Đề tài Xuất nhập khẩu hàng hóa và hoạt động xúc tiến thương mại của Việt Nam

Theo A.Smith: Lợi thế tuyệt đối đề cập tới số lượng của một loại sản phẩm có thể được sản xuất ra, sử dụng cùng một nguồn lực ở hai nước khác nhau. Một nước được coi là có lợi thế tuyệt đối so với nước kia trong việc sản xuất hàng hoá A khi cùng một nguồn lực có thể sản xuất được nhiều hơn sản phẩm A ở nước thứ nhất hơn nước thứ hai.

doc82 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1435 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xuất nhập khẩu hàng hóa và hoạt động xúc tiến thương mại của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương I: Cơ sở lý thuyết của thương mại quốc tế và vai trò của xúc tiến thương mại đối với xuất khẩu hàng hoá trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế Cơ sở lý thuyết của xuất khẩu hàng hoá trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế 1. Các lý thuyết chính về trao đổi thương mại quốc tế Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của A. Smith Theo A.Smith: Lợi thế tuyệt đối đề cập tới số lượng của một loại sản phẩm có thể được sản xuất ra, sử dụng cùng một nguồn lực ở hai nước khác nhau. Một nước được coi là có lợi thế tuyệt đối so với nước kia trong việc sản xuất hàng hoá A khi cùng một nguồn lực có thể sản xuất được nhiều hơn sản phẩm A ở nước thứ nhất hơn nước thứ hai. A.Smith cũng cho rằng, nếu quốc gia chuyên môn hoá vào những ngành sản xuất mà họ có lợi thế tuyệt đối thì cho phép họ sản xuất sản phẩm với chi phí hiệu quả hơn nước khác. Ví dụ: Lượng lúa gạo và vải vóc có thể được sản xuất với một đơn vị nguồn lực ở Việt Nam và Hàn Quốc như sau: Bảng 1: Ví dụ về lợi thế tuyệt đối Nước Lúa gạo (tạ) Vải (mét) Việt Nam 10 6 Hàn Quốc 5 10 Căn cứ số liệu ở bảng trên thì Việt Nam có lợi thế tuyệt đối về lúa gạo vì cùng một đơn vị nguồn lực Việt Nam có thể sản xuất được 10 tạ lúa gạo trong khi Hàn Quốc chỉ sản xuất được 5 tạ lúa gạo, vì thế Việt nam sẽ chuyên môn hoá sản xuất lúa gạo để trao đổi thương mại quố tế. Giải thích tương tự, Hàn Quốc có lợi thế tuyệt đối về vải và nước này nên chuyên môn hoá sản xuất vảI để tham gia thương mại quốc tế. Nhờ sự chuyên môn hoá, các nước có thể gia tăng hiệu quả do: (1) người lao động sẽ lành nghề hơn do họ lặp lại cùng một thao tác nhiều lần; (2) người lao động không phải mất thời gian chuyển từ việc sản xuất sản phẩm này sang sản phẩm khác và (3) do làm một công việc lâu dài, người lao động sẽ nảy sinh ra sáng kiến đề xuất các phương pháp làm việc tốt hơn. Tuy nhiên, một nước nên chuyên môn hoá vào những sản phẩm nào? Mặc dù, A. Smith cho rằng thị trường chính là nơi quyết định nhưng ông vẫn nghĩ rằng lợi thế của một nước có thể là lợi thế tự nhiên hay do nỗ lực của nước đó. Lợi thế tự nhiên liên quan đến các điều kiện khí hậu và tự nhiên. Còn lợi thế do nỗ lực là lợi thế có được do sự phát triển của kỹ thuật và sự lành nghề. Điều kiện tự nhiên có thể đóng vai trò quyết định trong việc sản xuất có hiệu quả rất nhiều sản phẩm như chè, cà phê, cao su..., các loại khoáng sản. Nhưng ngày nay, người ta thường buôn bán, trao đổi các loại hàng hoá đã được sản xuất công phu hơn là các nông phẩm hay tài nguyên thiên nhiên nguyên khai hoặc sơ chế, quy trình sản xuất các loại hàng hoá này phần lớn phụ thuộc vào “lợi thế do nỗ lực”. Lý thuyết lợi thế so sánh của D. Ricardo Khi mỗi nước có lợi thế tuyệt đối so với nước khác về một loại hàng hoá, lợi ích ngoại thương là rõ ràng. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu một nước có thể sản xuất có hiệu quả hơn nước kia trong hầu hết các mặt hàng? Hoặc những nước không có lợi thế tuyệt đối nào cả thì chỗ đứng của họ trong phân công lao động quốc tế là ở đâu, và ngoại thương diễn ra như thế nào? Lý thuyết về lợi thế so sánh của D.Ricardo sẽ là câu trả lời cho câu hỏi này. Theo D.Ricardo, cơ chế xuất hiện lợi ích trong thương mại quốc tế là: - Mọi nước đều có lợi khi tham gia vào phân công lao động quốc tế bởi vì ngoại thương cho phép mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước do chỉ chuyên môn hoá vào sản xuất một số sản phẩm nhất định và xuất khẩu hàng hoá của mình để đổi lấy hàng nhập khẩu từ nước khác. - Những nước có lợi thế tuyệt đối hoàn toàn hơn nước khác, hoặc bị kém lợi thế tuyệt đối hơn so với nước khác trong việc sản xuất mọi sản phẩm thì vẫn có lợi khi tham gia vào phân công lao động quốc tế bởi vì mỗi nước có một lợi thế so sánh nhất định về một số mặt hàng và kém lợi thế so sánh về một số mặt hàng. Như vậy, một nước A gọi là có lợi thế so sánh so với một nước khác về một mặt hàng nào đó khi việc sản xuất ra mặt hàng đó ở nước A có chi phí cơ hội thấp hơn. Ví dụ: 1.3Lý thuyết của Hecksher – Ohlin ( Lý thuyết H/O hay Mô hình H/O) về mối quan hệ giữa các yếu tố sẵn có và chuyên môn hoá quốc tế Lý thuyết về lợi thế so sánh của Ricardo vẫn chưa giải thích được nguyên nhân xuất hiện lợi thế so sánh, và vì sao các nước khác nhau lại có chi phí cơ hội khác nhau. Để khắc phục hạn chế này, hai nhà kinh tế học Thuỵ Điển là Eli Hecksher và B. Ohlin trong tác phẩm “Thương mại liên khu vực và quốc tế’ xuất bản năm 1993 đã phát triển lý thuyết lợi thế so sánh của Ricardo bằng việc xác định nguồn gốc của lợi thế so sánh chính là sự ưu đãi về các yếu tố sản xuất mà kinh tế học phát triển đương đại vẫn gọi là nguồn lực sản xuất. Do đó, lý thuyết của Hecksher – Ohin còn được gọi là lý thuyết lợi thế so sánh về các nguồn lực sản xuất sẵn có, đã tính đến những khác biệt về cung ứng yếu tố (chủ yếu là đất đai, lao động và vốn) khi chuyên môn hoá quốc tế. Lý thuyết này chứng minh rằng, một nước sẽ thu lợi qua buôn bán nếu xuất khẩu một hàng hoá được sản xuất bằng việc sử dụng ở mức cao yếu tố sản xuất mà nước đó có tương đối nhiều (và rẻ) và nhập những hàng hoá mà việc sản xuất đòi hỏi sử dụng ở mức cao các yếu tố sản xuất mà ở nước mình có ít. Thương mại quốc tế dựa vào những khác biệt về yếu tố sản xuất hiện có của mỗi nước, ví dụ Việt Nam có nhiều lao động và Nhật Bản có nhiều vốn. Việt Nam có lợi thế so sánh về những hàng hoá đòi hỏi nhiều lao động (chẳng hạn sản phẩm dệt) và Nhật Bản có lợi thế so sánh về những hàng hoá đòi hỏi nhiều vốn; điều đó cũng có nghĩa là chi phí cơ hội của hàng dệt (đo bằng sản lượng thép để sản xuất ra một đơn vị hàng dệt) ở Nhật lớn hơn ở Việt Nam. Lý thuyết H/O dựa trên hai giả định quan trọng: Một là, các sản phẩm khác nhau cần các yếu tố sản xuất ở các tỷ lệ khác nhau. Ví dụ, sản phẩm nông nghiệp nói chung cần tỷ lệ lao động tương đối lớn hơn trên mỗi đơn vị vốn, trong khi sản phẩm công nghiệp cần nhiều thời gian máy (vốn) hơn trên mỗi công nhân so với hầu hết các sản phẩm nguyên khai. Các tỷ lệ mà trong đó các yếu tố thực sự được sử dụng để sản xuất ra các sản phẩm khác nhau sẽ phụ thuộc vào các giá tương đối. Tuy nhiên, bất kể các yếu tố có thế nào chăng nữa, một số sản phẩm nhất định sẽ luôn luôn cần tương đối nhiều vốn hơn trong khi một số khác thì sẽ cần tương đối nhiều lao động hơn. Hai là, các nước sẵn có các yếu tố sản xuất khác nhau. Một số nước có số vốn lớn trên