Đề tài Vấn đề công tác xã hội với người khuyết tật

Hiện nay, có rất nhiều khái niệm về người khuyết tật được đưa ra nhưng chung nhất là “người khuyết tật là những người do bị khiếm khuyết nào đó của cơ thể dẫn tới sự giảm sút đáng kể trong việc thực hiện chức năng so với những cá nhân bình thường khác”. Việc sử dụng khái niệm “khuyết tật, tàn tật hay tật nguyền” ở Việt Nam vẫn chưa được thống nhất giữa các nhà chuyên môn. Ở đây chúng ta tạm thời dùng từ “khuyết tật” có nên chăng ta thay đổi cách gọi để mọi người nhìn nhận theo khía cạnh tích cực của nhóm đối tượng này.

doc21 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 11682 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vấn đề công tác xã hội với người khuyết tật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vấn đề công tác xã hội với người khuyết tật 1. Khái niệm về người khuyết tật Khái niệm chung Hiện nay, có rất nhiều khái niệm về người khuyết tật được đưa ra nhưng chung nhất là “người khuyết tật là những người do bị khiếm khuyết nào đó của cơ thể dẫn tới sự giảm sút đáng kể trong việc thực hiện chức năng so với những cá nhân bình thường khác”. Việc sử dụng khái niệm “khuyết tật, tàn tật hay tật nguyền” ở Việt Nam vẫn chưa được thống nhất giữa các nhà chuyên môn. Ở đây chúng ta tạm thời dùng từ “khuyết tật” có nên chăng ta thay đổi cách gọi để mọi người nhìn nhận theo khía cạnh tích cực của nhóm đối tượng này. Ví dụ: Ở một số nơi lại sử dụng nhóm từ “những người có nhu cầu đặc biệt”. Khái niệm người khuyết tật trong Công tác xã hội Người khuyết tật là người không bình thường về sức khỏe do các di chứng hoặc do bệnh tật làm hủy hoại, rối loạn các chức năng của cơ thể, hoặc do hậu quả của những chấn thương dẫn đến những khó khăn trong đời sống cần được xã hội quan tâm, giúp đỡ, bảo vệ. 2. Phân loại người khuyết tật Dựa vào các căn cứ khác nhau, người khuyết tật được chia làm một số nhóm: 1. Về độ tuổi. Có trẻ em khuyết tật (1 tháng tuổi - 18 tuổi) Người lớn khuyết tật (18 tuổi trở lên). 2. Về nguồn gốc khuyết tật. - Khuyết tật từ nhỏ, ngay từ khi sinh ra đã bị khuyết tật về một phần, chức năng nào đó của cơ thể. - Khuyết tật do chiến tranh (thương binh): là người bình thường khi tham gia chiến đấu do hậu quả của bom đạn, kẻ thù… làm ảnh hưởng đến cơ thể. - Khuyết tật do tai nạn lao động: trong quá trình sinh hoạt, làm việc do không cẩn thận đã dẫn đến chấn thương lớn làm ảnh hưởng lâu dài tới cơ thể dẫn đến hậu quả không đáng có. Vì vậy, việc đề cao vấn đề an toàn lao động là hết sức cần thiết. - Khuyết tật do bệnh nói chung: là nhóm người khuyết tật do di chứng của những căn bệnh cũ để lại. Ví dụ: Một số người do tai biến mạch máu não đã bị liệt nửa người hoặc toàn thân… 3. Về mức độ khả nang lao động. - Những người khuyết tật nhóm 1: mất kahr năng lao động. - Những người khuyết tật nhóm 2: tạm thời mất khả năng lao động hoặc còn khả năng lao động trong những lĩnh vực hạn chế. Ví dụ: Người tàn tật do bị mất một chân họ vẫn có thể tham gia hoạt động và làm việc ở lĩnh vực khác như bán hàng, học tập… - Những người khuyết tật nhóm 3: còn khả năng lao động trong những điều kiện được ưu ái. Ví dụ: Người mù tại nhiều nơi được tạo điều kiện làm việc và học tập (chữ nổi), làm tăm… 4. Về tính chất bệnh tật. Những người khuyết tật có thể được liệt vào các nhóm: - Cơ động được: vẫn có thể có hoạt động, tham gia làm việc ở lĩnh vực có thể. - Ít cơ động: hạn chế mức độ hoạt động. - Bất động: không thể hoạt động cơ thể được (liệt). ( Tùy