Đề tài Vai trò và nội dung của hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp

Hoạt động xuất khẩu là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho một quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện so sánh. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một quốc gia hay đối với cả hai quốc gia. Mục đích của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu là khai thác được lợi thế của từng quốc gia và phân công lao động quốc tế. Khi việc trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia có lợi, các quốc gia đều tích cực tham gia mở rộng hoạt động này và thực tế cũng cho thấy nếu một quốc gia chỉ đóng cửa nền kinh tế của mìh, áp dụng phương thức tự cung tự cấp thì không bao giê có cơ hội vươn lên để khẳng định vị trí của mình và nâng cao đời sống nhân dân. Hoạt động kinh doanh xuất khẩu là hình thức cơ bản của ngoại thương đã xuất hiện từ rất lâu đời và ngày càng phát triển, tuy hình thức cơ bản đầu tiên là trao đổi hàng hoá giữa các nước nhưng hiện nay xuất khẩu đã được thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực. Mọi điều kiện kinh tế xuất khẩu hàng hoá tiêu dùng cho đến xuất khẩu tư liệu sản xuất, từ máy móc thiết bị đơn giản đến những máy móc có công nghệ cao. Tất cả các hoạt động trao đổi đó đều nhằm mục tiêu đem lại lợi Ých cho các quốc gia. Hoạt động kinh doanh xuất khẩu diễn ra trên phạm vi rất rộng cả về điều kiện không gian và thời gian. Nó có thể diễn ra trong thời gian rất ngắn nhưng cũng có thể kéo dài nhiều năm, có thể tiến hành trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia hay của nhiều quốc gia khác nhau.

doc24 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1128 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò và nội dung của hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG I Vai trò và nội dung của hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp I . HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU VÀ VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN 1.Khái niệm xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho một quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện so sánh. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một quốc gia hay đối với cả hai quốc gia. Mục đích của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu là khai thác được lợi thế của từng quốc gia và phân công lao động quốc tế. Khi việc trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia có lợi, các quốc gia đều tích cực tham gia mở rộng hoạt động này và thực tế cũng cho thấy nếu một quốc gia chỉ đóng cửa nền kinh tế của mìh, áp dụng phương thức tự cung tự cấp thì không bao giê có cơ hội vươn lên để khẳng định vị trí của mình và nâng cao đời sống nhân dân. Hoạt động kinh doanh xuất khẩu là hình thức cơ bản của ngoại thương đã xuất hiện từ rất lâu đời và ngày càng phát triển, tuy hình thức cơ bản đầu tiên là trao đổi hàng hoá giữa các nước nhưng hiện nay xuất khẩu đã được thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực. Mọi điều kiện kinh tế xuất khẩu hàng hoá tiêu dùng cho đến xuất khẩu tư liệu sản xuất, từ máy móc thiết bị đơn giản đến những máy móc có công nghệ cao. Tất cả các hoạt động trao đổi đó đều nhằm mục tiêu đem lại lợi Ých cho các quốc gia. Hoạt động kinh doanh xuất khẩu diễn ra trên phạm vi rất rộng cả về điều kiện không gian và thời gian. Nó có thể diễn ra trong thời gian rất ngắn nhưng cũng có thể kéo dài nhiều năm, có thể tiến hành trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia hay của nhiều quốc gia khác nhau. Vai trò của xuất khẩu. Phương thức cơ bản nhất để mở rộng hoạt động của doanh nghiệp ra thị trường nước ngoài là thông qua xuất khẩu. Kinh doanh xuất khẩu cũng là