Điều trị phẫu thuật u nang thượng bì nội sọ

Mục tiêu: Đánh giá đặc điểm lâm sàng, hình ảnh học và kết quả điều trị phẫu thuật của u nang thượng bì (UNTB) nội sọ. Phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu mô tả hàng loạt ca. Từ tháng 1/2008 đến tháng 06/2012 có 44 trường hợp u nang thượng bì được phẫu thuật tại khoa Ngoại Thần kinh-BV Chợ Rẫy. Tác giả đã mô tả các dấu hiệu lâm sàng của UNTB, tất cả bệnh nhân đều được đánh giá hình ảnh dựa vào MRI não. Tình trạng trước mổ được đánh giá bằng thang điểm Glasgow và Karnofsky. Kết quả phẫu thuật đánh giá lúc ra viện bằng điểm GOS, lấy hết u và biến chứng sau mổ. Kết quả: Tuổi trung bình của 15 nam (34%) và 29 nữ (66%) là 39,4 ± 11,2 tuổi (14 -59). Triệu chứng lâm sàng gồm: đau đầu (91%), đau dây V (32%), dấu tiểu não (32%) và yếu nửa người là 11,4%. UNTB dưới lều chiếm 61,3%, thường gặp ở góc cầu tiểu não (45,5%), u trên lều chủ yếu là ở thùy thái dương (16%). Kết quả lấy toàn bộ u-hết bao là 41%, có 1 trường hợp tử vong do mổ (2,3%), 1 trường hợp máu tụ ngoài màng cứng hố mổ (2,3%) và 1 máu tụ dưới màng cứng hố mổ, không có biến chứng viêm màng não hay dò dịch não tủy sau mổ. 95,6 % có kết quả tốt sau mổ với tỉ lệ hồi phuc là 84,1% và di chứng vừa 11,4%. Kết luận: UNTB có lâm sàng đa dạng, phẫu thuật là điều trị duy nhất, độ an toàn và hiệu quả cao. Kế hoạch phẫu thuật là lấy càng nhiều bao u càng tốt nhưng có thể để lại bao u dính vào cấu trúc quan trọng

pdf6 trang | Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 155 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Điều trị phẫu thuật u nang thượng bì nội sọ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Hội Nghị Phẫu thuật Thần Kinh TP. HCM - 2012 206 ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT U NANG THƯỢNG BÌ NỘI SỌ Huỳnh Lê Phương*, Trần Thiện Khiêm* TÓM TẮT Mục tiêu: Đánh giá đặc điểm lâm sàng, hình ảnh học và kết quả điều trị phẫu thuật của u nang thượng bì (UNTB) nội sọ. Phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu mô tả hàng loạt ca. Từ tháng 1/2008 đến tháng 06/2012 có 44 trường hợp u nang thượng bì được phẫu thuật tại khoa Ngoại Thần kinh-BV Chợ Rẫy. Tác giả đã mô tả các dấu hiệu lâm sàng của UNTB, tất cả bệnh nhân đều được đánh giá hình ảnh dựa vào MRI não. Tình trạng trước mổ được đánh giá bằng thang điểm Glasgow và Karnofsky. Kết quả phẫu thuật đánh giá lúc ra viện bằng điểm GOS, lấy hết u và biến chứng sau mổ. Kết quả: Tuổi trung bình của 15 nam (34%) và 29 nữ (66%) là 39,4 ± 11,2 tuổi (14 -59). Triệu chứng lâm sàng gồm: đau đầu (91%), đau dây V (32%), dấu tiểu não (32%) và yếu nửa người là 11,4%. UNTB dưới lều chiếm 61,3%, thường gặp ở góc cầu tiểu não (45,5%), u trên lều chủ yếu là ở thùy thái dương (16%). Kết quả lấy toàn bộ u-hết bao là 41%, có 1 trường hợp tử vong do mổ (2,3%), 1 trường hợp máu tụ ngoài màng cứng hố mổ (2,3%) và 1 máu tụ dưới màng cứng hố mổ, không có biến chứng viêm màng não hay dò dịch não tủy sau mổ. 95,6 % có kết