Đề tài Vai trò giới trong đội ngũ cán bộ Đoàn/Hội/Lớp tại một số trường đại học hiện nay

Do đó, từ trước đến nay vấn đề phụ nữ luôn được nhiều nhà khoa học quan tâm , nghiên cứu. Xã hội càng phát triển, vấn đề phụ nữ càng trở nên quan trọng. Địa vị của phụ nữ trong xã hội có thể xem như là thước đo trình độ văn minh của một đất nước. Nhà nước, các tổ chức xã hội và cộng đồng quốc tế đóng vai trò cơ bản trong việc đạt tới bình đẳng giới. Những năm qua xã hội đã thu được những kết quả to lớn trong vấn đề này. Các hội nghị của phụ nữ quốc tế như ở Mexico (1975), Nairobi (1985) và Bắc Kinh (1995) bản thân chúng là những thức đo về sự trao quyền cho phụ nữ. Tuy vậy vẫn còn một số thách thức quan trọng:

doc70 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2059 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò giới trong đội ngũ cán bộ Đoàn/Hội/Lớp tại một số trường đại học hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Lời cảm ơn Phần mở đầu I. Tên đề tài II. Tính cấp thiết cảu đề tài III. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu IV. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Phần nội dung I. Cơ sở lý luận của đề tài II. Các khái niệm công cụ III. Mô tả mẫu nghiên cứu IV. Kết quả nghiên cứu A. Thực trạng cơ cấu cán bộ Đoàn/Hội SVLớp B. Đánh giá của sinh viên về vai trò giới trong đội ngũ cán bộ Đoàn/HộiSV/Lớp 1. Đánh giá của sinh viên về tầm quan trọng của Lớp trưỏng/Bí thư chi đoàn/Chi hội trưởng 2. Vẻ ngoài bình yên của những quan điểm vĩ mô a. Quan điểm về ngành học b. Quan điểm về mô hình “Nam trưởng- nữ phó” c. Quan điểm về thiên chức của phụ nữ, nam giới và bình đẳng giới d. Quan điểm về sự thành đạt và bất hạnh của người phụ nữ 3. Định kiến giới trong tư duy cụ thể 3.1. So sánh phẩm chất, năng lực của cán bộ Đ/H/L là nữ sinh viên và nam sinh viên 3.2. Đánh giá về đội ngũ lãnh đạo đất nước bằng cách cho điểm hai đối tượng: nam giới và phụ nữ 3.3. Mong muốn của sinh viên về tỷ lệ nữ bộ trưởng hợp lý 3.4. Tiêu chí lựa chọn sinh viên vào Ban chấp hành Đ/H/L 4. Một số nguyên nhân nhìn từ góc độ lý thuyết học tập- xã hội C. Kết luận Phần mở đầu I. Tên đề tài : Vai trò giới trong đội ngũ cán bộ Đoàn/Hội/Lớp tại một số trường đại học hiện nay. II. Tính cấp thiết của đề tài Phụ nữ là một nửa của nhân loại. Do đó, từ trước đến nay vấn đề phụ nữ luôn được nhiều nhà khoa học quan tâm , nghiên cứu. Xã hội càng phát triển, vấn đề phụ nữ càng trở nên quan trọng. Địa vị của phụ nữ trong xã hội có thể xem như là thước đo trình độ văn minh của một đất nước. Nhà nước, các tổ chức xã hội và cộng đồng quốc tế đóng vai trò cơ bản trong việc đạt tới bình đẳng giới. Những năm qua xã hội đã thu được những kết quả to lớn trong vấn đề này. Các hội nghị của phụ nữ quốc tế như ở Mexico (1975), Nairobi (1985) và Bắc Kinh (1995) bản thân chúng là những thức đo về sự trao quyền cho phụ nữ. Tuy vậy vẫn còn một số thách thức quan trọng: Tác động về giới của các chính sách vĩ mô và chính sách ngành cụ thể là