theo sự quy thuộc nhóm này hay nhóm khác mà giải quyết các vấn đề về bố trí công ăn việc làm và tổ chức sinh hoạt đời sống cho người khuyết tật. Đối với những người khuyết tật ít cơ động (có khả năng di chuyển chỉ khi nhờ có xe lăn hay nạng chống) có thể làm việc ở nhà hoặc chuyên chở giúp họ đến nơi làm việc. Đối với những người khuyết tật bất động không di chuyển được nếu không có người khác giúp đỡ họ có thể làm những công việc về trí óc như: nghiên cứu khoa học, viết sách báo, sáng tác văn học nghệ thuật… Đối với những người bị mù nhưng vẫn đi lại được thì những người làm Công tác xã hội hay các tổ chức xã hội cần trực tiếp giúp đỡ họ… 3. Một số đặc điểm tâm sinh lý, nhu cầu của người khuyết tật Là một nhà Công tác xã hội, muốn giúp đỡ và giải quyết những khó khăn của người khuyết tật thì trước hết phải hiểu về tâm lý, nhu cầu của các nhóm người khuyết tật - nhóm yếu thế. Ngoài những nhu cầu chung nhất họ còn có những đòi hỏi riêng mà nhà Công tác xã hội cần chú ý: - Sự thiếu hụt về thể chất dẫn tới khả năng hoạt động chức năng của người khuyết tật có thể bị giảm sút, vì vậy họ gặp nhiều khó khăn, trở ngại trong sinh hoạt, lao động, học tập… Do đó gia đình vfa xã hội cần có hỗ trợ, ưu tiên đặc biệt cho nhóm đối tượng này như: chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng, làm tay chân giả, cung cấp xe lăn, máy trợ thính, thiết bị tiện nghi, nhà ở … cần có được các dịch vụ giáo dục đặc biệt dành cho người khuyết tật. Ví dụ: Dạy chữ nổi Braile cho người mù, chương trình giáo dục đặc biệt cho trẻ câm điếc,… - Cơ chế bù trừ chức năng của các cơ quan cảm giác ở người khuyết tật được thể hiện rõ nét: khi họ mất đi khả năng hoạt động của cơ quan cảm giác nào đó thì ở họ khả năng hoạt động của các cơ quan còn lại rất phát triển và sự nhận biết thế giới xung quanh thực hiện chủ yếu thông qua giác quan còn lại này. Ví dụ: Người mù do mất đi khả năng thị giác nên độ nhạy cảm của cơ quan thính giác, xúc giác phát triển. Với đặc điểm trên, khi thực hiện các hoạt động dạy học, dạy nghề… ta cần vận dụng tối đa sự tham gia của các cơ quan cảm giác còn lại (cần nghiên cứu, thiết kế nhiều đồ dùng học tập để khi giảng dạy người câm điếc ta tăng cường sử dụng hình ảnh trực quan, các động tác tay chân để mô phỏng, ngược lại với người mù phải tích cực hỗ trợ bằng các phương tiện nghe, sờ… - Do mất hoặc giảm khả năng hoạt động một trong các cơ quan tiếp nhận thông tin cần thiết cho hoạt động nhận thức nên phần lớn một số người khuyết tật giác quan, tật thần kinh… hoạt động tư duy có phần bị giảm sút về tốc độ do khối lượng thông tin cần tiếp thu bị hạn chế (những người tật vận động thì vẫn bình thường). Chính vì vậy trong hoạt động giáo dục, dạy nghề ta cần cung cấp thông tin qua nhiều kênh, nhiều nguồn bằng nhiều biện pháp để tăng cường lượng thông tin cho hoạt động nhận thức của đối tượng. Ví dụ: Dạy trẻ câm điếc ta dùng hình ảnh để trẻ nhìn, dùng vật mà trực tiếp tiếp xúc được, thậm chí dùng độ rung của âm thanh để trẻ được cảm nhận. - Do bị bệnh tật, khó khăn đi lại hoặc giao tiếp nên hoạt động lao động, giao lưu hạn chế hơn so với người bình thường nếu không có hỗ trợ xã hội thì phạm vi quan hệ xã hội ở người khuyết tật sẽ bị thu hẹp. Do đó, gia đình và xã hội cần tạo điều kiện cho đối tượng hòa nhập vào cuộc sống xã hội của những người bình thường. Ví dụ: Tổ chức các câu lạc bộ, các sinh hoạt giải trí, thể thao… để họ có dịp được gặp, tạo cơ hội để trẻ khuyết tật học chung lớp với trẻ em bình thường để