. Mặt khác, những trẻ em còn ít tuổi thường khoẻ mạnh, chịu khó và đặc biệt là dễ bảo, dễ sai khiến hơn người lớn tuổi. Nếu người giúp việc là những cô gái tuổi từ 18 - 30 thì sẽ dễ dẫn đến những tình huống khó xử khác như có quan hệ với ông chủ hay con chủ nhà. Vì vậy mà nhiều gia chủ cho rằng lứa tuổi 12 - 17 tuổi là lứa tuổi thích hợp nhất cho công việc này. Còn đối với những người có tuổi thường ít vướng bận gia đình vì con cái họ đã lớn, họ bết lo toan chu tất công việc gia đình nhưng do đã lớn tuổi nên khó sai bảo, hay ốm yếu và dễ tự ái. Nên dù sao thuê những trẻ em có lứa tuổi từ 12 - 17 tuổi là thích hợp nhất. Trên thực tế, hầu như rất ít trường hợp phụ nữ có con còn nhỏ mà lại đi giúp việc gia đình bởi vì một lý do dơn giản là công việc này đòi hỏi họ phải vắng nhà hàng tháng. Họ không thể bỏ con ở nhà cho chồng hay bố mẹ chăm sóc để đi làm xa. Đối với những trẻ em gái có trình độ thấp thì công việc giúp việc gia đình có vẻ là một công việc an toàn và nhàn hạ nhất. Vì vậy, những trẻ gái không muốn bỏ học lại muốn kiếm thêm tiền để trang trải việc học hành và giúp đỡ gia đình đều lựa chọn công việc này trong những ngày nghỉ hè hoặc nghỉ tết. Giúp việc gia đình theo thời vụ đã trở thành công việc quen thuộc đối với nhiều trẻ em gái ở nông thôn. Nếu tranh thủ đi làm vào 3 tháng nghỉ hè, các em có thể có được số tiền lương đủ để trang trải tiền học cho cả năm học và còn giúp thêm một phần cho gia đình. Một đợt có thể đi làm nữa đó chính là dịp nghỉ tết. Khi tất cả những người lao động khác đi làm việc quanh năm tại thành phố đã về quê hương để đón tết thì những trẻ em gái này lại bắt đầu bước vào những ngày làm việc mới. Do thời điểm làm việc khá đặc biệt nên sau 10 ngày giúp việc gia đình ngày tết các em sẽ có một khoản tiền lương bằng một tháng lương đi giúp việc vào dịp nghỉ hè. Như đã nêu trên, đối với hầu hết người tham gia lao động thì công việc này chỉ mang tính tạm thời bởi với họ khi không còn khó khăn nữa thì đó cũng là lúc họ không làm nghề này nữa. Đặc biệt là đối với trẻ em gái. Một mặt, nếu các em đã bỏ học thì các em cũng chỉ làm công việc này một thời gian để kiếm ít vốn làm ăn rồi lấy chồng vì ở nông thôn họ thường lấy chồng từ rất sớm (nếu con gái khoảng 22, 23 tuổi mà chưa lấy chồng thì đã bị coi là ế). Mặt khác, đối với những em lao động thời vụ để kiếm tiền trang trải việc học thì các em chắc chắn cũng không theo đuổi công việc này lâu dài. Nhiều trẻ em gái ở nông thôn mong muốn được học tập cao hơn đang đứng trước nguy cơ phải bỏ học vì không có tiền để chi phí cho học tập (học càng lên cao thì chi phí cho học tập cũng ngày càng tăng). Trong khi đó, mỗi gia đình ở nông thôn thường có 3, 4 con. Để có thể cho các con đi học quả là một việc quá sức đối với nhiều gia đình cho dù đã có Luật phổ cập giáo dục Việt Nam miễn học phí đối với học sinh cấp tiểu học. Do đó, những trẻ em gái mong muốn có tiền chi trả cho học tập cần phải tự mình kiếm tiền và giúp đỡ cho bố mẹ. Giúp việc gia đình theo thời vụ là một lựa chọn thích hợp nhất! Tranh thủ những dị
Tài liệu liên quan