một hoạt động kinh doanh quốc tế đầu tiên của doanh nghiệp. Hoạt động này tiếp tục cả khi doanh nghiệp đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh của mình. Có được vị trí như vậy là do xuất khẩu có vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trước hết xuất những nước kém phát triển, phần lớn các doanh nghiệp nằm trong tình trạng khẩu giải quyết vấn đề ngoại tệ cho doanh nghiệp, tạo nguồn vốn để nhập khẩu. Ở những nước kém phát triển, phần lớn các doanh nghiệp nằm trong tình trạng thiếu vốn, công nghệ, thừa lao động phổ thông thiếu lao động đã qua đào tạo. Để giải quyết tình trạng này thì buộc họ phải nhập từ bên ngoài vào những yếu tố mà trong nước chưa có khả năng đáp ứng nhưng làm được điều đó phải có một khối lượng ngoại tệ rất lớn. ThiÕu vèn C«ng nghÖ l¹c hËu Kh¶ n¨ng s¶n xuÊt kÐm Có thể nói đây là “vòng luẩn quẩn” mà các doanh nghiệp tại các nước này gặp phải. Nếu thiếu vốn doanh nghiệp không thể nhập khẩu máy móc thiết bị công nghệ hiện đại, tăng khả năng sản xuất, tạo thế cạnh tranh trên thị trường và cái “vòng luẩn quẩn” đó sẽ ngày càng khép chặt hơn, thiếu sẽ càng thiếu hơn, yếu sẽ càng yếu hơn. Vốn? Đây là cấu hỏi hóc búa nhất không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn rất nan giải đối với chính phủ và các nhà hoạch định chính sách. Vì vậy, một trong những vật cản chính trong quá trình phát triển của doanh nghiệp là thiếu tiềm lực về vốn. Thực tế cho thấy để có vốn một doanh nghiệp có thể huy động nội lực và ngoại lực. Nguồn vốn huy động từ bên ngoài là vô cùng quan trọng, song để huy động được nguồn vốn này doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn. Mọi cơ hội doanh nghiệp được đầu tư hay vay nợ chỉ tăng lên khi các chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng trả nợ của công ty, trong đó họ rất chú ý đến hoạt động xuất khẩu. Và cuối cùng, thì bằng cách này hay cách khác doanh nghiệp cũng phải hoàn lại vốn cho đối tác. Như vậy, nguồn vốn quan trọng nhất chỉ có thể trông chờ vào xuất khẩu. Với đặc điểm của đồng tiền thanh toán phần lớn là ngoại tệ đối với một bên hoặc hai bên, xuất khẩu làm tăng ngoại tệ cho doanh nghiệp, tạo vốn để đổi mới máy móc thiết bị công nghệ , nhập công nghệ mới hiện đại từ các nước dang phát triển nhằm hiện đại hoá và tạo năng lực sản xuất mới. Vì vậy xuất khẩu thúc đẩy khoa học kỹ thuật phát triển làm tăng C, gía trị máy móc thiết bị và làm giảm V, giá trị lao động cấu thành trong giá trị của hàng hoá chuyển dịch cơ cấu tư bản. Từ đó xuất khẩu tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho sản xuất kinh doanh và giúp doanh nghiệp tăng khả năng khai thác lợi thế so sánh của quốc gia. Có thể nói, xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng trưởng nhập khẩu của doanh nghiệp. Tóm lại, xuất khẩu là phương tiện quan trọng thu hót lượng ngoại tệ tạo vốn giúp doanh nghiệp thực hiện tái đầu tư mở rộng sản xuất không những về chiều rộng mà còn về chiều sâu. Thứ hai, xuất khẩu là bước quan trọng để doanh nghiệp xâm nhập và hội nhập vào thị trường thế giới, một thị trường rộng lớn và đa nhu cầu luôn là một thị trường nhiều triển vọng của doanh nghiệp tham gia xuất khẩu. Mục tiêu cuối cùng và bao trùm của mỗi daonh nghiệp là lợi nhuận song lợi nhuận sẽ chỉ đạt được thông qua thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng. Vì vậy hiểu đầy đủ nhu cầu của khách hàng là cơ sở để doanh nghiệp tìm cách thoả mãn tãi đa nhu cầu đó. Điều này lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, vĩ mô và vi mô. Song một thực tế không thể phủ nhận là việc vuơn ra thị trường quốc tế làm tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Thông qua xuất khẩu, doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô khách