quả tốt sau mổ với tỉ lệ hồi phuc là 84,1% và di chứng vừa 11,4%. Kết luận: UNTB có lâm sàng đa dạng, phẫu thuật là điều trị duy nhất, độ an toàn và hiệu quả cao. Kế hoạch phẫu thuật là lấy càng nhiều bao u càng tốt nhưng có thể để lại bao u dính vào cấu trúc quan trọng. Từ khóa: U nang thượng bì, phẫu thuật ABSTRACT THE SURGICAL TREATMENT OF INTRACRANIAL EPIDERMOID CYST Huynh Le Phuong, Tran Thien Khiem * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 4 - 2012: 206 - 211 Objective: To evaluate the clinical feature, radiology and results of surgical treatment of epidermoid cysts. Methods: Retrospective descriptive study, 44 patients with epidermoid cysts who underwent surgery at the Neurosurgery department of Cho Ray Hospital from 1/2008 to 06/2012. We descriptive clinical features of epidermoid cysts, diagnosis were made by MRI of the brain. All patients were assessed by the GCS and Karnofsky scale in the preoperative. The post-operative results were evaluated by GOS, total tumoral remove and complication on the discharge time. Results: Mean age of the 15 male (34%) and 29 female (66%) patient was 39.4 ± 11.2 years (ranging 14- 59 years). Clinical features consisted of: headache (91%), trigeminal neuralgia (32%), cerebellar signs (32%) and hemiparesis (11.4%). The infratentorial tumors (61.3%), the highest incidence of the tumor was cerebellopontine angle (45.5%). The main supratentorial tumors is the temporal lobe (16%). 41% totally removed. One patient died in this study. Complications in surgical group include one of epidural hematoma (2.3%) and one case of the subdural hematoma (2.3%). There were no meningitis, or CFS leakage. 95.6% patients had post-operative good outcome (good recovery: 84.1% and moderate disability 11.4%). *Khoa Ngoại thần kinh, bệnh viện Chợ Rẫy Tác giả liên hệ: TS, BS Huỳnh Lê Phương, ĐT: 0909225188, Email: phuongsds@yahoo.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Phẫu thuật Thần Kinh TP. HCM - 2012 207 Conclusions: The surgical treatment of epidermoid cyst was safe and effective treatment. The surgical plan is to remove as much as possible but can leave capsule adherent to critical structures Key words: Epidermoid cyst, surgical treatment MỞ ĐẦU U nang thượng bì (UNTB) là một thương tổn bẩm sinh lành tính hiếm gặp, chiếm tỉ lệ từ 1 ~2 % các loại u trong sọ(1,4). UNTB có nguồn gốc từ ngoại bì phôi và được hình thành do sự tách không hoàn toàn giữa ngoại bì da và ngoại bì thần kinh trong giai đoạn đóng ống thần kinh xảy ra vào tuần thứ 3 đến tuần thứ 5 của thai kì. Vì có nguồn gốc khiếm khuyết bẩm sinh trong phôi thai, UNTB thường gặp ở những vị trí xa đường giữa trong sọ. Tuy nhiên, cũng có thể gặp UNTB ở nhiều vị trí khác như: vùng trên yên, sàn não thất IV, vùng tuyến tùng, thể chai, trong mô não, trong tủy sống và xương sọ. Trong đó vị trí vùng GCTN chiếm tỉ lệ cao nhất, khoảng 40%-50% tổng số ca UNTB nội sọ và đứng hàng thứ ba trong các loại u não tại vùng