xóa bỏ mặc cảm. - Họ cần được học văn hóa, học nghề phù hợp với dạng tật: các công việc thủ công đòi hỏi sự tỉ mỉ, kiên nhẫn có thể phù hợp với họ. Việc làm vừa đem lại cho họ niềm vui trong lao động, vừa giúp họ có thu nhập… điều này giúp họ giảm bớt tâm lý bị phụ thuộc vào kinh tế, tâm lí bị bỏ đi… - Môi trường cộng đồng và gia đình cũng cần được thích ứng với hoàn cảnh của người khuyết tật. Ví dụ: Trong gia đình, tại trường học, các khu công cộng cần được thiết kế các phương tiện sinh hoạt phù hợp với nhu cầu người khuyết tật. - Do sự thiếu hụt dẫn đến những cản trở trong sinh hoạt, lao động trên nên người khuyết tật thường bị ức chế dẫn đến bi quan, chán nản, tự ti hay cáu gắt, nóng nảy… Ngay cả khi này, họ cũng cần được chấp nhận, tôn trọng. Cộng đồng và xã hội cần giáo dục mọi người tránh cử chỉ, hành vi miệt thị xa lánh, cần loại bỏ những tên gọi theo dị tật như “thằng què, con cụt”… xúc phạm đến họ. - Cần động viên khuyến khích, phát huy những mặt tích cực của than chủ. Bên cạnh những khó khăn trên mà người khuyết tật phải trỉa qua, nhưng họ lại là người rất giàu về nghị lực để vượt qua khó khăn của tật nguyên. Với sự hỗ trợ thích hợp của gia đình và xã hội một số người khuyết tật đã đạt được nhiều thành tích cao trong lao động và học tập. - Mặt khác họ là người có đời sống nội tâm rất nhạy ảm và tế nhị, họ rất thông cảm với những khó khăn của người khác hơn cả so với người bình thường. Chính vì vậy, họ là những người hoạt động rất có hiệu quả trong các nhóm tự giúp. Tại đây họ giúp nhau vượt qua khó khăn của bệnh tật, chia sẻ kinh nghiệm với nhau để thích nghi tốt hơn. 5. Cơ sở pháp lý của việc bảo vệ người khuyết tật về mặt xã hội - Những nhân vien Công tác xã hội phải nắm bắt được cac văn bản liên ngành về pháp lý xác định quy chế người khuyết tật. Quyền lợi chung thuộc người khuyết tật được nêu trong Tuyên ngôn Liên Hợp Quốc “Về quyền lợi của người khuyết tật”. - Một số điều trong văn kiện pháp lý quốc tế đã nêu rõ: “Người khuyết tật có quyền được tôn trọng nhân phẩm, có quyển công dân, quyền lợi chính trị, có quyền được hưởng các biện pháp nhằm có được sự độc lập tự chủ càng nhiều càng tốt, có quyền được hưởng sự điều trị về y tế, về kỹ thuật nhằm phục hồi sức khỏe và vị thế trong xã hội, có quyền được đi học, đào tạo nghề nghiệp, tư vấn, bố trí công ăn việc làm và phải được bảo vệ trước bất cứ hình thức bóc lột nào” - Các văn bản nền tảng mang tính pháp lý cũng đã được áp dụng nhiều ở các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Với ý nghĩa để xác định quyền hạn của người khuyết tật trách nhiệm của nhà nước, của các tổ chức từ thiện của các cá nhân với việc phục vụ xã hội đối với những người khuyết tật. 6. Góc độ bảo vệ người khuyết tật về mặt y tế, xã hội - Hướng trợ giúp người khuyết tật về mặt y tế xã hội có một vị trí đáng kể trong tổng thể các biện pháp quan tâm xã hội về bố trí công ăn việc làm và về sinh hoạt đời sống cho những người khuyết tật. - Người làm Công tác xã hội phải luôn sẵn sàng giúp đỡ người khuyết tật giải quyết hàng loạt vấn đề có tính chất pháp lý tâm lý học, sư phạm học, điều này rất quan trọng, có tính chất y tế, xã hội. - Người làm Công tác xã hội phải nắm được các thủ tục gửi họ đi giám định y tế xã hội, xác định nguyên nhân và nhóm khuyết tật mức độ mất khả năng lao động, xác định các hình thức khối lượng và thời hạn phục hồi chức năng cho họ cũng như các biện pháp về mặt xã hội, nêu lên những kiến nghị và việc bố trí lao động cho họ. - Sự trợ giúp về y tế, xã hội sẽ làm dịu đi nỗi đau của người khuyết tật, thúc đẩy quá trình phục hồi tâm lý cho họ. Phải đặt biệt quan tâm đến những gia đình người khuyết tật là trẻ nhỏ. Trẻ tàn tật cần được chăm sóc, theo dõi thường xuyên đảm bảo đầy đủ các nhu cầu về đời sống cho trẻ. - Trong các trách nhiệm của người làm Công tác xã hội có việc tổ chức giúp đỡ y tế cho người khuyết tật, tổ chức khi tiến hành phục hồi chức năng trong điều kiện tập trung ở một số nơi quy định hay tại gia, giúp đỡ đi nghỉ ngơi, điều dưỡng chữa bệnh, mua sắm thiết bị luyện tập, chỉ bảo cụ thể cho cha mẹ trẻ khuyết tật, tổ chức sản xuất ở nhà cho họ… 7. Góc độ quản lý các hoạt động quan tâm đến người khuyết tật - Sự quan tâm của xã hội… không thể thiếu các cơ quan quản lý. Hệ thống quản lý các công việc về người khuyết tật nhiều cấp nhiều góc độ này đảm bảo đáp ứng được các nh cầu của đối tượng đặc thù này. Song một vấn đề chính còn tồn tại là khâu tổ chức làm thủ tục đầy đủ chứng nhận mức độ khuyết tật. - Đối với 1 con người khuyết tật phải có lòng bao dung, từ tâm tham gia vào việc đảm bảo cho người khuyết tật có những điều kiện cần thiết cho một cuộc sống theo đúng nghĩa của nó. Chính sách nhà nước đối với người khuyết tật được thực hiện thông qua các cơ cấu tổ chức nhà nước, tổ chức phi chính phủ và các hiệp hội. Hiện nay nhiều tổ chức xã hội, ở nhiều quốc gia đã có nhiều chương trình hoạt động tích cực đưa người khuyết tật hòa nhập vào cộng đồng (các kỳ PARAGAMES). Việc tiến hành được các hoạt động này là cả một quá trình mà các nhà Công tác xã hội đã bỏ nhiều công sức. Họ đã và đang cố gắng tìm được nhiều hơn những người, tổ chức, các nhà bảo trợ hướng tới việc giúp đỡ cho người khuyết tật. - Sự bảo trợ xã hội và Công tác xã hội phải đảm bảo cho họ có được những khả năng, những điều kiện ngang bằng nhau trong việc thực hiện các quyền của họ, loại bỏ những hạn chế trong sinh hoạt, tạo mọi điều kiện cho họ được tham gia tích cực vào tất cả các mặt của đời sống xã hội. Họ cần được giúp đỡ để thích nghi với cuộc sống. 8. Công tác xã hội đối với thương binh Việt Nam, một đất nước đã phải chịu đựng cuộc chiến tranh hủy diệt thật tàn khốc trong thế kỷ XX. Đây là một cuộc chiến tranh không cân sức, nhưng với truyền thống chống giặc ngoại xâm dân tộc Việt Nam đã anh hùng đánh thắng 2 đế quốc Pháp và Mỹ, giữ vững độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc. Thương binh, đây là nhóm người đã hi sinh một phần cơ thể hoặc đã mang trên mình di chứng của chiến tranh. Đó chính là một bộ phận những người có công với cách mạng. Đóng góp của họ mãi được tôn vinh, Tổ quốc luôn ghi ơn và toàn xã hội phải có trách nhiệm nuôi dưỡng, chăm sóc, giúp đỡ họ. - Nhà nước phải xây dựng một hệ thống chính sách trợ cấp thương binh (dựa vào từng loại thương tật). Hàng năm, có chế độ chăm sóc sức khỏe, định kì giám định thương tật để điều chỉnh chế độ đãi ngộ; vận động các tổ chức xã hội, các cấp cq, đoàn thể… thường xuyên quan tâm, giúp đỡ thương bệnh binh và gia đình họ cả vật chất và tinh thần. - Tư vấn, giúp đỡ và ưu đãi trong vấn đề việc làm phù hợp với điều kiện thương tật. Phát huy mọi tiềm năng của họ sống có ích cho gia đình và đóng góp cho xã hội theo lời dạy của Bác “Tàn nhưng không phế”. 