hàng, cung cấp sản phẩm cho một thị trường rộng lớn đa dân téc, đa nhu cầu. Đặc biệt, tại thị trường quốc tế sức mua của khách hàng rất phong phó, da dạng. Mỗi quốc gia, mỗi dân téc đều có sức mua khác nhau tuỳ theo điều kiện như: Thu nhập, sức mua của đồng tiền, tập tính, thãi quen tiêu dùng. Và đây chính là căn cứ giúp doanh nghiệp lùa chọn những đoạn thị trưòng phù hợp nhằm tối ưu hoá kết quả kinh doanh. Tham gia hoạt động xuất khẩu doanh nghiệp có hể giảm đựoc chi phí cho một đơn vị sản phẩm do nâng cao khối lượng sản xuất nhờ quy mô. Chi phÝ S¶n l­îng Tuy nhiên, lý thuyết này cũng chỉ ra rằng doanh nghiệp chỉ có lợi thế nhờ quy mô khi tăng sản lượng tới một giới hạn cho phép. Và những sản phẩm này phải được thị trường chấp nhận, tiêu thụ. Thông qua xuất khẩu, doanh nghiệp có thể xác định được nhu cầu của khách hàng, cùng như mức độ chấp nhận sản phẩm của doanh nghiệp, từ đó áp dụng hiệu quả lý thuyết nhờ quy mô. Đặc biệt thông qua hợp đồng xuất khẩu, khả năng vượt trội của doanh nghiệp có thể khai thác được. Bởi có những sản phẩm doanh nghiệp không chỉ cung cấp cho thị trường trong nước mà còn có khả năng đáp ứng nhu cầu của thị trường nước ngoài, hoặc thị trường trong nước không thể tiêu thụ được những sản phẩm của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ tận dụng khả năng vượt trội về chất lượng, uy tín sản phẩm của doanh nghiệp, vươn ra chiếm lĩnh thị trường thông qua hoạt động xuất khẩu. Như vậy, doanh nghiệp sẽ khắc phục quy mô nhỏ bé của thị trường nội địa hay tình trạng trì trệ, giảm sút của nó trong những giai đoạn kinh doanh nhất định. Đồng thời khả năng phân tán rủi ro cũng là một ưu diểm rất lớn mà xuất khẩu khuyến khích doanh nghiệp tham gia lĩnh vực này. Nói tóm lại hoạt động giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu cuối cùng và bao trùm của mình là tăng lợi nhuận bằng việc giảm chi phí trên một đơn vị sản phẩm, tăng doanh số bán hạn chế rủi ro. Thứ ba, thông qua xuất khẩu các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia vào cuộc cạnh tranh khốc liệt trên thị trường thế giới (về giá cả, uy tín, chất lượng). Để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp phải nâng cao khả năng cạnh tranh của mình, hình thành một cơ cấu sản xuất phù hợp với thị trường, tạo ra những sản phẩm được tiêu chuẩn hoá cao nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trưòng quốc tế. Thực hiện marketing quốc tế với những nỗ lực về chính sách giá cả, phân phối, xúc tiến nhằm tăng khả năng thu nhập vào các thị trường lớn. Đồng thời nâng cao hiệu quả sản xuất với giá thị trường của nước mình nhằm tăng khả năng phát triển sản phẩm của mình trên thế giới. Từ đó tái đầu tư phát triển sản xuất đặc biệt, xuất khẩu cũng buộc các doanh nghiệp luôn phải đổi mới và hoàn thiện công tác quản trị kinh doanh, đây là một yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại của doanh nghiệp. Và cuối cùng, một vai trò đặc biệt quan trọng nữa của hoạt động xuất khẩu đó là thông qua xuất khẩu doanh nghiệp nâng cao chất lượng đội ngò cán bộ của mình. Con người luôn là chủ thể trong các quan hệ xã hội, vì vậy doanh nghiệp muốn hoạt động có hiệu quả, nhất thiết phải có nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đặt ra trong kinh doanh. Hoạt động xuất khẩu giúp thu hót nhiều lao động có khả năng đáp ứng nhu cầu công việc có chất lượng và hiệu quả. Đặc biệt doanh nghiệp tham gia xuất khẩu còn nâng cao đời sống của mọi cá nhân trong doanh nghiệp- đây chính là động lực để người lao động làm việc có chất lượng- nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. Hơn thế nữa, do các diều kiện tiếp xúc thị trường mới, phương thức quản lý mới, khoa học công nghệ hiện đại. Nếu trình độ của người lao