mỗi công nhân và do vậy gọi là “dư thừa vốn” trong khi các nứơc khác lại có ít vốn và nhiều lao động, do đó được gọi là “dư thừa lao động”. Nói chung, các nước phát triển được coi là tương đối dư thừa vốn (người ta cũng nói thêm rằng họ có nhiều lao động có kỹ năng hơn), trong khi các nước đang phát triển có ít vốn và nhiều lao động không có kỹ năng, nghĩa là họ là các nước dư thừa lao động. Nói cách khác , cơ sở của mậu dịch nảy sinh không phải vì có sự khác biệt vốn có về công nghệ trong năng suất lao động đối với các sản phẩm khác nhau giữa các nước khác nhau, mà bởi vì các nước sẳn có các yếu tố khác nhau. Lý thuyết này đã giải thích hiện tượng thương mại quốc tế là do trong một nền kinh tế mở cửa, mỗi nước đều hướng đến chuyên môn hoá các ngành sản xuất cho phép sử dụng nhiều nhất các nhân tố sản xuất mà đối với nước đó là thuận lợi nhất (ví dụ như tài nguyên thiên nhiên, lao động hay vốn...). Nói cách khác, theo lý thuyết H/O, một số nước có lợi thế so sánh hơn trong việc xuất khẩu một số sản phẩm hàng hoá của mình là do việc sản xuất những mặt hàng đã được sử dụng nhiều yếu tố sản xuất mà nước đó có lợi thế hơn một số nước khác. Chính sự ưu đãi về các lợi thế tự nhiên của các yếu tố sản xuất này (gồm vốn, lao động, tài nguyên, đất đai, khí hậu...) đã khiến một số nước có chi phí cơ hội thấp hơn ( so với việc sản xuất các sản phẩm hàng hoá khác) khi sản xuất các sản phẩm hàng hoá đó. Lý thuyết H/O còn đưa ra quy luật về tỷ lệ cân đối các yếu tố sản xuất mà về sau được các nhà kinh tế học mở rộng và phát triển. Nội dung của quy luật này là “một nước sẽ xuất khẩu loại hàng hoá mà việc sản xuất nó cần sử dụng yếu tố rẻ và tương đối sẳn có của nước đó và nhập khẩu những hàng hoá mà việc sản xuất nó cần nhiều yếu tố đắt và tương đối khan hiếm hơn ở nước đó”. Tuy còn có những khiếm khuyết lý luận trước thực tiễn phát triển phức tạp của thương mại quốc tế ngày nay, song quy luật này vẫn đang là quy luật chi phối động thái phát triển của thương mại quốc tế và có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn quan trọng đối với các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là đối với các nước chưa phát triển bởi vì những nước này đa số là những nước đông dân, thừa lao động nhưng nghèo vốn, do đó trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá đất nước cần tập trung xuất khẩu những hàng hoá sử dụng nhiều lao động và nhập khẩu những hàng hoá sử dụng nhiều vốn. Sự lựa chọn những hàng hoá xuất khẩu phù hợp với các lợi thế so sánh về các nguồn lực sản xuất vốn có như vậy sẽ là điều kiện cần thiết để các nước chưa phát triển, đang phát triển có thể nhanh chóng hội nhập vào sự phân công lao động và hợp tác thương mại quốc tế, và trên cơ sở lợi ích thương mại thu được sẽ thúc đẩy nhanh sự tăng trưởng và phát triển kinh tế ở nước này. 2. Các mô hình thương mại quốc tế được sử dụng trong hoạch định chính sách xuất khẩu Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, tuỳ vào việc lựa chọn chiến lược phát triển cho từng thời kỳ, các quốc gia đều áp dụng một chiến lược phát triển ngoại thương thích hợp với thời kỳ chiến lược đó. Tổng kết thực tiễn phát triển ngoại thương của các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển sau Thế chiến hai, có ba loại hình phát triển ngoại thương chủ yếu sau đây: 2.1 Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô dựa chủ yếu vào việc sử dụng rộng rãi các nguồn tài nguyên sẳn có và các điều kiện thuận lợi trong nước về các sản phẩm nông nghiệp và khai khoáng. Chiến lược