9. Tăng cường thực hiện chính sách về việc làm cho người khuyết tật Sáng 15/12/2006, tại Hà Nội, Văn phòng Điều phối các hoạt động hỗ trợ người tàn tật Việt Nam, Hội người khuyết tật Hà Nội và Tổ chức lao động Quốc tế (ILO) tổ chức hội thảo “thực hiện các chính sách pháp luật về việc làm liên quan đến nhu cầu của người khuyết tật”. Hội thảo đã qui tụ đông đủ nhóm đại biểu có thể tư vấn và đưa ra được những chính sách, giải pháp thích hợp về vấn đề việc làm cho người khuyết tật, đó là đại diện của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam. VCCI, ILO và một số chủ sử dụng lao động khuyết tật từ các miền trong cả nước… *. Bức tranh “việc làm” của người khuyết tật. Việt Nam hiện có trên 5,3 triệu người khuyết tật, chiếm 6,34% dân số. Người khuyết tật ở độ tuổi lao động từ 16-55 đối với nữ và từ 16-60 đối với nam, chiếm trên 69%. Một thực tế là hơn 80% người khuyết tật sống ở nông thôn với các điều kiện về cơ sở hạ tầng, điều kiện sống, phương tiện sinh hoạt chuyên dùng còn nhiều thiếu thốn, do vậy họ gặp nhieeuftr[r ngại về đi lại và giao tiếp với cộng đồng, xã hội. Trình độ học vẫn của người tàn tật cũng rất thấp, gần 36% không biết chữ, chỉ có 20,7% có trình độ tiểu học và 24,5% trung học cơ sở. Đại bộ phận tàn tật không thể sống tự lập, khoảng 70% phải sống dựa vào gia đình, chỉ khoảng trên 25% có hoạt động tạo thu nhập bằng các nghề thủ công truyền thống như đan lát mây, tre, làm chổi, dệt đay, bện thừng, trồng rau, chăn nuôi gia súc, gia cầm… ở nhiều nơi, người khuyết tật còn làm việc theo tổ, nhóm trong các hợp tác xã, sản xuất kinh doanh do người khuyết tật tự thành lập. Nhiều người lại làm việc tại nhà, được giao nguyên liệu và thu nhận sản phẩm. Việc làm của người khuyết tật ở nông thôn đã góp phần nhất định vào thu nhập của gia đình và tạo cho họ một cuộc sống độc lập, tạo vị thế bình đẳng và hòa nhập nhất định. Có việc làm và được làm việc luôn luôn là nguyện vọng cháy bỏng của người khuyết tật và mỗi quốc gia đều có quy định tỷ lệ nhận người khuyết tật vào làm việc trong doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Ở Việt Nam, lĩnh vực này thực hiện chưa có hiệu quả, mặc dù văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước đã ban hành khá đầy đủ. *Về việc làm cho người khuyết tật. Nếu như năm 1995 mới có 177 cơ sở với trên 7.800 lao động là người tàn tật thì nay trên toàn quốc, hiện có hơn 400 cơ sở với khoảng hơn 20.000 người knt đang làm việc. Trong số đó, co nơi có trên 350 người khuyết tật đang làm việc như Công ty Chân - Thiện - Mỹ ở Hải Dương và Bắc Ninh, nhưng ngược lại cũng có những doanh nghiệp chỉ có 5 - 6 người. Riêng Hội người mù quản lý 146 cơ sở, thu hút khoảng 4.000 lao động. Quỹ quốc gia về việc làm đã giao cho tổ chức này quản lý trên 31 tỉ đồng, giúp khoảng 13 nghìn hội viên được vay vốn để phát triển sản xuất kinh doanh, tạo việc làm… Mặc dù các địa phương đã và đang cố gắng tạo điều kiện, hỗ trợ sản xuất kinh doanh đối với ntt, song việc làm cho đối tượng này vẫn là vấn đề rất nan giải và chưa có giải pháp hiệu quả. Cho đến nay, người khuyết tật và các tổ chức Hội của người khuyết tật tự vận động, tự tạo việc làm là chính thông qua việc thành lập các cơ sở sản xuất, kinh doanh. Sự trợ giúp theo quy định của pháp luật là rất hạn chế. Hiệp hội sản xuất, kinh doanh của người khuyết tật Việt Nam (VABED) được thành lập tháng 9/2003. Sau hơn 3 năm hoạt động, Hiệp hội đã phát triển từ 113 lên 240 cơ sở hội viên, trong đó cso 57 đơn vị có chức năng dạy nghề. Năm 2006, các cơ sở này đã đào tạo được 416 hội viên là người khuyết tật bằng ngân sách Nhà nước và đã có 70% số người sau khoa học đã được bố trí việc làm tại doanh nghiệp. * Về tỷ lệ người khuyết tật mà các doanh nghiệp phải nhận vào làm. Theo