gì? Các phản ánh chi tiêu công cộng có thể thúc đẩy hay cản trở sự bình đẳng giới và hiệu quả kinh tế như thế nào? Làm thế nào để hiểu biết sâu sắc hơn mối quan hẹ bình đẳng giới để phản ánh mối quan hệ đó trong các quyết định chính sách ? Còn nhiều vấn đề chưa biết hoặc chưa hiểu rõ, đòi hỏi phải thu nhập thêm và tốt hơn các dữ liệu để phân tích Càng ngày người ta càng thấy rằng xem xét quan hệ giới trong xã hội không chỉ dừng ở chỗ xem các chính sách và chương trình tác động ra sao đến những yếu tố phát triển thông thường (giáo dục, sức khoẻ, lực lượng lao động) mà quan trọng hơn phải xem xét các hình thức can thiệp cụ thể đã nâng cao thế nào quyền tự chủ, khả năng lãnh đạo và tiếng nói của phụ nữ, kể cả trong gia đình và trong xã hội. Để hiểu rõ cách can thiệp nào là hiệu quả nhất nhằm đạt được điều này, cần sự phân tích giới sâu sắc hơn. Ở Việt Nam, về vị trí của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội có hai cách đánh giá trái ngược nhau: _Về cơ bản phụ nữ có địa vị bình đẳng với nam giới do đặc điểm của văn hoá Việt Nam – nền văn hoá Đông Nam Á, do nhu cầu cuộc sống và và hoạt động sản xuất của các gia đình trồng lúa nước, do hoàn chiến tranh kéo dài, người chồng luôn vắng nhà, công việc sản xuất và nuôi con, chăm sóc cha mẹ già giao cho người vợ đảm nhận. Vì thế người phụ nữ có vai trò, vị trí thật sự quan trọng trong gia đình (họ có quyền và được kính nể) _ Phụ nữ việt nam về cơ bản vẫn ở vào địa vị phụ thuộc người chồng và chịu sự bất bình đẳng trong cả gia đình và ngoài xã hội, do ảnh hưởng của Nho giáo kéo dài nhiều năm ở nước ta và chiếm vị trí quốc giáo. hiện nay kết quả các cuộc điều tra Xã hội học về sự bình đẳng giới trong gia đình vẫn chứng minh vị tí thấp kém của người phụ nữ so với nam giới (nam giới nắm quyền chủ hộ, quyết định những công việc quan trọng trong gia đình, bạo lực của người chồng với người vợ vẫn tồn tại khá phổ biến). Như vậy việc đánh giá mức độ ảnh hưởng của Văn hoá bản địa và ảnh hưởng của Khổng giáo đối với gia đình Việt nam hiện nay vẫn còn là vấn đề tranh cãi chưa thể kết luận được. (“Gia đình Việt Nam ngày nay”- T143- GS Lê Thi ) Bình đẳng giới là một nội dung của tiến bộ xã hội, là một nguyên tắc cơ bản của Đảng và Chính phủ Việt nam. Sự quan tâm của Đảng và nhà nước đối với vấn đề này trong vài thập niên vừa qua thể hiện qua nhiều chỉ thị nghị quyết riêng cho phụ nữ như: Nghị quyết 176/ HĐBT về phát huy vai trò và năng lực của phụ nữ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa – Hà nội 24/12/1984 Quyết định 163/ HĐBT về tăng cường vai trò của Hội LHPN trong tham gia quản lý nhà nước – Hà nội 1989 Nghị quyết 04/ NQ- TW của Bộ Chính Trị về “Đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới”- Hà Nội 12/7/1993 Chỉ thị 37 –CT/ TW về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới – Hà nội 16/5/1994 Nghị quyết 04-NQ-TW đã khẳng định cần tăng số lượng nữ trên các vị trí quyền lực ở mọi lĩnh vực trong các ban của Đảng và trong Chính phủ. Nghị