này sau u sợi thần kinh và u màng não. UNTB không nhạy cảm với tia xạ, do đó điều trị phẫu thuật là lựa chọn hàng đầu. Phẫu thuật, lấy toàn bộ u là lý tưởng nhất và mục tiêu của điều trị phẫu thuật là giảm được tỉ lệ tái phát và biến chứng viêm màng não sau mổ. Từ hơn nửa thế kỷ nay đã có nhiều báo cáo về phẫu thuật UNTB nội sọ cho kết quả khả quan như trong báo cáo của tác giả Yasargil năm 1989 với tỉ lệ lấy toàn phần u là 95%. Tuy nhiên, ngoài việc u liên quan mật thiết với các cấu trúc thần kinh mạch máu quan trọng, vỏ bao của chúng còn dính chặt vào các cấu trúc này làm cho phẫu thuật lấy toàn bộ u vẫn là một thực tế khó khăn. Ở nước ta có rất ít các báo cáo về u này và số lượng cỡ mẫu nhỏ. Bệnh viện Chợ Rẫy chúng tôi ghi nhận hằng năm có từ 12~15 trường hợp UNTB được chẩn đoán và điều trị phẫu thuật. Cho đến nay trong y văn vẫn còn có những ý kiến trái ngược nhau về vấn đề nên lấy hết u hay không. Nhiều tác giả cho rằng lấy hết u để tránh tái phát, trong khi vài tác giả lại khuyên không nên quá cố gắng để tránh biến chứng do phẫu thuật, đây là vấn đề còn bàn cãi. Trên cơ sở Khoa Ngoại thần kinh BV Chợ Rẫy, tỉ lệ bệnh lý này tập trung số lượng lớn là cơ sở để chúng tôi tiến hành đề tài này ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu 44 trường hợp UNTB nội sọ được phẫu thuật từ tháng 01/2008- 06/2012. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp Hồi cứu mô tả hàng loạt ca Cách thức tiến hành Thu thập các dữ liệu lâm sàng và cận lâm sàng, kết quả phẫu thuật với mẫu bệnh án được thiết kế sẵn cho tất cả bệnh nhân mổ u não có kết quả giải phẫu bệnh là UNTB não Các biến số nghiên cứu bao gồm:Thông tin cá nhân: tuổi, giới, nghề nghiệp, lý do nhập viện, thời gian bệnh sử, tiền sử, triệu chứng lâm sàng gồm cơ năng và thực thể. Tri giác được đánh giá theo thang điểm Glasgow, tình trạng sức khỏe trước mổ đánh giá dựa theo thang điểm Karnofsky. Khảo sát hình thái u dựa trên CT, MRI: vị trí, tính chất. Kỹ thuật mổ: lấy hết u, có sử dụng vi phẫu. Biến chứng sau mổ, tình trạng xuất viện được đánh giá theo thang điểm GOS Xử lí số liệu bằng phần mềm thống kê SPSS 13.0. KẾT QUẢ Trong thời gian 3,5 năm, chúng tôi đã phẫu thuật 44 trường hợp UNTB não. Tuổi trung bình của 15 nam (34%) và 29 nữ (66%) là 39,4 ± 11,2 tuổi (14- 59), trải đều ở các nhóm tuổi, nữ gần gấp đôi nam. Đặc điểm lâm sàng của UNTB não được trình bày trong bảng 1. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Hội Nghị Phẫu thuật Thần Kinh TP. HCM - 2012 208 Bảng 1. Đặc điểm lâm sàng của UNTB não Đặc điểm Số lượng (%) Bệnh sử kéo dài < 3 tháng 17 (38,6%) 3- 6 tháng 6 (13,6%) > 6 tháng 21 (47,7%) Triệu chứng lâm sàng Đau đầu 40 (91%) Ói 13 (29,5%) Hội chứng tiểu não 14 (32%) Yếu liệt nửa người 5 (11,4%) Rối loạn chức năng dây VVIII 5 (11,4%) Giảm thị lực 4 (9%) Liệt mặt ngoại biên 3 (6,8%) Liệt dây IX, X Động kinh 2 (4,5) 2 (4,5%) Sụp mi 1 (2,3%) Tình trạng trước mổ được chúng tôi đánh giá bằng thang điểm Glasgow và thang điểm