này được thực hiện trong điều kiện trình độ sản xuất còn thấp, đặc biệt là trình độ của ngành công nghiệp và khả năng tích luỹ vốn của nền kinh tế còn bị hạn chế. Chiến lược này tạo điều kiện cho phát triển kinh tế theo chiều rộng, xuất hiện nhu cầu thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Sự phát triển các thị trường sản phẩm sơ khai sẽ dẫn đến tăng nguồn vốn đầu tư nước ngoài và tích luỹ trong nước, đồng thời giải quyết công ăn việc làm và tăng đội ngũ công nhân lành nghề, dẫn đến quy mô tăng sản xuất cho nền kinh tế. Chiến lược cũng tạo ra sự thay đổi cơ cấu kinh tế, góp phần tạo nguồn vốn ban đầu cho công nghiệp hoá. Tuy nhiên, sự phát triển dựa vào chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô cũng gặp nhiều hạn chế như cung- cầu sản phẩm thô không ổn định, giá cả sản phẩm thô thường có xu hướng giảm so với hàng công nghệ nên thu nhập từ xuất khẩu sản phẩm thô sẽ không ổn định gây bất lợi cho các nước xuất khẩu sản phẩm thô. Ngoài ra đây còn là chiến lược dựa hoàn toàn vào tài nguyên do vậy nó sẽ làm cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước. 2.2 Chiến lược thay thế nhập khẩu (IS- Import Substitution) Nội dung cơ bản của chiến lược này là đẩy mạnh sự phát triển của các ngành công nghiệp trong nước, trước hết là công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, sau đó là các ngành công nghiệp khác nhằm sản xuất sản phẩm nội địa thay thế các sản phẩm nhập khẩu. Ban đầu nên sản xuất các loại hàng tiêu dùng cơ bản mà trước đây phải nhập khẩu. Việc sản xuất này được coi là thay thế nhập khẩu lần thứ nhất. Sau đó, khi vốn tích luỹ được gia tăng và công nghệ trong nước đã được nâng cao sẽ tiến hành sản xuất các sản phẩm có trình độ công nghệ cao. Nội dung này được coi là thay thế nhập khẩu lần thứ hai. Để thực thi chiến lược này, điều kiện quan trọng nhất là phải có vai trò bảo hộ của Chính phủ; và đòi hỏi thị trường trong nước phải đủ lớn để đảm bảo cho sự phát triển của ngành hạn chế nhập khẩu. Trong thời gian đầu khi công nghiệp trong nước còn non trẻ, giá thành sản xuất thường cao hơn so với thị trường thế giới, Chính phủ cần xây dựng hàng rào bảo vệ bằng hình thức thuế quan hoặc hạn ngạch nhập khẩu. Cùng với các biện pháp này, các ngành công nghiệp non trẻ phải vươn lên cạnh tranh được với hàng nhập khẩu trên thị trường trong nước và theo đó sẽ giảm dần mức độ bảo hộ. Chiến lược này vì thế có tác dụng làm giảm mức độ trầm trọng trong thâm hụt cán cân thanh toán và thương mại quốc tế do giảm được lượng hàng hoá nhập khẩu và xuất khẩu thuần được cải thiện. Nhờ có sự bảo hộ của Chính phủ, các ngành công nghiệp “non trẻ” được nuôi dưỡng (đó là các ngành có bộc lộ lợi thế nhưng chưa đủ sức để cạnh tranh). Mặc dù chiến lược này có vẻ hấp dẫn về mặt lý thuyết, song lại chưa mấy thành công trong thực tế. Việc thay thế nhập khẩu thành công đòi hỏi phải quản lý được hai sự chuyển đổi rất khó khăn. Thứ nhất là, tạo ra một cơ cấu kinh tế năng động và hiệu quả một cách hợp lý đằng sau các hàng rào bảo hộ. Thứ hai là, chuyển từ bảo hộ sang một môi trường buôn bán cởi mở hơn. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy rằng việc đối phó với cả hai thách thức này đều rất khó. Những sai lệch do sự bảo hộ gây ra thường nghiêm trọng đến nỗi không thể đạt được sự tăng trưởng cao, bền vững ngay cả khi nền công nghiệp trong nước được bảo vệ trước sự cạnh tranh quốc tế, và quá trình chuyển từ bảo hộ sang mậu dịch tự do thường vấp phải sự phản đối quyết liệt từ các nhóm lợi ích. Sau một thời gian thực thi chiến lược này, nhiều nước đã tìm cách chuyển hướng chiến lược. Lý do cơ bản là chiến lược này có nhiều mặt hạn chế: Thứ nhất, nó làm giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước vì có thuế quan bảo hộ và được mua nguyên vật liệu đầu vào với giá rẻ. Nếu chi phí sản xuất tăng hay giá thị trường quốc tế của hàng nhập khẩu có sức cạnh tranh giảm thì phản ứng tự nhiên của các nhà sản xuất là quay sang Chính phủ để trông chờ bảo hộ. Do đó, thay vì bảo hộ sẽ giảm dần theo thời gian thì các nhà sản xuất lại trông chờ bảo hộ tăng lên. Thứ hai, chiến lược IS hạn chế xu hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Chiến lược này bắt đầu từ công nghiệp hàng tiêu dùng, sau đó tiếp tục tạo thị trường cho các nghành sản xuất sản phẩm trung gian. Nhưng vì thị trường trong nước đối với các sản phẩm trung gian thường nhỏ hơn thị trường hàng tiêu dùng nên có những trở ngại đối với việc đầu tư vào lĩnh vực này, do vậy, cần có sự bảo hộ. Sự bảo hộ này lại làm tăng giá đầu tư vào các nghành sản xuất hàng tiêu dùng. Để đảm bảo lợi nhuận, các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng vẫn tiếp tục phụ thuộc vào nguyên vật liệu nhập khẩu, làm cho các ngành sản xuất nguyên vật liệu không có khả năng phát triển, hạn chế sự hình thành cơ cấu công nghiệp đa dạng của đất nước. Thứ ba, việc thực thi chiến lược này làm nảy sinh nhiều tiêu cực. Bảo hộ bằng thuế quan dẫn đến tình trạng trốn, lậu thuế, hối lộ cán bộ thuế. Cuối cùng, chiến lược này làm tăng nợ nước ngoài của các nước đang phát triển. Do được bảo hộ nên các sản phẩm sản xuất trong nước không có khả năng cạnh tranh và khả năng tiêu thụ trên thị trường quốc tế, trong khi vẫn phải nhập khẩu máy móc thiết bị và nguyên vật liệu từ nước ngoài, làm cho tình trạng nhập siêu của những nước này ngày càng gia tăng. Đặc biệt đối với những nước có quy mô thị trường trong nước nhỏ bé và nguồn tài nguyên khan hiếm thì những hạn chế trên càng gia tăng. Chính vì những hạn chế này, các nước đang phát triển nhận thấy rằng chỉ có cách dựa vào thị trường quốc tế rộng lớn và họ đã tìm cách chuyển sang chiến lược hướng ngoại. 2.3 Chiến lược hướng về xuất khẩu (EP- Export Promotion) Chiến lược hướng về xuất khẩu là chiến lược hướng vào thị trường quốc tế để xuất khẩu sản phẩm, bao gồm cả xuất khẩu sản phẩm thô và sản phẩm công nghệ. Sản xuất xuất khẩu là những sản phẩm được sản xuất dựa vào lợi thế so sánh của đất nước. Tư tưởng cốt lõi của chiến lược hướng về xuất khẩu là lấy nhu cầu thị trường thế giới làm mục tiêu cho nền sản xuất trong nước, là cải tạo và chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc gia sao cho thích ứng với những đòi hỏi của thị trường quốc tế, là đặt nền kinh tế quốc gia trong quan hệ cạnh tranh trên thị trường quốc tế nhằm phát huy lợi thế so sánh của quốc gia.Việc thực thi chiến lược hướng về xuất khẩu đã giúp cho các nước đang phát triển đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá đất nước. Trước hết, chiến lược EP tạo ra khả năng xây dựng cơ cấu kinh tế mới, năng động. Sự phát triển các ngành công nghiệp trực tiếp xuất khẩu đã tác động đến các ngành công nghiệp cung cấp đầu vào cho các ngành xuất khẩu tạo ra “mối liên hệ ngược” thúc đẩy sự phát triển của các ngành này.Bên cạnh đó, khi tích luỹ của nền kinh tế được nâng cao thì sản phẩm thô sẽ tạo ta “mối liên hệ xuôi” là cung cấp nguyên liệu đầu vào cho các ngành công nghiệp chế biến và mối liên hệ xuôi này tiếp tục được phát triển. Sự phát triển của tất cả các ngành này sẽ làm tăng thu