quyết cũng nói rằng cần tập trung nỗ lực đấu tranh với việc phân biệt đối xử và không tôn trọng phụ nữ đặc biệt là tại nơi làm việc. Đáp ứng đòi hỏi thực tiễn cuả đất nước là tăng trưởng kinh tế song song với tiến bộ xã hội, các hoạt động của Hội LHPNVN, các tổ chức đoàn thể trong nước và quốc tế ngày càng tăng về số lượng và chất lượng. Trong lĩnh vực xã hội học về giới, vấn đề phụ nữ đã được nghiên cứu ở nhiều khía cạnh như: Vấn đề công bằng xã hội và hội nhập xã hội của phụ nữ , vấn đề chính sách đối với phụ nữ, vấn đề dân số và phụ nữ, vấn đề xoá đói giảm nghèo và phụ nữ, vấn đề giáo dục, truyền thông đại chúng và phụ nữ . Trong đó vấn đề hội nhập xã hội của phụ nữ tỏ ra nổi bật trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá của đất nước. Rõ ràng việc chia sẻ trách nhiệm, quyền lợi của phụ nữ và nam giới trong công việc điều hành xã hội là xu thế tất yếu của xã hội hiện đại. Giới và các nghiên cứu xã hội học về giới ở Việt Nam Trong các nghiên cứu trên thế giới cũng như ở Việt Nam, vấn đề phụ nữ và giới được xem xét lý giải từ nhiều góc độ khác nhau và rất khó tách bạch đâu là nghiên cứu thuần tuý phụ nữ học và đâu là nghiên cứu thuần tuý khoa học về giới. Khoa học về giới nói chung, XHH về giới nói riêng ở Việt Nam lấy lý luận và quan điểm Macxit về “giải phóng phụ nữ” và bình đẳng nam nữ làm cơ sở tư tưởng và phương pháp luận để xem xét và giải quyết những vấn đề nảy sinh. Trong lĩnh vực XHH về hội nhập xã hội của phụ nữ, một số tác giả uy tín có nhiều công trình nghiên cứa là Trần Thị Vân Anh, Lê Thi, Lê Thị Quý, Lê Ngọc Hùng, Hoàng Bá Thịnh….Một số công trình đáng chú ý là : “Vấn đề đào tạo việc làm, tăng thu nhập nâng cao địa vị người phụ nữ hiện nay” ( Lê Thi –HN-1991) “Phụ nữ, giới và phát triển” ( Trần Thị Vân Anh – Lê Ngọc Hùng. NXB Phụ nữ, Hà Nội 1996) “ Đánh giá thực trạng vấn đề giới trong hệ thống tổ chức nhà nước ở Vụ tổ chức cán bộ các bộ ngành và ban tổ chức chính quyền tỉnh, thành phố “( Ban tổ chức cán bộ chính phủ- Hà Nội 3/1998) “Thực trạng đội ngũ cán bộ nữ ở cơ sở “ –Trung tâm hỗ trợ giáo dục và nâng cao năng lực cho phụ nữ -Hà nôi, 6/1999 “Xã hội học về giới phát triển “ – Lê Ngọc Hùng – Nguyễn Thị Mỹ Lộc. NXB ĐHQG Hà nội 2000. Các công trình nghiên cứu trên đã chỉ ra thực trạng đời sống của phụ nữ và sự tham gia của phụ nữ trong quản lý, lãnh đạo đất nước qua nhiều giai đoạn khác nhau. Tuy nhiên hầu hết các nghiên cứu chưa khái quát lên thành những nhận định có tính lý luận để có thể kiểm chứng. Do đó các ý kiến đề xuất, các kiến nghị chưa được thuyết phục để vận dụng trong thực tiễn. Lý do của hạn chế này, theo tôi là : Tính mới mẻ của ngành khoa học về giới ở Việt Nam. Khoa học về giới nói chung, xã hội học về giới nói riêng mới chỉ phát triển ở Việt Nam vài chục năm trở lại đây. Điều đó giải thích sự hạn chế nhất định về số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ nghiên cứu. Sự đầu tư chưa đủ lớn về công sức, tiền của cho những nghiên cứu lý thuyết cũng như nghiên