Karnofsky, thể hiện trong bảng 2: Bảng 2: Tình trạng trước mổ Điểm GCS trước mổ 13-15 điểm 44(100%) Điểm Karnofsky trước mổ <70 3 (6,8%) 70-80 30 (68,2%) 90 11 (25%) Trung bình 76,6± 9,8 Tất cả bệnh nhân đều được chẩn đoán bằng MRI não và chỉ có 23 trường hợp bệnh nhân được chụp CT trước mổ. U dưới lều chiếm 61,3%, trong đó thường gặp nhất là vùng góc cầu tiểu não (45,5%). U trên lều 36,4% chủ yếu là thùy thái dương (16%), các đặc điểm khác trình bày trong bảng 3. Bảng 3. Vị trí UNTB ở não Vị trí u trên lều n=44 Thái dương 7 (16%) Đính 1 (2,3%) Chẩm 3 (6,8%) Vùng yên 2 (4,5%) Xoang hang 4 (9%) Vị trí u dưới lều Góc cầu tiểu não 20 (45,5%) Não thất bên 1 (2,3%) Não thất III 1 (2,3%) Não thất IV 4 (9,1%) Tiểu não 2 (4,5%) Hầu hết chúng tôi chẩn đoán bằng hình ảnh trước mổ khá chính xác, chỉ vài trường hợp chẩn đoán lầm với u sao bào độ thấp và nang màng nhện, số liệu được trình bày trong bảng 4 Bảng 4: Chẩn đoán trước mổ Chẩn đoán trước mổ UNTB 39 (88,6%) U sao bào 3 (6,8%) Nang màng nhện 2 (4,5%) Tính chất u được chúng tôi phân tích chi tiết trên hình MRI, chỉ có 23 bệnh nhân có chụp CT trước mổ và cũng được phân tích cụ thể trong bảng 5 và bảng 6. Bảng 5. Đặc điểm hình ảnh CT của UNTB Đặc điểm trên CT (n=23) Đồng đậm độ 3 (13%) Giảm đậm độ 20 (87%) Bắt thuốc cản quang 1 (4,3%) Lắng đọng canxi 3 (13%) Bảng 6. Hình ảnh MRI của UNTB Đặc điểm u trên MRI n=44 T1W Đồng tín hiệu 1(2,3%) Giảm tín hiệu 41 (93,2%) Tăng tín hiệu 2(4,5%) T2W Đồng tín hiệu 1 (2,3%) Giảm tín hiệu 1 (2,3%) Tăng tín hiệu 42(95,4%) Hạn chế khuếch tán (n=24) 24 (100%) Bắt thuốc tương phản từ Không 38 (86,4%) Viền hoàn toàn 4 (9 %) Bắt rải rác 2 (4,5%) Bao bọc thần kinh 29 (66%) Bao bọc mạch máu 32 (72,7%) Kết quả phẫu thuật hết u được phẫu thuật viên đánh giá trong lúc mổ kết hợp với CT sau mổ được trình bày trong bảng 7 dưới đây: Bảng 7. Kết quả phẫu thuật Kết quả lấy u Số lượng (%) Toàn bộ u- bao u 18 (41%) Toàn bộ u- còn bao 21 (47,7%) Bán phần 5 (11,4%) CT não cản quang kiểm tra được thực hiện trong vòng 24- 48 giờ đầu sau mổ, tình trạng Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Phẫu thuật Thần Kinh TP. HCM - 2012 209 phù não cũng như biến chứng máu tụ sau mổ cũng được đánh giá và điều trị kịp thời. Bảng 8: Biến chứng sau mổ Biến chứng sau mổ Máu tụ DMC 1 (2,3%) Máu tụ NMC 1 (2,3%) Dập phù não hố mổ 1 (2,3%) Kết quả sớm được đánh giá lúc ra viện (7-15 ngày sau mổ) theo thang điểm GOS và được thể hiện trong bảng 9. Bảng 9: Kết quả lúc ra viện Hồi phục 37 (84,1%) Di chứng vừa 5 (11,4%) Di chứng nặng 1 (2,3%) Tử vong 1 (2,3%) Tổng số 44 (100%) BÀN LUẬN Tuổi trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi là 39,4 ± 11,2 tuổi, phân bố rải đều ở các nhóm tuổi, tỉ lệ nam: nữ là 1: 1,9. Điều này cũng tương tự với nhiều nghiên cứu trên thế giới là u thường gặp ở người tuổi trưởng thành, ít gặp ở trẻ em và không có sự khác biệt ở hai giới(7,9) Khi so với các tác giả khác chúng tôi nhận thấy tuổi của UNTB thường gặp quanh độ tuổi 40 như tác giả Akar là 40 (22-69), Yamkawa 35,5 (19-58)và Yasargil là 37 tuổi (18-62). Ngày nay đa số tác giả đều cho rằng đây là loại thương tổn bẩm sinh do sư vùi của những yếu tố ngoại bì trong giai đoạn đóng ống thần kinh tại tuần thứ 3-5 của phôi. Tuy nhiên loại u này phát triển rất chậm do không phải tăng sinh như những u thực thụ mà lớn lên bằng cách tích tụ những sản phẩm của quá trình tróc vẩy của lớp biểu mô, do đó khi bệnh lớn tuổi mới biểu hiện bệnh (2). Theo y văn, không có sự khác biệt về giới trong UNTB(7,9) nhưng trong nghiên cứu của chúng tôi thấy nữ gần gấp đôi nam. Điều này có thể do cỡ mẫu còn nhỏ, cách chọn mẫu thuận tiện theo thiết kế mô tả hàng loạt ca nên tính đại điện về giới tính chưa cao. UNTB có thể gặp nhiều vị trí trong não, tùy thuộc vào vị trí và mức độ xâm lấn mà chúng có những biểu hiện lâm sàng khác nhau. Đau đầu cũng là triệu chứng khá thường gặp chiếm 91% nhưng không đặc hiệu. Đau có thể do liên quan đến sự kéo căng của sự đè ép màng cứng hoặc các dây thần kinh kế cận, đôi khi do tăng áp lực nội sọ hay đầu nước tăc nghẽn. Vùng góc cầu tiểu não chiếm tỉ lệ cao nhất trong nghiên cứu của chúng tôi 20/44 (45,5%). Do vùng giải phẫu phức tạp này gồm tiểu não, thân não và các thần kinh mạch máu quan trọng nên chúng có biểu hiện lâm sàng khá đa dạng, nổi bật nhất là đau dây V (32%), hội chứng tiểu não (31,8%) với biểu hiện triệu chứng cơ năng như: ói (29,5%), chóng mặt, tăng áp lực nội sọ. Vì vậy trước một bệnh nhân đau dây V chúng ta cần phải xác định xem có UNTB ở góc cầu tiểu não hay không. Có 5 trường hợp (11,4%) giảm thính lực, ù tai do rối loạn chức năng dây VIII và không trường hợp nào co giật nửa mặt như Kobata đã báo cáo(3). Cũng cùng loại bệnh lí UNTB nhưng mỗi tác giả lại đưa ra triệu chứng lâm sàng thường gặp nhất khác nhau như: tác giả De Sousa đã báo cáo đến 50% bệnh nhân có liệt VII ngoại biên, Kobata thì 90,6% là đau dây V, Samii lại thấy 55% giảm thính lực, còn Schiefe lại thấy chủ yếu là đau đầu (67%). Đối với u bán cầu đại não chúng tôi thấy nhiều là ở thùy thái dương (16%), các thùy chẩm và đính ít gặp, triệu chứng thường nghèo nàn với đau đầu do u lớn hay động kinh (4,5%). Yếu liệt nửa người gặp 5 trường hợp (11,4%) và xuất hiện ở những u kích thước lớn chèn ép vùng vận động. Tâm thần hay sa sút trí tuệ ở những u trên lều cũng đã được báo cáo nhưng không xuất hiện trong lô nghiên cứu này. Chúng tôi có 4 ca (9%) UNTB vùng xoang hang, đây là vị trí hiếm gặp và cũng chỉ được báo cáo vài ca trong y văn(8). Lâm sàng chủ yếu là các triệu chứng chèn ép dây thần kinh sọ nằm trong xoang hang như trong nghiên cứu của chúng tôi song thị (2,3%), sụp mi (2,3%) hay tê nửa mặt. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Hội Nghị Phẫu thuật Thần Kinh TP. HCM - 2012 210 Có 6 trường hợp UNTB trong não thất gồm 4/44 (9 %) trường hợp ở não thất IV, 1/44 ở não thất III và 1/ 44 ở não thất bên chiếm 2,3%. Đối với u vùng này chủ yếu gây ra đầu nước lâm sàng biểu hiện với đau đầu, mờ mắt, ói và có trường hợp bệnh nhân lơ mơ mà chúng tôi cũng đã ghi nhận ở trên Bản chất của UNTB là những mảnh vụn keratin và cholesterol, đôi khi là protein và calci. Đậm độ trên CT được quyết đỉnh bởi nồng độ của các chất này. Osborn(5) nhận thấy trong hầu hết các ca đậm độ u giống như dịch não tủy và tín hiệu thường đồng nhất. Trong 44 ca chúng tôi có chụp CT 23 trường hợp trước mổ, đậm độ giống dịch não tủy được thấy trong 20 trường hợp (87%), 13 % trường hợp hơi tăng nhẹ so với dịch não tủy. Đối với nhiều loại u nội sọ khác, hình CT hữu ích trong việc đánh giá và chẩn đoán. Nhưng riêng với UNTB vì đậm độ của loại thương tổn này tương tự với dịch não tủy, hơn nữa vị trí thường gặp của nang thượng bì lại là ở các khoang dịch não tủy. Vả lại hầu hết không bắt thuốc cản quang hay đôi khi có viền nhẹ nên việc chẩn đoán phân biệt với nang màng nhện là cần thiết và thực tế trong nghiên cứu của chúng tôi có 2 trường hợp chẩn đoán trước mổ nhầm với nang màng nhện vì vậy chỉ dựa vào CT là rất khó khăn. Ngoài ra chúng tôi cũng có 3 trường hợp (6,8%) có vôi hóa trong u, tỉ lệ này có thấp hơn so với y văn (20%)(6). Tất cả bệnh nhân đều được chẩn đoán bằng MRI não, các đặc điểm hình ảnh học của u được tác giả đánh giá cụ thể. U trên lều chiếm 36,4 %, thường gặp ở thùy thái dương (16%). Chúng tôi thực hiện các chuỗi xung T1W, T2W và T2 khử nước cho thấy tín hiệu của UNTB hầu hết là giống với dịch não tủy, không bắt thuốc và 100% không có phù não quanh u. Nếu chỉ dựa vảo MRI thông thường để chẩn đoán cần chú ý đến bệnh sử vị trí và hình dạng tổn thương, đẩy lệch cấu trúc não mà không xâm lấn, không thấy phù não xung quanh(3). Vì vậy cần thiết phải làm chuỗi xung khuếch tán, chuỗi xung này cho thấy sự khác biệt giữa dịch não tủy và nang màng nhện. Tín hiệu của UNTB cao hơn nhiều so với dịch não tũy và nhu mô não xung quanh. Trong 24 trường hợp chụp hình khuếch tán cho thấy 100% các trường hợp có hiện tượng hạn chế khuếch tán. Đây là hình ảnh có độ nhạy và độ đặc hiệu cao và rất hữu ích trong việc đánh giá còn u sau mổ hay không. Chụp CT não cản quang kiểm tra được thực hiện trong vòng 24-48 giờ sau mổ. Các biến chứng như máu tụ trong sọ, phù não sau mổ cũng được đánh giá và điều trị tích cực. Tỉ lệ lấy toàn bộ u- bao u và toàn bộ u- còn bao lần lượt là 41% và 47,7%. Các bệnh nhân chúng tôi mổ hầu hết có thang điểm Glassgow 13-15 điểm (100%), và tình trạng tổng quát còn tốt, 93,2% có điểm Karnofsky trên 70 điểm. Điểm Karnofsky và glassgow cao thể hiện tình trạng thần kinh ổn định cũng như tình trạng tòan thân còn khá tốt, nó là yếu tố tiên lượng rất có giá trị cho kết quả điều trị phẫu thuật. Kết quả lấy toàn bộ u cao, các biến chứng sau mổ cũng rất thấp, có 1 trường hợp (2,3%) máu tụ ngoài màng cứng hố mổ cũng đã được phẫu thuật kịp thời cho kết quả tốt, 1 trường hợp máu tụ dưới màng cúng hố mổ ít chúng tôi điều trị bảo tồn cũng cho kết quả tốt. Những khó khăn chúng tôi nhận thấy khi phẫu thuật u