động của toàn doanh nghiệp nói chung và trình độ nghiệp vụ của cán bộ quản lý nói riêng được nâng cao, từng bước đáp ứng nhu cầu thị trường quốc tế. Tuy nhiên, song song với cơ hội là những thách thức mà doanh nghiệp phải đối mặt. Những thách thức này không thể làm nản lòng và hạn chế sự phát triển của doanh nghiệp ra thị trường nước ngoài, ngược lại điều đó buộc các doanh nghiệp phải nhận thức sự cần thiết, hiệu quả để thâm nhập thị trường nước ngoài. Tóm lại, hoạt động xuất khẩu có vai trò vô cùng quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp chuyên doanh XNK. II NỘI DUNG CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU. Nội dung cơ bản của hoạt động xuất khẩu thực tế cũng tương tự như một hoạt động mua bán trong nước nhưng có nhiều yếu tố cơ bản và phức tạp hơn do có yếu tố nước ngoài, bởi vậy doanh nghiệp xuất nhập khẩu muốn hoạt động có hiệu quả thì cần: 1.Nghiên cứu thị trường Nghiên cứu thị trường trong kinh doanh thương mại quốc tế là một loạt các thủ tục và kỹ thuật được đề ra để giúp các nhà kinh doanh có đầy đủ thông tin cần thiết về thị trường của mình từ đó có thể ra quyết định kinh doanh chính xác và hiệu quả. Do vậy, nghiên cứu thị trưòng ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của doanh nghiệp chuyên doanh xuất nhập khẩu. Đứng trên góc độ của doanh nghiệp thì thị trường của doanh nghiệp là tập hợp những khách hàng tiềm năng của doanh nghiệp đó, tức là những khách hàng đang mua hoặc có thể sẽ mua sản phẩm của doanh nghiệp đó. Khi vận dụng khái niệm trên cho thị trường thế giới thì những điểm nêu trên càng rõ nét hơn, sự khác biệt và đa dạng càng trở nên sâu sắc hơn. Do vậy, thị trường quốc tế của doanh nghiệp là tập hợp những khách hàng quốc tế tiềm năng của doanh nghiệp đó. Theo khái niệm trên thì số lượng và cơ cấu nhu cầu của khách hàng nước ngoài đối với sản phẩm cuả doanh nghiệp cũng như sự biến động của các yếu tố đó theo không gian và thời gian là đặc trưng cơ bản của thị trường quốc tế của doanh nghiệp. Số lượng và cơ cấu nhu cầu chiụ ảnh hưởng của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, vĩ mô và vi mô đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải nghiên cứu tỷ mỷ. Thật vậy, thị trường chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố khác nhau, thường là đa dạng và phong phú hơn nhiều so với thị trường nội địa các nhân tố này có trường hợp được thể hiện rõ ràng song cũng có trường hợp rất tiềm Èn, khó nắm bắt. Việc định dạng các nhân tố này này cho phép các doanh nghiệp xác định rõ những nội dung cần đến ngành nghiên cứu trên thị trường quốc tế. Nó cũng là căn cứ để lùa chọn thị trường, cách thức xâm nhập thị trường và các chính sách marketing khác, một cách khái quát nhất việc nghiên cứu thị trường quốc tế được tiến hành theo các nhân tố ảnh hưởng sau: Nghiên cứu các nhân tố mang tính toàn cầu Đó là các yếu tố thuộc về hệ thống thương mại quốc tế. Mặc dù xu hướng chung trên thế giới là tự do mậu dịch và các nỗ lực chung để giảm bớt các hàng rào ngăn cản đối với kinh doanh quốc tế, nhưng các nhà kinh doanh luôn phải đối diện với các hạn chế thương mại khác như thuế quan, hạn ngạch, cấm vận hay hàng rào phi thuế quan như giấy phép nhập khẩu những sự quản lý điều tiết định hình như phân biệt đối xử tiêu chuẩn sản phẩm đối với doanh nghiệp nước ngoài. Mặt khác các liên kết kinh tế vừa tạo lên những cơ hội song cũng tạo nen những thách thức đối với doanh nghiệp tham gia xuất khẩu định thâm nhập vào thị trường đó. Như vậy nghiên cứu các nhân tố mang tính toàn cầu bước đầu sẽ cho doanh nghiệp một cái nhìn tổng quát trứơc khi đưa ra các quyết định kinh doanh của mình. Nghiên cứu các nhân tố thuộc môi trường kinh tế Khi xem xét các thị trường nước ngoài