cứu thực nghiệm. Đối với nghiên cứu thực nghiêm, sự hạn chế của số lượng công trình là một nguyên nhân ảnh hưởng đến sự yếu kém trong khái quát lý luận. Đặc biệt, đối với lĩnh vực XHH về giới trong lãnh đạo và quản lý, các nghiên cứu mới chỉ tập trung vào những đối tượng đã là cán bộ tham gia hệ thống quản lý xã hội chính thức mà chưa có những hướng phân tích toàn diện chẳng hạn như định hướng, thái độ, quan điểm giới trong lĩnh vực quản lý học sinh, sinh viên. Sinh viên là bộ phận trí thức trẻ tiên tiến nhất của thanh niên nên để phân tích và dự báo về vai trò giới trong đội ngũ lãnh đạo đất nước không thể bỏ qua lực lượng này. Điều đó cho phép các nghiên cứu thực nghiệm tiếp tục soi rọi vấn đề giới ở những góc độ mới. 3. Vài nét về thực trạng cơ cấu giới trong hệ thống chính trị, tham gia lãnh đạo ở Việt Nam hiện nay: Bốn vấn đề giới chủ chốt có liên quan đến lĩnh vực lãnh đạo, tham gia vào các hoạt động chính trị và ra quyết định được xác định bao gồm : Sự tham gia của phụ nữ trong các ban của Đảng và khu vực hành chính của Chính phủ ; Sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí dân cử như Hội đồng nhân dân ; Tác động giới và sự tham gia của phụ nữ trong các qui định chi tiêu công cộng ; Tác động giới và sự tham gia của phụ nữ trong việc thực hiện qui chế dân chủ . 3.1 Sự tham gia của phụ nữ vào các cấp uỷ Đảng và Chính phủ : Cho đến nay, số cán bộ nữ trong các ban của Đảng còn rất thấp, tỷ lệ này vào khoảng 10-11% ở cấp trung ương, tỉnh, huyện và xã.(Ban tổ chức trung ương Đảng 1997). Trong các ban của Đảng số cán bộ nữ nắm những vị trí quyền lực rất ít. Tỷ lệ cán bộ nữ cao cấp như bí thư hay phó bí thư chỉ vào khoảng 3-8% ở mọi cấp ( Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ 7, 1997). Hơn nữa, đa số các thành viên nữ trong các ban của Đảng thường chịu ttrách nhiệm những công việc hành chính có liên quan đến giám sát và động viên nhân dân hơn là những công việc mang tính chiến lược. Trong khu vực hành chính của chính phủ, số lượng cán bộ nữ nắm vị trí chủ chốt cấp trung ương trong thập kỷ qua đã tăng chút ít nhưng vẫn còn thấp. Ở cấp Bộ, tỷ lệ nữ là Bộ trưởng và thứ trưởng là 11% và 7%, tỷ lệ nữ là Vụ trưởng và vụ phó là 12% và 13% ( Đại hội toàn quốc lần thứ 7, 1997). Tỷ lệ nữ lãnh đạo uỷ ban nhân dân, cơ quan thi hành chính sách và chương trình cũng rất thấp. Trong số các thành viên UBND, tỷ lệ nữ trung bình là 5-7%. Tỷ lệ nữ Chủ tịch UBND cấp tỉnh/ thành, quận/huyện và phường/xã là 1-3% ( Ban tổ chức cán bộ Chính phủ , 1997) 3.2 Sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí dân cử trong hội đồng nhân dân . Quyền của phụ nữ tham gia vào HĐND được đảm bảo bằng luật. Tuy nhiên, một cách truyền thống thì nam giới vẫn thống trị HĐND các cấp. Kết quả bầu cử HĐND các cấp năm 1999 cho thấy số lượng nữ trúng cử ở cấp tỉnh là 22%, cấp quận /huyện là 20%, và ở cấp phường/xã là 10%, chưa đạt mục tiêu đề ra so với kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ do chính phủ đề xuất năm 1997 là tăng sự tham gia của phụ nữ trong HĐND lên tới 20-30%. 