nhập của người lao động, tạo ra “mối liên hệ gián tiếp” cho sự phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và dịch vụ. Thứ hai, chiến lược EP tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước ngày càng lớn mạnh, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Bởi vì chiến lược này làm cho các doanh nghiệp phụ thuộc vào thị trường thế giới nhiều hơn thị trường trong nước, do vậy các doanh nghiệp muốn đứng vững trong cạnh tranh phải dựa vào các tiêu chuẩn quốc tế. Thời kỳ đầu có thể có sự trợ giúp của Nhà nước, song muốn tiếp tục tồn tại thì phải tự khẳng định vị trí của mình. Mặt khác, thị trường quốc tế rộng lớn sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thu được hiệu quả nhờ quy mô sản xuất lớn. Thứ ba, chiến lược EP còn tạo nguồn thu nhập ngoại tệ đáng kể cho đất nước. Nguồn thu ngoại tệ này vượt xa các thu nhập khác, kể cả vốn vay là đầu tư nước ngoài. Đối với nhiều nước đang phát triển, ngoại thương đã trở thành nguồn tích luỹ chủ yếu trong giai đoạn đầu của sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước. Đồng thời có ngoại tệ đã tăng được khả năng nhập khẩu công nghệ, máy móc thiết bị và nguyên liệu cần thiết cho sự phát triển các ngành công nghiệp. *** Về lý thuyết chiến lược phát triển ngoại thương của Việt Nam có thể được xem là sự kết hợp giữa khuyến khích xuất khẩu và thay thế nhập khẩu. Tuy nhiên, trên thực tế chính sách và hoạt động thương mại trong thời gian qua của Việt Nam cho thấy chiến lược thay thế nhập khẩu vẫn được thể hiện một cách rõ ràng hơn. Nhà nước đã khuyến khích nhập khẩu các hàng hoá tư bản, nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng kim ngạch nhập khẩu, trong khi tỷ trọng hàng tiêu dùng ngày nhỏ và giảm.Chính sách bảo hộ có khi được áp dụng một cách tràn lan, làm cho người tiêu dùng phải trả giá đắt khi mua hàng hoá, tình trạng buôn lậu gia tăng, khả năng cạnh tranh của sản phẩm kém. Trong cơ cấu hàng hoá xuất khẩu, các sản phẩm nông nghiệp và các sản phẩm thô vẫn là chủ yếu. Một số nội dung trong chính sách thương mại cũng có phần chưa thật rõ ràng, ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển lâu dài của nền kinh tế. Đặc biệt khi mà thời gian thực hiện các cam kết của AFTA và APEC đang đến gần, nếu không có các chủ trương, biện pháp thích hợp và kịp thời thì sẽ không tận dụng được những thuận lợi do hội nhập kinh tế quốc tế mang lại và bị thua thiệt khi thực hiện tự do hoá thương mại. Vai trò của xúc tiến thương mại đối với thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế 1.Khái niệm về xúc tiến thương mại (XTTM) và một số vấn đề liên quan Xúc tiến thương mại (XTTM) 1.1.1 Xúc tiến thương mại là gì? Theo cách hiểu truyền thống, XTTM là hoạt động trao đổi và hỗ trợ trao đổi thông tin giữa bên bán và bên mua, hoặc qua khâu trung gian nhằm tác động tới thái độ và hành vi mua bán và qua đó thúc đẩy việc mua bán và trao đổi hàng hoá, dịch vụ. Như vậy theo định nghĩa này, XTTM là nhằm mở rộng và phát triển thị trường là chủ yếu. Theo Luật Thương mại Việt Nam do Quốc hội khoá IX nước CHXHCN Việt Nam thông qua ngày 10.5.1997 thì: “XTTM là hoạt động nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ thương mại” (điều 5, khoản 5); Bộ Thương mại là cơ quan quản lý Nhà nước về tổ chức, hướng dẫn các hoạt động xúc tiến thương mại (điều 245). 1.1.2 Hoạt động XTTM Các hoạt động cụ thể trong lĩnh vực XTTM bao gồm: Các hoạt động thông tin thương mại và nghiên cứu thị trường Các hoạt động tuyên truyền, quảng cáo, triển lãm
Tài liệu liên quan