các nhà kinh doanh phải nghiên cứu nền kinh tế của từng nước với ba đặc tính phản ánh sự hấp dẫn của một nứơc như xét một thị trường: Trước hết là cấu trúc công nghiệp của nước đó, cấu trúc công nghiệp của một nước định hình các yêu cầu về sản phẩm và dịch vụ, mức lợi tức và mức độ sử dụng nhân lực, có thể phân biệt các nứóc thành bốn loại cấu trúc như sau: + Nền kinh tế tự cấp tự túc: ở đó tuyệt đại dân cư làm nông nghiệp đơn giản. Họ tiêu thụ hầu hết các sản phẩm làm ra và trao đổi số còn lại để lấy những sản phẩm hàng hoá và dịch vụ khác. Đây là thị trưòng Ýt hấp dẫn đối với các nhà xuất khẩu + Nền kinh tế xuất khẩu nguyên liệu thô: các nước này có một hay nhiều loại tài nguyên phong phú nhưng lại nghèo ở phương diện khác, phần lớn thu nhập là nhờ xuất khẩu tài nguyên. Đây là thị trưòng rất hấp dẫn đối với trang thiết bị khai thác dụng cụ và nhiên liệu, thiết bị xử lý và phương tiện vận chuyển. +Nền kinh tếđang công nghiệp hoá: tại các nứoc này công nghiệp chế biến chiếm từ 10-20% tổng sản phẩm quốc dân. Khi phát triển công nghiệp chế biến các nước này cần nhập khẩu nguyên liệu dệt, thép, cơ khí nặng, công nghiệp hoá tạo ra một tầng líp giàu có mới và trung lưu đang phát triển có nhu cầu về các loại hàng hoá mới, chủ yếu là hàng nhập khẩu. +Nền kinh tế công nghiệp hoá: Đây là những nứoc xuất khẩu nhiều hàng xuất khẩu chế biến và vốn đầu tư. Họ mua bán sản phẩm hế biến và xuất khẩu sang các nước kém phát triển để đổi lấy nguyên liệu thô và sản phẩm sơ chế. Các hoạt động công nghiệp rộng lớn và da dạng cùng một tầng líp trung lưu đông đảo tạo nên những thị trường hấp dẫn đối với mọi lợi sản phẩm. Đặc tính thứ hai về kinh tế là phân bố thu nhập: Sự phân phối thu nhập của một nước bị chi phối bởi cấu trúc công nghiệp song còn chịu tác động của nhân tố chính trị. Thu nhập bình quân đầu người của một nước sẽ phản ánh khả năng thanh toán của quốc gia đó cho những sản phẩm tiêu dùng mà họ nhập khẩu. Đặc tính thứ ba là động thái của các nền kinh tế. Các nước trên thế giới đã trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau được đặc trưng bằng các tốc độ tăng trưởng khác nhau. Tốc độ tăng trưởng kinh tế có ảnh hưỏng đáng kể tới tổng mức nhu cầu của thị trường và tổng mức nhập khẩu của sản phẩm Nghiên cứu các nhân tố từ môi trường chính trị luật pháp Các quốc gia rất khác nhau về môi trưòng chính trị, luật pháp, do đó khi xem xét khả năng mở rộng hoạt động sang một thị trườngnước ngoài cần chú ý tới một số nhân tố cơ bản sau: Thái độ đối với các nhà kinh doanh nước ngoài: Một số nước rất khuyến khích thực sự đối với các nhà đầu tư nước ngoài, còn một số nứơc khác lại có thái độ thù địch. Do vậy, daonh nghiệp có thể gặp nhiều thuận lợi với luật khuyến khích đầu tư, tinh giảm về các luật, về cấp giấy phép và các quy định liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu. Song cũng có thể gặp nhiều trở ngại với những yêu cầu hạn ngạch, hạn chế sử dụng ngoại tệ, quy định về sự có mặt cao của người địa phương trong hội đồng quản trị.. Sự ổn định chính trị: Một đất nước với một chế độ chính trị ổn định là điều kiện căn bản sự tin tưởng cho các nhà kinh doanh nước ngoài có thái độ kinh doanh nghiêm túc. Sự điều tiết về tiền tệ: nhiều quy định về sử dụng ngoại hối cũng có thể gây khó khăn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Trường hợp lý tưởng nhất là được tự do chuyển ngoại tệ. Trường hợp Ýt thuận lợi hơn là các nhà đầu tư là chỉ ra các hàng hoá mà họ cần hay họ xuất khẩu ra nước khác để thu ngoại tệ mà họ cần. Trường hợp xấu nhất là nhà kinh doanh buộc phải chấp nhận những sản phẩm khó bán mà chỉ có thể bán lỗ tại các thị trường khác. Bên cạnh những hạn chế về tiền tệ, tỷ giá hối đới biến động mạnh cũng tạo ra những