này là: Thứ nhất u thường ở vị trí khó như các bể dịch não tuỷ vùng sàn sọ, góc cầu tiểu não hay não thất, gặp trong 30/44 (73%) trường hợp. Hai là vỏ bao u có khuynh hướng dính vào các mô lân cận khiến việc lấy toàn bộ u là một thách thức không nhỏ, chỉ có 18/44 trường hợp (41%) lấy toàn bộ u. Ba là u thường xâm lấn ra khỏi vị trí nguyên phát nên mục tiêu lấy toàn bộ u để giảm tái phát không thể thực hiện được trên hầu hết các ca. Thứ tư là đôi khi u bao bọc mạch máu thần kinh khi lấy u rất dễ gây tổn thương. Thứ năm là đôi khi u lắng đọng canxi ở vùng rìa u làm khó khăn cho việc bóc tách bao u vì dễ gây thương tổn não quan trọng. Tuy nhiên có những thuận lợi trong phẫu thuật u này mà ít gặp ở những loại u khác trong sọ như: Thứ nhất u dễ vỡ vụn, có thể lấy nhẹ nhàng tránh thao tác quá mạnh, chúng tôi ghi nhận điều này 100%. Thứ hai là u không phát triển mạng mạch máu nuôi Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Phẫu thuật Thần Kinh TP. HCM - 2012 211 là 2 yếu tố thuận lợi quan trọng nhất, việc cầm máu không khó khăn gì và làm giảm biến chứng tụ máu hố mổ và trong nghiên cứu này không có trường hợp nào máu tụ hố mổ. Thuận lợi thứ 3 được thấy rõ ràng nhất với những u có kích thước lớn như Yasargil(10), Samii(7) báo cáo là: khi lấy toàn bộ u trong lòng mô não không giản nở trở lại vùng bị chiếm chỗ trước đó bởi u, do đó tạo ra một kênh phẫu thuật giúp duy trì việc lấy u ở vùng xa hay bóc tách u mà không phải vén não nhiều, ghi nhận ở hầu hết các trường hợp mà chúng tôi mổ. Thứ tư là cho dù u có kích thước lớn cũng không thấy phù não trên hình ảnh học, như đã phân tích phần hình ảnh học, do đó không những tạo thuận lợi trong mổ mà còn ít bị dập phù não hay tổn thương não do vén hay thao tác của phẫu thuật viên. Trong lô nghiên cứu của chúng tôi có 1 trường hợp (2,3%) UNTB vùng góc cầu tiểu não đã tử vong do làm đứt tĩnh mạch đá trong lúc mổ và vén não nhiều dẫn đến dập tiểu não xuất huyết sau mổ. Kết quả sau mổ cho thấy tỉ lệ hồi phục cao và di chứngvừa lần lượt là 84,1% và 11,4% Theo dõi trong thới gian dài về vấn đề tái phát u chúng tôi chưa thể thực hiện. Thực tế khả năng tái phát u phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: vị trí u, lấy hết bao u không, sự lan rộng cũng như bao boc cấu trúc thần kinh mạch máu và thực tế trong nghiên cứu của chúng tôi có 66% các u bao bọc mạch máu và 72% u bao bọc các dây thần kinh sọ làm cho việc lấy bao u bị hạn chế. KẾT LUẬN UNTB có lâm sàng đa dạng, phẫu thuật là điều trị duy nhất, độ an toàn và hiệu quả cao. Kế hoạch phẫu thuật là lấy càng nhiều bao u càng tốt nhưng có thể để lại bao u dính vào cấu trúc quan trọng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Greenberg MS (2010). Brain tumor. In: Greenberg Mark: Handbook of neurosurgery, seventh edition, pp 688-691.Thieme, New York. 2. Kallmes DF (1997). Typical and atypical MR imaging featuresof intracranial epidermoid tumors. AJNR, 169: 883-890. 3. Kobata H, Kondo A (2002). Cerebel