quy định hiện hành là 2% hoặc 3% tùy theo ngành nghề, hoặc phải đóng một khoản tiền trên cơ sở số người lao động tàn tật còn chưa đủ, vào quỹ việc làm cho người khuyết tật. Tuy nhiên, qua kiểm tra giám sát của ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội thì ngoài một vài điển hình tốt như Chi cục Thuế thành phần Hồ Chí Minh, Công ty Chân - Thiện - Mỹ đã nêu trên, Công ty Chanshins Đồng Nai và các cơ sở sản xuất kinh doanh dành riêng cho người khuyết tật… còn lại hầu như rất ít nơi thực hiện quy định này với nhiều lý do được đưa ra để từ chối nhận người khuyết tật vào làm việc. Mặt khác, do chỉ có khoảng 3% tổng số người khuyết tật được đào tạo nghề, vì vậy các doanh nghiệp cũng khó mà tìm được người khuyết tật đã được đào tạo nghề một cách bài bản. Trong khi đó, đối với những doanh nghiệp nghiêm túc thực hiện quy định của pháp luật, nhận nhiều lao động là người khuyết tật (thậm chí cao hơn tỷ lệ quy định) cũng chưa nhận được hỗ trợ theo quy định. Nguyên nhân là do Quỹ việc làm dành cho người khuyết tật nhiều nơi chưa được hình thành và thậm chí cả cơ sở sản xuất, kinh doanh của người khuyết tật cũng chưa nhận được hỗ trợ này ngoài việc được miễn thuế thu nhập. Thực tế, một số doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh nhận được sự hỗ trợ là do chính sách thu hút và khuyến khích đầu tư của địa phương đối với tất cả các doanh nghiệp chứ không phải là ưu đãi riêng theo quy định của pháp luật về người khuyết tật. * Về quỹ việc làm cho người khuyết tật. Theo quy định của pháp luật, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm lập quỹ, tuy nhiên, đến nay cả nước mới chỉ có 6 tỉnh làm được điều này, và không có cơ quan nào giám sát và kiểm quán việc doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ đối với quỹ này. Nguyên nhân chính là do hầu hết các địa phương thiếu quan tâm, chỉ đạo thực hiện và các ban, ngành Trung ương cũng chưa đôn đốc sát sao việc thực hiện. Ngoài ra, đối với các tỉnh, thành phố đã thành lập quỹ thì cũng chưa trích ngân sách dành cho quỹ, vì vậy, việc thực hiện còn rất bất cập. * Về dạy nghề đối với người khuyết tật. Còn rất khiếm tốn, hàng năm mới chỉ khoảng 100 cơ sở hướng nghiệp dạy nghề cho khoảng 5.000 đến 6.000 người khuyết tật. Con số này còn rất thấp so với nhu cầu, Riêng việc dạy nghề ngắn hạn cho người khuyết tật từ nguồn kinh phí của Chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục và đào tạo đã thu hút được những kết quả khả quan: năm 2005 với 11,5 tỷ đồng đã đào tạo 3.400 người khuyết tật, năm 2006 với 18 tỷ đồng, dự kiến đào tạo được 5.500 người khuyết tật. Theo quy định, mỗi người khuyết tật học nghề ngắn hạn được hỗ trợ 540.000 đồng/tháng, trong đó có 300.000 đồng học nghề, còn 240.000 đồng là hỗ trợ đi lại, ăn, ở. Có thể thấy, công tác dạy nghề nói chung và dạy nghề cho người khuyết tật nói riêng: Nội dung, chương trình, nghề đào tạo, hình thức đào tạo chưa hợp lý về kết cấu, quá nặng về lý thuyết, thiếu thực hành; chưa có những giáo trình và các thiết bị dạy nghề dành riêng cho người khuyết tật; đội ngũ giáo viên dạy nghề cho người khuyết tật còn yếu cả về kiến thức, kỹ năng và nhận thức về các lĩnh vực kĩ thuật, sư phạm và quản lý. * Chính sách và pháp luật phải được thực hiện. Nhìn lại bức tranh học nghề và tạo việc làm cho người khuyết tật Việt Nam trong 5 năm qua, chúng ta thừa nhận ràng tuy đã có một bước tiến bộ tích cực song rõ ràng việc thực hiện lp và chính sách về việc làm đối với người khuyết
Tài liệu liên quan