rủi ro cho nhà kinh doanh xuất khẩu. Tính hiệu lực của bộ máy chính quyền: Đó là mức độ chính quyền nước chủ nhà điều hành một hệ thống hữu hiệu để hỗ trợ cho các doanh nghiệp nước ngoài. Các quyết định mang tính chất quyết định về pháp luật và quản lý cũng cần được xem xét kỹ lưỡng như việc cấm vận hoặc cấm bán đối với số hàng hoá và doanhnghiệp, cấm một só phương thức và hoạt động thương mại, các kiểu kiểm soát về giá cả, các tiêu chuẩn bắt buộc đối với sản phẩm.. Nghiên cứu các nhân tố thuộc môi trường văn hoá Mỗi nước đều có những quy tắc, tập tục, điều kiện riêng. Chúng đựoc hình thành theo điều kiện truyền thống. Văn hoá của mỗi nước có ảnh hưởng to lớn đến tập tục tiêu dùng của khách hàng nước đó. Tuy sù giao lưu văn hoá giữa các nước đã xuất hiện khá nhiều tập tục tiêu dùng cho mọi chế độ. Song những yếu tố văn hoá truyền thống vẫn còn rất bền vững và có ảnh hưởng rất mạnh đến thãi quen và tâm lý tiêu dùng. Đặc biệt chúng được thể hiện rất rõ trong sự khác biệt truyền thống giữa phương Đông và phương tây, giữa các tôn giáo và chủng téc Cần chó ý rằng sự khác biệt về văn hoá có thể diễn ra ngay trong thị trường của một nứơc. Trên thế giới vẫn có những thị trường có bản sắc văn hoá thuần nhất (như Trung Quốc, Nhật..). Song cũng có những thị trường hết sức phức tạp về văn hoá (Hoa Kỳ). Vì thế, khi xem xét sự khác biệt về văn hoá không nhất thiết phải đóng khung trong ranh giới quốc gia Sự khác biệt về văn hoá sẽ ảnh hưởng đến cách thức kinh doanh dược tiến hành, loại sản phẩm mà khách sẽ mua, những hình thức khuyếch trưong có thể chấp nhận được Nghiên cứ các nhân tố thuộc môi trường cạnh tranh Sức hấp dẫn của môi trường nước ngoài còn chịu niều ảnh hưởng quan trọng của mức độ cạnh tranh trên thị trường đó Sử dụng mô hình chuỗi giá trị cho phép phân tích đánh giá được những diểm mạnh, điểm yếu của cạnh tranh. Việc phận tích những điểm mạnh, điểm yếu của cạnh tranh là một trong những nội dung quan trọng khi xem xét thị trường nước ngoài song lại có thể phức tạp hơn những vấn đề khác vì hế nó phải tiến hành trong sự nhận thức của khách hàng, trong tất cả sự méo mó trong ý thức. Khó khăn nữa trong việc xác định tình hình cạnh tranh trong một số nước là do thiếu thông tin đáng tin cậy Mô hình 5 sức mạnh của Micheal- Porter là mô hình được nhiều nhà phân tích sử dụng đánh giá khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp §èi thñ míi - tiÒm n¨ng Sù ®e do¹ cña ®èi thñ c¹nh tranh C¹nh tranh gi÷a c¸c C«ng ty hiÖn t¹i Kh¶ n¨ng mÆc c¶ cña ng­êi mua Ng­êi mua C¹nh tranh gi÷a c¸c C«ng ty hiÖn t¹i Kh¶ n¨ng mÆc c¶ cña ng­êi cung cÊp Nhµ cung cÊp Sù ®e do¹ cña c¸c mÆt hµng, dÞch vô thay thÕ Sơ đồ 1 : Mô hình 5 sức mạnh của Micheal-Porter Trước hết nhà kinh doanh phải đối mặt với các đối thủ cạnh tranh nội địa, ở đấy có thể xẩy ra 2 trường hợp theo vị thế cạnh tranh. Đối thủ cạnh tranh nội địa có thể được hưởng một ưu thế rất thuận tiện do những hỗ trợ của chính phủ và tinh thần dân téc của khách hàng. Ở mét số nước nhất là các nước đang phát triển thì ngựoc lại đối thủ cạnh tranh nội địa có thể phải ở thế bất lợi do sự tín nhiệm của khách hàng đối với uy tín của doanh nghiệp hoặc trở thành nạn nhân của thãi chuộng hàng ngoại. Khi phân tích vị trí cạnh tranh các doanh nghiệp xuất khẩu phải xác dịnh được tâm lý thị trường nội địa ở đó và mức lan truyền của nó. Những diểm này có tầm quan trọng lớn trong việc xác định các chính sách Marketing của doanh nghiệp. Song song với các đối thủ cạnh tranh nội địa, thì doanh nghiệp phải dối mặt với các doanh nghiệp nước ngoài khác hoạt động trong cùng lĩnh vực và mục tiêu thị trường vì vậy doanh nghiệp phải có biện pháp ứng phó trực tiếp, gián tiếp với các nguồn lực có thể rất đá
Tài liệu liên quan