3.3 Sự tham gia của phụ nữ trong các quyết định chi tiêu công cộng. Chi tiêu công là toàn bộ những khoản chi của nhà nước, bao gồm chi thường xuyên và chi cho đầu tư phát triển. Ở Việt Nam, các quyết định có liên quan đến chi tiêu công chưa chú ý một cách trực tiếp đến các vấn đề giới. Phụ nữ không giữ vai trò quan trọng trong các quyết định liên quan đến chi tiêu công. Có ít phụ nữ nắm vị trí quyền lực tại các cơ quan chịu trách nhiệm lập kế hoạch hoăch phê duyệt ngân sách nhà nước. Chẳng hạn như Vụ tài chính và tiền tệ của Bộ kế hoạch và đầu tư chỉ có 2 trong số 17 chyên gia là nữ . Sự tham gia của phụ nữ trong việc thực hiện qui chế dân chủ Với việc thông qua qui chế dân chủ và các quyết định đối với các điều kiện thực hiện qui chế dân chủ, Việt Nam đã thiết lập một qui trình mà qua đó mọi công dân có thể trao đổi và đưa ra những quyết định liên quan đến những vấn đề của địa phương. Tuy nhiên những nghiên cứu của Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt nam năm 2000 cho thấy phụ nữ không tham gia một cách bình đẳng như nam giới trong cả việc tổ chức và chủ trì các cuộc thảo luận, các quyết định hoặc lãnh đạo các cuộc họp. Thực tế trên cho thấy những kiến thức hiện nay về vai trò của phụ nữ trong lãnh đạo và ra quyết định phải được bổ sung bằng những nghiên cứu tiếp theo. III. Mục đích nghiên cứu : Tìm hiểu vai trò giới trong đội ngũ cán bộ Đoàn/ Hội/Lớp của sinh viên tại một số trường Đại học hiện nay. IV.Nhiệm vụ nghiên cứu . 1.Thực trạng cơ cấu giới trong đội ngũ cán bộ Đoàn/Hội/Lớp 2.Đánh giá của sinh viên về vai trò giới trong đội ngũ lãnh đạo Đoàn/ Hội /Lớp và định hướng lựa chọn của họ 3. Khuyến nghị và giải pháp V. Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu. 1.Đối tượng nghiên cứu. : Vai trò giới trong đội ngũ cán bộ Đoàn/Hội/Lớp 2. Phạm vi nghiên cứu : 2.1 Phạm vi không gian Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Trường Đại học Khoa học tự nhiên Trường Đại học Kinh tế quốc dân Sở dĩ tôi chọn 3 trường Đại học trên vì tôi muốn chọn đại diện của các khối ngành: Khối xã hội, Khối tự nhiên và Khối kinh tế. Theo đánh giá chung thì đây cũng là 3 trường có cơ cấu sinh viên theo giới đặc trưng: Tỷ lệ nam- nữ ở trường ĐH KHXH & NV là 30%:70%, ở trường ĐH KHTN là 70%:30%, ở trường ĐH KTQD: 55%:45%, do đó có thể so sánh để phần nào thấy rõ hơn tác động của các biến số tới đối tượng nghiên cứu. 2.2 Phạm vi thời gian : Tháng 1 –tháng 3 năm 2003. 2.3 Phạm vi vấn đề nghiên cứu : Do trình độ và thời gian có hạn người nghiên cứu chỉ tập trung xem xét vai trò giới trong đội ngũ cán bộ Đoàn/Hội/Lớp từ đánh giá của sinh viên và những nhận định định tính của tác giả chứ chưa đo vai trò thực tế của đội ngũ cán bộ này biểu hiện ở những lĩnh vực lĩnh vực công việc cụ thể như thế nào. VI Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận : Phương pháp luận nền tảng cho khoa học nói chung và xã hội học nói riêng là chủ nghĩa duy vật biện chứng. Các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng là: Xem xét xã hội với những qui luật vận động, phát triển của nó như nó đang tồn tại một cách khách quan. Người nghiên cứu cố gắng khắc phục thiên kiến giới khó tránh khỏi của mình và không xem xét vấn đề từ kinh nghiệm có tính cá nhân. Các hiện tượng, qui luật xã hội phải được phân tích từ bản chất chứ không không phải dừng lại bên ngoài sự vật. Trong quá trình quan sát, điều tra và phỏng vấn tôi cố gắng rút ra những kết luận có tính khái quát, cơ bản, hệ thống chứ không phải kết luạn từ những trường hợp ngẫu nhiên rời rạc. Hơn nữa để xem xét bản chất vai trò giới tôi không dừng lại ở quan niệm của sinh viên mà còn ở những tình huống cụ thể đặt ra yêu cầu họ giải quyết. Luôn luôn xem xét sự vật trong mối quan hệ tương tác với các sự vật xung quanh và giữa các thành tố cấu thành nên nó. Trong nghiên cứu này, vấn đè vai trò giới được nhìn nhận và lý giải trong quan hệ hữu cơ với các yếu tố gia đình, trình đọ học vấn, đặc điểm giới tính, ngành học....trong bối cảnh kinh tế xã hội chung của đất nước. Các nghiên cứu xã hội học thực nghiệm phải được xuất phát từ thực tế lịch sử của mỗi xã hội cụ thể. Vai trò giới là sản phẩm của điều kiện lịch sử cụ thể - đó là xã hội Việt Nam với truyền thống lịch sử, văn hoá lâu đời, riêng biệt và đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với mục tiêu cơ bản là xây dựng xã hội “công bằng – dân chủ – văn minh”. Cách đặt vấn đề cũng như mọi cố gắng lý giải, đề xuất và khuyến nghị trong nghiên cứu này đều xuất phát từ nguyên tắc này. Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử là phương pháp nhận thức khoa học, định hướng cho tác giả nghiên cứu vấn đề vai trò giới một cách khách quan, bản chất, toàn diện, không ngừng vận động và mang tính lịch sử. Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Đề tài được thực hiện dựa trên một số phương pháp cơ bản sau: Quan sát Phân tích tài liệu Phỏng vấn sâu, phỏng vấn nhóm tập trung. Trưng cầu ý kiến Quy trình chọn mẫu như sau: Mẫu chọn gồm 250 sinh viên theo cách chọn mẫu ngẫu nhiên phÂn tầng .Với mỗi trường tôi lập danh sách các khoa và chọn 2 khoa đại diện bằng phương pháp ngẫu nhiên đơn giản, sau đó tương tự chọn ra các lớp đại diện để phát phiếu điều tra , đảm bảo các tỷ lệ như sau: + Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn: Phiếu phát tại khoa Quốc tế học và Triết học gồm 80 sinh viên, trong đó tỷ lệ nữ là 70%, nam là 30%, sinh viên năm thứ nhất và thứ 2 là 50%, năm thứ 3 và thứ 4 là 50% + Trường ĐH Khoa học tự nhiên: Phiếu phát tại khoa Vật lý và khoa Toán học gồm 70 sinh viên, trong đó tỷ lệ nữ là 30%, nam là 70%, sinh viên năm thứ nhất và thứ 2 là 50%, năm thứ 3 và thứ 4 là 50%. + Trường ĐH Kinh tế quốc dân: Phiếu phát tại khoa Ngân hàng – tài chính và Bảo hiểm gồm 80 sinh viên , trong đó tỷ lệ nữ là 50%, nam là 50%, sinh viên năm thứ nhất và thứ 2 là 50%, năm thứ 3 và thứ 4 là 50% -Phương pháp xử lý số liệu: Tôi sử dụng hệ thống xử lý số liệu SPSS và thuật toán kiểm định giả thiết VII. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết GT1 : Tỷ lệ nữ cán bộ Đoàn/Hội/Lớp cấp lớp và khoa có tỷ lệ cao, cấp trường tương đối thấp. GT2 : Sinh viên có xu hướng đánh giá cao vai trò của cán bộ Đoàn/HộiSV/Lớp là nam giới hơn GT3 : Các yếu tố : Hoàn cảnh xuất thân, ngành học, năm học, giới tính,…ảnh hưởng đến việc đánh giá của sinh viên về vai trò giới trong đội ngũ cán bộ Đoàn/Hội/Lớp. KHUNG LÝ THUYẾT Nội Dung I.Cơ sở lý luận của đề tài: Có thể nói các lý thuyết giới khác nhau chủ yếu là ở cách xác định các nguyên nhân và cơ chế nảy sinh, biểu hiện mối quan hệ giữa nam và nữ. Báo cáo này tiếp cận lý thuyết giớ ở 2 góc độ: vĩ mô và vi mô. ở cấp độ vĩ mô, cơ sở lý luận được áp dụng là lý thuyết bất bình đẳng giới và cấp vi mô là lý thuyết học tập – xã hội. 1.Lý thuyết bất bình đẳng giới: Có 4 nội dung cơ bản của lý thuyết bất bình đẳng giới là: Nam và nữ được định vị trong xã hội không chỉ khác biệt mà còn bất bình đẳng. Cụ thể là phụ nữ có ít tiềm năng vật chất, địa vị xã hội, quyền lực và các cơ hội để tự thể hiện tiềm năng hơn nam giới có cùng một vị trí trong xã hội. Sự bất bình đẳng giới xuất phát tự tổ chức của xã hội chứ không phải từ các khác biệt nào về mặt sinh học hoặc có tính cách cá nhân giữa nam và nữ. Không có sự khác biệt tự nhiên quan trọng mang tính khuôn mẫu nào phân biệt giữa các giới tính. Thay vì thế, nhân loại có chung nhu cầu thể hiện tiềm năng và có chung bản chất thích ứng với những kìm hãm hoặc có hội của hoàn cảnh. Phụ nữ về mặt hoàn cảnh ít có khả năng nhận ra nhu cầu thể hiện tiềm năng của mình hơn nam giới. Các nhà lý thuyết bất bình đẳng khẳng định rằng có thể biến đổi được hoàn cảnh. Các nhà lý thuyết bất bình đẳng giới có nhiều quan điểm khác nhau xung quanh việc lý giải sự thua kém cơ hội của ngưới phụ nữ trong cuộc sống so với nam giới. Trong đó, những phân tích của Mác - Ănghen và trường phái lý thuyết “Nữ quyền ự do” về hôn nhân và gia đình rất cơ bản và sâu sắc. Mác - Ănghen khẳng định rằng về mặt quan hệ đối với sự lệ thuộc của phụ nữ nằm ở gia đình, một thể chế mà tên gọi của nó theo nghĩa thích hợp của từ Latinh là “sự giúp việc”, bởi vì gia đình khi tồn tại trong cac xã hội phức hợp là một hệ thống của các vai trò thống trị và phụ thuộc” (Các lý thuyết xã hội học). Còn các nhà lý thuyết nữ quyền tự do, tiêu biểu là nhà xã hội học Jessie Bernard trong cuốn “ Tương lai cua hôn nhân” đa chỉ ra chân dung của hôn nhân như sau: “Hôn nhân cùng một lúc vừa là một hệ thống văn hoá về các niềm tin và lý tưởng, vừa là sự xếp đặt có tính chất thể chế về các vai trò và các tiêu chí, vừa là một phức thể các kinh nghiệm tương tác đối với các cá thể nam và nữ”. Bà phân tích cụ thể: Về mặt văn hoá: Hôn nhăn được lý tưởng hoá thành ra số mệnh và nguồn thoả mãn đối với phụ nữ, một niềm hạnh phúc hỗn hợp của đời sống gia đình, trách nhiệm và sự kìm chế đối với nam giới. Về mặt thể chế: Hôn nhân trao quyền lực cho vai